Câu lạc bộ Dumas - Chương 14 - Phần 1
XIV. NHỮNG HẦM RƯỢU Ở MEUNG
Đó là một đêm buồn thảm.
P.du Terrail, ROCAMBOLE.
Đó là một đêm buồn thảm. Dòng sông Loire hùng hổ
dâng nước lên, đe dọa tràn qua những dải đê già cỗi bao quanh thị trấn Meung
nhỏ bé. Cơn bão bắt đầu điên cuồng từ chiều hôm trước. Thỉnh thoảng một tia
chớp lòe trên hình khối đen sẫm của tòa lâu đài, tạo thành những vệt sáng ngoằn
ngoèo đứt đoạn giống như vết roi quất trên những vỉa hè vắng tanh ướt đẫm của
thị trấn từ thời Trung cổ. Xa xa bên kia sông, lá bị bứt khỏi cành bay tán loạn
trong mưa giông, tuồng như cơn lốc đi qua quết thành một đường chia rẽ quá khứ
gần và hiện tại xa, có thể nhìn thấy những ngọn đèn pha ô tô từ từ di chuyển
trên đường cao tốc Tours đi Orléans.
Ở quán Saint-Jacques, khách sạn duy nhất ở Meung,
vẫn còn cửa sổ để đèn. Ánh sáng chiếu lên một mảnh sân dẫn ra ngoài phố. Trong
phòng, một thiếu phụ cao lớn, hấp dẫn, mớ tóc vàng buộc túm sau gáy, đang mặc
váy áo trước gương. Cái váy đã kéo khóa lên che kín hình xăm hoa huệ trên hông.
Ả đứng thẳng người, hai tay quặt ra sau gài móc cái nịt vú đỡ bộ ngực trắng đồ
sộ rung rinh theo từng cử động. Rồi ả mặc một cái áo khoác lụa vào. Vừa cài
khuy, ả vừa cười với ả trong gương, chắc chắn là hài lòng thấy mình đẹp. Hẳn là
ả chuẩn bị cho một cuộc hẹn hò, vì chẳng mấy ai sửa soạn trang phục lúc mười
một giờ khuya, trừ phi sắp đi gặp ai đấy. Mặc dù có lẽ nụ cười ẩn giấu sự tàn
bạo của ả là vì cái kẹp giấy bìa da mới nằm trên giường có chứa bản thảo Rượu
vang Anjou của Alexandre Dumas bố.
Một tia chớp soi sáng mảnh sân nhỏ bên ngoài. Bên
dưới mái hiên nước rỏ giọt, Lucas Corso hút nốt điếu thuốc ẩm rồi quăng xuống
đất. Gã dựng cổ áo lên che mưa gió. Dưới ánh chớp lóe mãnh liệt như đèn flash
của một chiếc máy ảnh khổng lồ, gã thấy khuôn mặt xanh lè như người chết của
Flavio La Ponte ẩn hiện giữa tối và sáng, mớ tóc và bộ ria sũng nước. La Ponte
trông như một thầy tu đau khổ, hoặc có thể như Athos câm lặng vì tuyệt vọng, u
sầu vì trừng phạt. Một hồi lâu không có chớp, nhưng Corso có thể nhận ra, trong
cái bóng đen thứ ba khom mình bên cạnh họ dưới những mái chìa, đường nét thanh
mảnh của Irene Adler cuộn mình trong áo khoác len. Khi một tia chớp cuối cùng
rạch chéo bầu trời đêm và tiếng sấm dội ầm ầm lên những mái nhà bằng đá đen,
cặp mắt xanh sáng rực của cô chợt lóe lên dưới cái mũ trùm đầu gắn liền với áo
khoác.
