Câu lạc bộ Dumas - Chương 16 - Phần 1
XVI. MỘT ÂM MƯU
TƯƠNG ỨNG VỚI CUỐN SÁCH CỔ
“Đây là chỗ khó chịu của vấn đề,” Pothos nói.
“Ngày xưa người ta không phải giải thích mọi chuyện.
Người ta chiến đấu để mà chiến đấu.”
A. Dumas, TỬ TƯỚC BRAGELONNE.
Ngả người trên lưng ghế tài xế, Corso nhìn phong
cảnh bên ngoài. Gã đã tách khỏi làn đường chính ở chỗ rẽ cuối con đường, trước
khi nó chìm sâu vào thị trấn. Với những bức tường cũ kỹ bao quanh, khu phố cổ
bồng bềnh trong sương khói từ dưới sông dâng lên, lơ lửng trong thinh không như
một hòn đảo màu xanh mà quái. Ấy là một thế giới nhập nhằng, chẳng có ánh sáng
cũng chẳng có bóng tối. Một rạng đông ngập ngừng và lạnh lẽo buông xuống
Castille, với làn ánh sáng đầu ngày le lói làm hiện lên những ống khói, mái
nhà, những tháp chuông về phía Đông.
Gã muốn xem giờ, nhưng cái đồng hồ đã bị nước lọt
vào trong cơn bão ở Meung. Mặt kính mờ mịt và đĩa số không đọc được. Corso nhìn
thấy đôi mắt kiệt quệ của mình trong gương chiếu hậu. Meung-sur-Loire, trong
đêm trước ngày thứ Hai đầu tiên của tháng Tư. Bây giờ họ đã ở xa, và đã là thứ
Ba. Đó là một hành trình trở lại dài dằng dặc, tất cả các nhân vật đã chìm mất
ở mãi xa xôi: Balkan, Câu lạc bộ Dumas, Rochefort, Milady, La Ponte. Chỉ còn
tiếng vọng của câu chuyện sau khi giở trang cuối cùng. Tác giả đã gõ từ khóa cuối
cùng trên bàn phím Qwerty, ở hàng dưới cùng, phím thứ hai từ bên phải sang. Vì
vậy với một hành động tùy ý không có gì hơn là những trang giấy in, những tờ
giấy kỳ lạ, trơ trơ. Những cuộc đời đột ngột trở nên xa lạ.
Rạng sáng hôm ấy, chẳng khác gì vừa từ trong mơ
tỉnh lại, Corso ngồi, râu ria lởm chởm, bẩn thỉu, mắt đỏ ngầu. Bên cạnh là cái
túi vải buồm cũ kỹ chứa cuốn Chín cánh cửa cuối cùng còn lại.
Và cô gái. Đấy là toàn bộ những thứ ở lại trên bờ biển sau khi thủy triều rút.
Cô rên khe khẽ, gã liền quay lại nhìn. Cô ngủ trên ghế bên cạnh, mình khoác áo
len thô, đầu tựa lên vai gã. Miệng cô hé mở, hơi thở dịu dàng. Thỉnh thoảng cô
khẽ rùng mình. Rồi lại rên khe khẽ. Một vết nhăn dọc nhỏ xíu nằm giữa hai chân
mày khiến cô trông như một bé gái đầy ưu tư. Một bàn tay thò ra từ dưới chiếc
áo khoác. Lòng bàn tay ngửa lên, những ngón tay hơi mở ra, như thể cô vừa để
thứ gì đậy tuột mất, hoặc như thể đang chờ đợi.
Corso lại nghĩ về Meung, và về chuyến đi. Về
Boris Balkan đứng bên gã hai đêm trước đó trên mảnh sân trời còn ướt nước mưa.
Tay cầm Rượu vang Anjou, Richelieu mỉm cười như một đối thủ cũ, vừa
cảm phục, vừa đồng cảm. “Ông thật khác thường, ông bạn.” Những lời cuối này của
ông ta giống như lời từ biệt; đó là những lời duy nhất có ý nghĩa. Phần còn lại
- lời mời nhập bọn cùng những vị khách khác - hoàn toàn chỉ là hình thức. Cũng
chẳng phải Balkan muốn tống gã đi cho rồi - kỳ thực ông ta đã lộ rõ vẻ thất
vọng khi Corso bỏ đi. Nhưng Balkan biết rằng Corso sẽ từ chối trở thành một
người trong đám bọn họ. Sau cùng chỉ còn một mình Corso đứng trên sân, gã cúi
người trên lan can lắng nghe thật lâu hồi âm từ thất bại của chính mình. Gã từ
từ hồi tỉnh, nhìn quanh, cố nhớ lại xem mình đang ở đâu. Rời khỏi những ô cửa
sổ sáng rực, gã chậm rãi lang thang trên những đường phố tối tăm theo lối về
khách sạn. Gã không bị Rochefort khống chế nữa, và ở Quán Sainte Jacques, gã
nghe nói Milady cũng đi rồi. Hai người đã rời khỏi đời gã để trở lại lãnh địa u
ám của họ, để một lần nữa vào vai những nhân vật không có thật, khó hiểu như
những quân cờ. Gã tìm thấy La Ponte và cô gái không khó khăn gì. Gã không quan
tâm La Ponte, nhưng cảm thấy nhẹ lòng khi thấy cô vẫn ở đấy. Gã sợ sẽ mất cô
cùng với những nhân vật khác trong câu chuyện. Gã chụp nhanh lấy tay cô trước
khi cô cũng tan biến trong đám tro tàn của thư viện thành Meung và dẫn cô ra
xe, mặc kệ La Ponte đứng nhìn. Corso nhìn hắn lùi xa dần trong gương chiếu hậu.