Hành trình tới Meung ngắn và căng thẳng. Một
khoảng thời gian kinh hoàng trong chiếc xe do La Ponte thuê: đường cao tốc
Paris đi Orléans, rồi mười sáu cây số đến Tours. La Ponte ngồi ở ghế hành
khách, nghiên cứu tấm bản đồ Michelin mua ở trạm xăng dưới đốm sáng của điếu
thuốc lá. La Ponte hoang mang. Không xa nữa đâu, tôi nghĩ ta đi đúng
hướng. Phải, chắc thế. Cô gái ngồi trên ghế sau, lặng lẽ. Cô chăm chú
nhìn Corso, và gã bắt gặp ánh mắt cô trong gương mỗi khi một chiếc xe sáng rực
vượt qua họ. La Ponte đã nhầm, đương nhiên. Họ bỏ lỡ mất chỗ rẽ mà đi theo
hướng tới Blois. Khi nhận ra đã nhầm đường, họ phải quay lại, đi ngược chiều
trên xa lộ để ra khỏi đó. Corso nắm chặt tay lái cầu khẩn cơn bão buộc đám cảnh
sát phải ngồi hết ở nhà. Beaugency. La Ponte khăng khăng đòi qua sông rồi rẽ
trái, nhưng may mà họ không thèm nghe hắn. Họ trở lại theo đường cũ, lần này
theo quốc lộ 152 - đúng theo con đường d’Artagnan đã chọn ở chương một - trong
mưa giông gió giật, dòng sông Loire đen ngòm gầm rú bên phải họ, thanh gạt nước
trên kính chắn gió quay như điên, và hàng trăm đốm đen li ti, bóng của những
giọt mưa, nhảy múa trước mắt Corso khi họ vượt qua những chiếc xe khác. Cuối
cùng họ đi trên những đường phố vắng tanh ở một khu phố cổ với những căn nhà
lợp mái, có mặt tiền với những rầm nhà nặng nề dưới dạng cây thập tự:
Meung-sur-Loire. Hành trình kết thúc.
“Ả sắp đi,” La Ponte thì thầm. Người hắn đẫm
nước, giọng run run vì lạnh. “Sao không vào ngay?”
Corso nhướng mình nhìn lại lần nữa. Liana
Taillefer khoác ra ngoài áo cánh một chiếc áo len bó sát để lộ thân hình hấp
dẫn, rồi lấy trong tủ đồ ra chiếc áo không tay dài màu tối dùng cho vũ hội hóa
trang. Ả chần chừ một chút, nhìn quanh rồi khoác nó lên vai và nhặt tập bản
thảo Dumas trên giường. Đúng lúc ấy ả để ý cửa sổ vẫn mở liền bước tới đóng
lại.
Corso giơ tay ngăn ả. Một ánh chớp lóe lên ngay
trên đầu rọi sáng khuôn mặt đẫm nước của gã. Bóng gã sừng sững trong khuôn cửa
sổ, tay đưa ra như thể cáo buộc người đàn bà đang đứng như trời trồng vì kinh
ngạc. Milady rú lên man dại như gặp quỷ.
Corso nhảy qua gờ cửa sổ dùng mu bàn tay hất mạnh
khiến ả im bặt và ngã xuống giường làm những trang giấy trong Rượu vang
Anjou bay lả tả. Cặp kính của gã bị hơi nước từ trong hốc mắt nóng bừng bốc
lên che mờ, gã lập tức nhấc kính ra vứt lên cái bàn đầu giường rồi quăng mình
lên trên Liana Taillefer đang gắng trở dậy vươn ra cửa. Gã túm tay ả và ghì
chặt vùng eo của ả xuống giường trong khi ả vừa quẫy vừa đạp. Ả thật khỏe và
Corso tự hỏi không biết La Ponte và cô gái mất mặt ở đâu. Trong khi chờ họ tới
giúp, gã cố giữ chặt cổ tay và tránh để những móng tay như vuốt sắc cào vào
mặt. Hai người quấn và nhau và lăn lộn trên tấm ga trải giường, cuối cùng thì
cẳng chân Corso nằm giữa hai chân ả và mặt gã vùi lấp vào bộ ngực ả. Gần sát
như thế, cảm nhận chúng qua làn áo len mỏng, gã lại nghĩ thật khó tin rằng
chúng đàn hồi đến thế. Gã cũng cảm thấy thân dưới mình cương lên và tức giận
chửi thề trong lúc vật lộn với một ả Milady có sức khỏe của một nhà vô địch bơi
lội. Mi ở đâu khi ta cần, gã cay đắng nghĩ thầm. Rồi La Ponte
tới, lắc mình thật lực như con chó ướt và nghĩ cách trả thù cho lòng tự hào tổn
thương của mình, và trên hết cho tấm hóa đơn khách sạn đã tạo ra một lỗ hổng
trong ví hắn. Trận đấu bắt đầu theo lề lối giang hồ.
“Tôi không nghĩ ông định hiếp bà ta,” cô gái nói.
Cô vẫn đội các mũ trùm ngồi xem trên bậu cửa sổ.
Liana Taillefer đã thôi giãy giụa và nằm im. Corso nằm trên người ả, còn La
Ponte giữ một tay và một chân ả đè xuống.
“Đồ lợn,” ả nói to và rõ.
“Đồ điếm,” La Ponte lẩm bẩm, thở không ra hơi vì
cuộc vật lộn.
Sau mẩu đối thoại ngắn ngủi này, mọi người đều
bình tĩnh lại. Chắc rằng ả không thoát đi được, họ để ả ngồi dậy. Ả xoa nắn cổ
tay, ánh mắt độc địa lướt qua Corso và La Ponte. Corso đứng giữa ả và cánh cửa.
Cô gái vẫn ngồi trên cửa sổ lúc này đã đóng lại. Cô đã bỏ mũ trùm ra quan sát
Liana đầy tò mò. La Ponte sau khi dùng tấm ga giường lau khô tóc và râu, bắt
đầu thu lượm các trang bản thảo vương vãi trong phòng.
“Ta cần nói chuyện một chút,” Corso nói. “Như
những người hiểu biết.”
Liana Taillefer trừng mắt nhìn gã. “Chẳng có gì để nói hết.”
“Đó là cái sai của bà, thưa quý bà xinh đẹp. Bây giờ chúng tôi tóm được
bà rồi, tôi có gặp cảnh sát thì cũng chẳng sao. Hoặc bà nói chuyện với bọn tôi,
hoặc bà phải giải thích với họ. Tùy chọn.”
Ả cau có nhìn quanh như con thú săn tìm cách thoát khỏi bẫy.
“Cẩn thận,” La Ponte nói. “Ả định làm gì đấy.”
Đôi mắt ả lóe lên sắc như dao. Corso uốn lưỡi nói
như diễn kịch. “Liana Taillefer,” gã nói. “Hoặc có thể phải gọi bà là Anne de
Breuil, nữ bá tước de la Fère. Bà cũng có tên Charlotte Backson, nam tước phu nhân
Sheffield và quý bà de Winter. Bà đã phản bội chồng và mọi người tình. Một nữ
sát thủ và kẻ đầu độc, cũng là tay chân của Richelieu. Hoặc với một biết danh
quen thuộc hơn - gã dừng lại đột ngột - Milady.”
Gã ngừng lại vì vấp phải dây đeo cái túi của mình từ dưới gầm giường thò
ra. Không rời mắt khỏi Liana Taillefer và cánh cửa, gã lôi nó ra. Rõ ràng ả
muốn chạy trốn ngay khi có cơ hội. Gã kiểm tra mọi thứ trong túi và thở phào
nhẹ nhõm khiến mọi người, gồm cả Liana Taillefer, đều ngạc nhiên nhìn gã. Chín
cánh cửa của Varo Borja vẫn trong đó, còn nguyên vẹn.
“Ăn chắc,” gã nói và cầm nó lên. La Ponte tỏ ra đắc thắng, tuồng như
Queequeg vừa đâm trúng con cá voi. Nhưng cô gái không mảy may xúc động, giống
như một khán giả bàng quan. Corso nhét cuốn sách vào túi. Gió đêm thổi vi vu
ngoài cửa sổ khi cô đứng. Chốc chốc một tia chớp nhoáng lên soi rõ hình cô, rồi
một tràng sấm đùng đục và nghèn nghẹt vang lên khiến tấm kính chắn mưa rung bần
bật.
“Thời tiết rất phù hợp,” gã nói. “Như bà thấy, Milady, chúng tôi không
muốn lỡ việc... Chúng tôi chuẩn bị xét xử công bằng.”
“Với cả nhóm người vào giữa đêm khuya, chẳng khác gì một lũ hèn hạ.” ả xổ
ra. “Đúng như người ta đã làm với ả Milady kia. Chỉ thiếu người đao phủ thành
Lille.”
“Tất cả đều hợp thời điểm,” La Ponte xen vào.
Người đàn bà dần dần lấy lại tự tin. Dù chính ả nhắc tới đao phù song
điều đó có vẻ không dọa được ả. Ả nhìn trả La Ponte với vẻ thách thức. “Tôi
thấy các người đã về đúng vai rồi đấy,” ả nói thêm.