La Ponte vẻ bối rối, gào lên kêu gọi tình bạn bị lạm dụng quá mức của họ, không
hiểu chuyện gì xảy ra. Giống như một thợ săn cá voi vô tích sự, đầy tai tiếng,
đánh mất niềm tin của mọi người, bị bỏ rơi trên chiếc xuồng nhỏ với ít bánh mì
và khẩu phần nước cho ba ngày, mặc cho phiêu giạt cùng sóng biển. Hãy
cố đến Batavia, ngài Bligh[1]. Nhưng rồi, đến cuối
phố, Corso dừng xe, ngồi trước tay lái, gã nhìn con đường phía trước, cô gái
ngạc nhiên nhìn gã. La Ponte cũng không phải một nhân vật thực. Corso thở dài
cài số lùi quay lại đón hắn. Cả ngày lẫn đêm hôm sau, cho đến tận lúc họ để hắn
xuống xe ở một cột đèn giao thông trên đường phố Madrid, La Ponte không nói một
lời. Thậm chí hắn không hề phản ứng khi Corso nói bản thảo của Dumas đã mất.
Cũng chẳng có bao nhiêu lời hắn có thể nói.
[1] Ở đây nhắc tới William Bligh, phó đô đốc hải
quân hoàng gia Anh (1754 - 1817), và vụ bình biển trên con tàu Bounty do ông
chỉ huy: Bligh và những người trung thành với ông bị đám thủy thủ nổi loạn bỏ
rơi trên biển với một chiếc thuyền con, sau đó trôi giạt đến bờ biển Timor.
Corso liếc nhìn cái túi vải bạt dưới chân cô gái
đang ngủ. Thất bại thì đau đớn, tất nhiên, giống như một vết dao trong ký ức.
Gã biết mình đang chơi đúng luật - legitime certaverit - nhưng đi
sai hướng. Đúng vào thời điểm chiến thắng, mặc dù chỉ một phần và không toàn
vẹn, toàn bộ niềm vui thắng lợi bị giật mất. Chiến thắng chỉ là tưởng tượng.
Giống như đánh bại một hồn ma trong mơ, đấm vào gió hay gào thét vào nơi im
lặng. Có lẽ vì vậy mà Corso lúc này ngờ vực nhìn chằm chằm thành phố lơ lửng
trong sương, chờ đợi trước khi tiến sâu vào, như muốn chắc rằng nền tảng của nó
ăn sâu bám rễ xuống đất.
Gã nghe hơi thở mềm mại nhịp nhàng của cô trên
vai. Không rời mắt khỏi cái cổ trần dưới những nếp áo gấp của cái áo khoác len
thô, gã đưa tay tới cho đến khi những ngón tay cảm nhận được hơi ấm của làn da
phập phồng theo nhịp thở. Vẫn như mọi lần, da thịt cô tỏa ra mùi của tuổi trẻ
và của cơn sốt. Bằng tưởng tượng và theo trí nhớ, gã dễ dàng lần theo những
đường cong thân thể kéo xuống tới bàn chân trần, bên cạnh đôi giày mềm và cái
túi vải. Irene Adler. Gã vẫn không biết gọi cô thế nào. Nhưng gã không quên
được tấm thân trần trong bóng tối, đường lượn ở hông sáng ánh đèn, đôi mắt hé
mở của cô. Lặng lẽ và đẹp không thể tả, đắm chìm trong tuổi trẻ của chính mình,
đồng thời thanh thản như mặt hồ lặng sóng, cộng với sự khôn ngoan của nhiều thế
kỷ. Và trong đôi mắt long lanh nhìn gã chăm chú từ trong bóng tối, hình chiếu
đen sẫm của chính Corso nằm đó giữa toàn bộ những tia sáng từ bầu trời tụ lại.
Giờ thì cô đang nhìn gã, đôi mắt xanh như những
viên ngọc lục bảo dưới hàng mi dài. Cô đã thức dậy và ngái ngủ dụi vào người
gã. Rồi ngồi dậy, cảnh giác, cô nhìn gã.