“Bà không cần ngạc nhiên mới phải,” Corso đáp trả. “Bà và đám tòng phạm
của bà đã làm mọi cách để bảo đảm như vậy mà.” Khuôn mặt gã vặn vẹo rồi hóa ra
nụ cười của loài sói, không đùa cợt cũng không thương xót. “Tất cả chúng ta đã
vui vẻ cả.”
Người đàn bà bạnh môi. Ả dùng một móng tay đỏ như máu vạch ngang khăn
trải giường. Corso đưa mắt theo dõi cử chỉ của ả, cảm thấy mê hoặc như thể đó
là một lưỡi dao, và gã rùng mình nhớ lại nó đã lướt như thế nào qua mặt gã
trong khi vật lộn.
“Ông không có quyền làm như vậy,” ả nói. “Các người là những kẻ đột nhập.”
“Bà lầm. Chúng tôi là một phần trong trò chơi, giống như bà.”
“Nhưng các người không biết luật chơi.”
“Lại nhầm rồi, Milady. Bằng chứng là chúng tôi đang ở đây.” Corso cầm cái
kính trên tủ đầu giường, đeo lên mắt và lấy ngón tay đẩy nó lên. “Đó là điều
rất tinh tế - chấp nhận bản chất của trò chơi. Chấp nhận cuốn tiểu thuyết hư
cấu bằng cách bước vào câu chuyện và tuân theo lôgic của nó chứ không phải của
thế giới bên ngoài... Sau đó thì dễ rồi. Trong thế giới thực, nhiều chuyện xảy
ra ngẫu nhiên, nhưng trong tiểu thuyết hầu như mọi điều đều lôgic.”
Móng tay đỏ chót của Liana Taillefer dừng lại. “Trong tiểu thuyết?”
“Đặc biệt trong tiểu thuyết. Nếu nhân vật chính theo lôgic nội tại của
tội phạm, hắn rồi sẽ gặp mặt tội phạm. Đó là lý do khiến người hùng và kẻ ác,
thám tử và tên sát nhân luôn gặp nhau ở phần kết.” Gã mỉm cười, thích thú với
lý lẽ của mình. “Bà nghĩ sao?”
“Tuyệt,” Liana Taillefer châm chọc, còn La Ponte miệng há ra, dán mắt vào
Corso đầy ngưỡng mộ. Ả nhếch mép cười mỉa. “Đạo hữu William Baskerville[1],
tôi đoán thế.”
[1] Một tu sĩ dòng Francis, nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết Tên của đóa hồng của Umberto Eco.
“Đừng hời hợt thế, Milady. Bà quên Edgar Allen Poe. Và chính Dumas... Tôi
cứ nghĩ bà đọc rộng hơn cơ.”
“Ông thấy đó, ông đang lãng phí tài năng với tôi rồi,” ả nói. “Tôi không
phải thính giả thích hợp.”
“Tôi biết. Đó chính là lý do tôi tới đây - để bà đưa chúng tôi tới chỗ
ông ta.” Gã nhìn đồng hồ. “Hơn một tiếng đồng hồ nữa sẽ là ngày thứ Hai đầu
tiên của tháng Tư.”
“Tôi muốn biết bằng cách nào ông đoán được cả chuyện đó.”
“Tôi không đoán.” Gã quay sang cô gái bên cửa sổ. “Cô ấy nhét cuốn sách
vào tay tôi. Và trong một cuộc điều tra như thế này, một cuốn sách có ích hơn
là thế giới bên ngoài. Đó là một thế giới riêng mình tự tại, không bị ai quấy
rầy. Giống như phòng thí nghiệm của Sherlock Homles.”
“Đừng khoe mẽ nữa, Corso,” cô gái bực tức nói. “Ông gây đủ ấn tượng với
bà ta rồi đó.”
Người đàn bà cau mày nhìn cô gái, như thể lần đầu tiên trông thấy cô. “Cô
ta là ai?”
“Đừng nói với tôi bà không biết. Bà chưa từng gặp cô ấy ư?”
“Người ta có nhắc tới một phụ nữ trẻ, nhưng không biết cô ta từ đâu tới.”
“Ai nhắc?”
“Một người bạn.”
“Cao, đen, để ria, sẹo trên mặt? Rách môi? Anh bạn thân Rochefort của
chúng ta! Tôi rất muốn biết anh ta đang ở đâu. Hy vọng không xa. Hai vị chọn
nhân vật thật là xứng đáng, đúng không?”
Nghe vậy Liana Taillefer ấn sâu móng tay vào tấm ga như thể đó là da thịt
Corso, ánh mắt lóe lên điên cuồng. “Các nhân vật khác thì tốt đẹp gì hơn?”
Trong cái lối Milady hất đầu ra sau nhìn xoáy vào từng người trong bọn họ chứa
đựng một vẻ khinh thường ngạo mạn. “Athos, một tên say. Porthos, một gã ngộ.
Aramis, một kẻ mưu mô đạo đức giả...”
“Đó là một cách nhìn nhận,” Corso nói.
“Im đi. Ông biết cái gì?” Ả ngừng lại, vươn cằm ra, nhìn Corso như thể
đến lượt gã. “Còn d’Artagnan, hắn là kẻ tệ nhất trong đám. Một tay kiếm ư? Hắn
chỉ quyết đấu bốn lần trong Ba người lính ngự lâm. Thắng một
lần vì Jussac nhào vào chân hắn, một lần nữa vì Bernajoux tự mình gieo vào mũi
kiếm của hắn trong khi mù quáng tấn công. Khi đánh nhau với người Anh, hắn chỉ
làm được mỗi việc là tước vũ khí của ông nam tước. Và phải dùng tới ba cú đâm
mới hạ gục nổi công tước De Wardes. Còn về lòng khoan dung độ lượng...” ả hất
mặt về phía La Ponte, “d’Artagnan thậm chí còn keo kiệt hơn cả anh bạn này của
ông. Lần đầu tiên hắn mua đồ uống cho các bạn là ở Anh, sau vụ gã thầy tu[2].
Ba mươi năm sau.”
[2] Gã thầy tu: tức con trai Milady, nhân vật chính trong Hai mươi năm sau.
“Tôi nhận thấy bà là một chuyên gia, mặc dù đáng ra tôi phải đoán ra từ
trước. Bao nhiêu là tiểu thuyết trường thiên mà bà bảo ghét cay ghét đắng...
Xin có lời khen. Bà đã hoàn thành tuyệt diệu vai bà góa phát ốm lên vì tính
ngông cuồng của ông chồng.”
“Tôi không vờ vịt. Hầu hết những thứ của ông ấy đều tầm thường xoàng
xĩnh, toàn giấy tờ cũ vô dụng. Giống như bản thân Enrique. Chồng tôi là một gã
khờ. Ông ấy không biết cách đọc cho ra những ý nghĩ thâm sâu hay đánh giá chất
lượng. Ông ấy chỉ là một kẻ đần độn loanh quanh sưu tầm bức ảnh tượng đài và
chẳng hiểu gì hết.”
“Không như bà?”
“Tất nhiên. Ông biết hai cuốn sách đầu tiên tôi đọc là gì không? Những
người đàn bà nhỏ và Ba người lính ngự lâm. Mỗi cuốn
đều gây ấn tượng sâu sắc theo cách riêng của nó.”
“Cảm động quá.”
“Đừng ngu ngốc thế. Ông hỏi, tôi đáp. Có những độc giả chất phác, như
Enrique khốn khổ, và có những độc giả đi sâu vào bản chất sự vật, nhìn thấu
suốt hơn chứ không chỉ thấy toàn khuôn mẫu sáo mòn: d’Artagnan can đảm, Athos
hào hiệp, Porthos hảo tâm, Aramis trung thành... Thật buồn cười!” Rồi ả phá lên
cười thật, tiếng cười của ả đặc phường tuồng và đanh ác như tiếng cười của
Milady. “Không ai có ý kiến. Ông có biết hình ảnh tồn tại lâu dài nhất với tôi,
cái mà tôi ngưỡng mộ nhất là gì không? Hình ảnh người đàn bà chiến đấu đơn độc,
trung thành với ý tưởng của chính mình và với người đàn ông bà ta chọn làm chủ
nhân, chỉ tin tưởng một mình mình, bị bốn người anh hùng kỳ thực là những con
rối giết một cách đê tiện. Rồi lại có một đứa con thất lạc từ lâu của bà ta,
đứa trẻ mồ côi xuất hiện hai mươi năm sau nữa!” Ả cúi đầu ủ rũ, và ánh mắt đầy
thù hận của ả hầu như khiến Corso lùi lại một bước. “Tôi có thể hình dung một
bức tranh khắc như thể nó ở ngay trước mặt - dòng sông đêm, bốn tên vô lại quỳ
gối cầu nguyện nhưng không một chút thương xót. Và bên kia sông, đao phủ giơ
cao kiếm trên cái cổ trần của người đàn bà...”