“Chào ông, Corso.” Cái áo khoác tuột xuống chân.
Chiếc áo pull hoàn hảo bó sát mình, cô mềm mại như một con thú non xinh đẹp. “Ta
đang làm gì ở đây?”
“Đợi,” gã trỏ thành phố giống như đang bồng bềnh
trong sương mù. “Đợi nó biến thành hiện thực.”
Cô nhìn và lúc đầu không hiểu gì. Rồi thong thả mỉm
cười.
“Có lẽ chẳng bao giờ thay đổi,” cô nói.
“Vậy thì cứ ở đây. Chỗ này không tệ, một thế giới lạ lùng, hư ảo dưới
chân.” Gã quay lại cô. Tôi có thể cho anh mọi thứ nếu anh quy phục và
say mê tôi. Có phải cô sẽ đề nghị như thế với tôi không?”
Cô cười rất dịu dàng. Rồi cúi xuống nghĩ ngợi và lại ngẩng lên nhìn thẳng
vào mắt gã.
“Không, em nghèo,” cô nói.
“Tôi biết.” Đó là sự thực. Corso không cần phải tìm nó trong ánh mắt
trong trẻo của cô. “Hành lý của cô, và toa ngồi trên tàu... Thật lạ. Tôi thường
nghĩ tất cả bọn cô đều có tài sản vô hạn, ở ngoài đó, bên kia cầu vồng.” Nụ
cười của gã sắc như con dao vẫn còn nằm trong túi gã. “Túi vàng của Peter
Schlemiel[2].”
[2] Nhân vật chính trong Câu
chuyện nổi tiếng về Peter Schlemiel (1814) của Adelbert von Chamisso
(1781 - 1838), nói về một người bán cái bóng của mình cho ma quỷ để lấy một túi
tiền không đáy.
“Vậy ông nhầm rồi.” Cô mím môi ương bướng. “Em là tất cả những thứ em có.”
Đó cũng là sự thực, và Corso đã biết từ lúc đầu. Cô không bao giờ nói
dối. Vừa ngây thơ vừa khôn ngoan, cô trung thành và say đắm theo đuổi một cái
bóng.
“Tôi biết.” Gã nguệch ngoạc lên trời như thể trong tay cầm cái bút tưởng
tượng. “Cô không đưa tôi tờ giấy để ký ư?”
“Giấy tờ?”
“Phải. Thường người ta gọi khế ước như thế. Thời nay thì phải là một bản
hợp đồng với hàng chữ nhỏ đúng không? ‘Trong trường hợp có tranh chấp,
các bên phải chịu sự phán quyết của tòa án...’ Thật buồn cười. Không
biết tòa án nào xử chuyện này.”
“Đừng ngớ ngẩn.”
“Sao cô chọn tôi?”
“Em được tự do,” cô thở dài buồn bã như thể phải trả giá để được nói điều
đó. “Em có thể lựa chọn. Bất cứ ai cũng có thể.”
Corso mò trong túi áo khoác bao thuốc lá nhàu nát. Còn một điếu cuối
cùng. Gã moi nó ra nhìn chăm chú, dùng dằng không biết có nên đưa lên miệng hay
không. Rồi gã lại nhét nó vào bao. Có lẽ lát nữa gã sẽ cần một hơi khói. Gã
chắc thế.
“Cô biết từ đầu,” gã nói, “rằng có hai câu chuyện không liên quan gì đến
nhau. Đó là lý do vì sao không bao giờ cô quan tâm đến câu chuyện của Dumas.
Milady, Rochefort, Richelieu, đấy chỉ là những nhân vật phụ trong phim đối với
cô. Giờ thì tôi hiểu tại sao cô thụ động như thế. Hẳn cô chán khủng khiếp. Cô
chỉ ngồi lật trang cuốn Lính ngự lâm của mình và xem tôi làm
những việc sai lầm...”
Qua kính chắn gió, cô đang nhìn thành phố khoác trên mình màn sương màu
xanh. Tay cô giơ lên, rồi lại bỏ xuống, như thể điều cô định nói là vô nghĩa. “Tất
cả những gì em có thể làm là theo ông,” cô đáp. “Mỗi người đều phải một mình
bước đi trên đoạn đường nào đó. Ông không nghe nói tự do ý chí sao?” Cô cười
buồn. “Một số trong chúng ta phải trả giá rất cao vì chuyện đó.”
“Nhưng không bao giờ hoàn toàn đứng ngoài. Đêm đó,
bên sông Seine... Sao cô lại giúp tôi đối phó với Rochefort?”