Một tia chớp đột ngột rọi ánh sáng hung dữ lên khuôn mặt biến dạng của ả
- cái cổ trắng mịn, đôi mắt chứa đầy khung cảnh bi kịch ả vừa mô tả sống động
như thể chính mình trải qua rồi. Rồi những tấm kính cửa sổ rung lên dưới tiếng
sấm ì ầm.
“Đồ khốn,” ả thì thầm, chìm đắm trong suy tư, Corso không biết ả muốn nói
gã và những người cùng đi hay d’Artagnan và bạn chàng.
Cô gái lục tìm trong túi lấy ra Ba người lính ngự lâm. Giống
như một khán giả vô thưởng vô phạt, cô tìm một trang. Khi đã thấy, cô không nói
lời nào mà vứt sách lên giường. Đó là bức minh họa Liana Taillefer đã miêu tả.
“Victa iacet Virtus,” Corso lẩm bẩm, run lên trước cảnh tương tự
như trong bức minh họa thứ tám của Chín cảnh cửa.
Người đàn bà bình tĩnh lại khi nhìn bức tranh. Ả nhíu mày, lại trở nên
lạnh lùng và độc đoán.
“Đó là sự thực,” ả thừa nhận. “Không thể nói rằng d’Artagnan tượng trưng
cho phẩm hạnh. Hắn ta chỉ là kẻ cơ hội. Và đừng nhắc tới kỹ năng cưa gái của
hắn. Trong cả bộ tiểu thuyết hắn chỉ chinh phục được ba người đàn bà, hai lần
trong đó là nhờ lừa bịp. Mối tình vĩ đại nhất của hắn là với một mẹ đĩ
bé nhỏ chân to, thị tỳ của hoàng hậu. Một người khác là ả hầu phòng
người Anh bị hắn lợi dụng một cách đê tiện.” Tiếng cười của Liana vang lên như
một lời nhục mạ. “Còn đời sống tình cảm của hắn trong Hai mươi năm
sau thì sao? Sống với bà chủ nhà trọ để tiết kiệm tiền thuê phòng...
Công cuộc chinh phục mới đẹp đẽ làm sao! Hầu phòng, chủ trọ và đầy tớ!”
“Nhưng d’Artagnan không quyến rũ Milady,” Corso ranh mãnh vạch ra.
Một tia chớp giận dữ lại lần nữa phá vỡ lớp băng trong mắt Liana
Taillefer. Nếu ánh mắt có thể giết người, có lẽ Corso đã chết lăn dưới chân ả.
“Hắn không quyến rũ,” người đàn bà trả lời. “Thằng khốn đó mạo nhận người
khác để luồn vào giường cô ta.” Thái độ của ả lại lạnh cứng. “Ông và hắn có thể
kết thành một cặp rất hợp đấy.”
La Ponte chăm chú nghe. Tựa như có thể thấy bộ
não hắn đang vận động kịch liệt. Hắn nhăn nhó. “Các người không định nói là các
người đã...”
Hắn quay sang cô gái mong giúp đỡ. Hắn luôn là người cuối cùng hiểu được
chuyện gì xảy ra. Nhưng cô vẫn dửng dưng như thể chẳng có gì liên quan đến
mình.
“Tôi là một thằng ngu,” La Ponte kết luận. Hắn đi
đến bên cửa sổ và bắt đầu đập đầu vào khuôn cửa.
Liana Taillefer nhìn hắn khinh bỉ rồi nói với
Corso, “Ông phải đưa hắn theo hay sao?”
La Ponte nhắc đi nhắc lại, “Tôi là một thằng ngu,”
và đập mạnh đầu vào cửa sổ.
“Hắn nghĩ mình là Athos,” Corso giải thích.
“Aramis thì đúng hơn. Ngu xuẩn và tự đại. Ông có
biết là hắn mê mệt với cái bóng của mình trên giường khi làm tình không?”
“Tôi không tin.”
“Tôi đảm bảo là hắn như thế đấy.”