Cô đưa bàn chân trần chạm vào cái túi vải. “Hắn
mò theo bản thảo của Dumas. Nhưng Chín cánh cửa cũng ở trong đó. Em
chỉ muốn tránh sự can thiệp ngu ngốc.” Cô nhún vai. “Và em cũng không muốn hắn
đánh ông.”
“Còn ở Sintra? Cô cảnh cáo tôi về vụ Fargas.”
“Tất nhiên. Cuốn sách gắn chặt với chuyện đó.”
“Và còn bí mật về cuộc gặp mặt ở Meung...”
“Em không biết chuyện đó. Chỉ đơn giản suy ra được từ trong sách.”
Corso nhăn mặt. “Tôi cứ nghĩ cái gì cô cũng biết.”
“Vậy thì ông nhầm.” Bây giờ đến lượt cô bực mình. “Và em không hiểu tại
sao ông nói em như thể em là một kẻ thuộc về bầy đàn. Em chỉ có một mình từ lâu
lắm rồi.”
Nhiều thế kỷ, Corso chắc chắn như thế. Biết bao thế kỷ cô đơn. Không còn
gì nghi ngờ. Gã đã ôm tấm thân trần của cô, chìm nghỉm trong đôi mắt, đã ở bên
trong cô, thưởng thức làn da cô, cảm nhận qua môi mình nhịp đập khe khẽ trên cổ
cô. Gã đã nghe tiếng rên nhè nhẹ như một đứa trẻ sợ hãi hay như một thiên thần
bị ruồng bỏ đi tìm hơi ấm. Gã đã quan sát cô trong giấc ngủ, nắm tay siết chặt,
quằn quại trong cơn ác mộng về những thượng đẳng thần tóc vàng, giáp trụ lấp
lánh hào quang và không biết thương xót, độc đoán không khác gì thượng đế khi
bắt họ diễu hành đúng giờ.
Bây giờ, nhờ cô, dù quá muộn, gã hiểu Nikon, hiểu các bóng ma của nàng và
cách nàng tuyệt vọng bám bíu vào cuộc đời. Nỗi sợ của Nikon, những bức ảnh đen
trắng của nàng, cố gắng vô vọng xua đuổi những hồi ức truyền lại qua những bộ
gen từng sống sót qua Auschwitz, số hiệu đóng dấu trên người cha nàng, và cái trật
tự Đen dường như cũng xa xưa như tinh thần và lời rủa của con người. Bởi vì
Chúa và quỷ có thể là cùng một người và cùng một thứ, và ai cũng hiểu điều đó,
theo cách của mình.
Nhưng cũng như đối với Nikon, Corso tàn nhẫn. Tình yêu là một gánh nặng
quá sức đối với gã, và gã không có tấm lòng cao thượng như Porthos. “Đó là
nhiệm vụ của cô sao?” gã hỏi. “Bảo vệ Chín cánh cửa ư? Tôi
không tin cô sẽ nhận được một huân chương vì chuyện đó.”
“Thế là bất công, ông Corso.”
Gần như vẫn là câu ấy. Một lần nữa, Nikon bị để
mặc cuốn trôi theo dòng đời, mong manh và nhỏ bé. Ai xui nàng bám bíu
lấy hiện thực, để trốn tránh những cơn ác mộng của mình?
Gã nhìn cô gái. Có lẽ ký ức về Nikon là sự ăn năn
của gã. Nhưng gã không muốn nhẫn nhịn mà chấp nhận nữa. Gã liếc nhìn gương
chiếu hậu: khuôn mặt gã co rúm trong cay đắng và mất mát.
“Vậy ư? Ta đã mất hai trong ba cuốn sách. Và
chuyện gì xảy ra với cái chết vô nghĩa của Fargas và bà nam tước?” Bọn họ không
mấy quan trọng đối với gã, nhưng Corso cảm thấy chua xót. “Lẽ ra cô có thể ngăn
ngừa chuyện đó.”
Cô lắc đầu rất nghiêm túc và nhìn gã chằm chặp. “Có
những chuyện không tránh được, ông Corso. Một vài thành trì phải bị thiêu hủy,
một vài người phải bị treo cổ. Có những con chó sinh ra để xé xác nhau thành
từng mảnh nhỏ, có những người đức hạnh với số mệnh phải bị chặt đầu, những cánh
cửa định mệnh mở cho người khác tiến vào.” Cô nhăn mặt và cúi đầu xuống. “Nhiệm
vụ của em, như ông gọi, là đảm bảo ông an toàn qua hết hành trình này.”
“Ồ, đó là một hành trình dài, chỉ kết thúc khi
trở về điểm xuất phát.” Corso trỏ thành phố lơ lửng trong sương mù. “Và bây giờ
tôi phải xuống đó.”
“Ông không phải. Không ai buộc
ông. Ông chỉ cần quên hết và bỏ đi.”
“Không cần tìm câu trả lời?”
“Không cần thử. Ông đã có câu trả lời bên trong
chính ông.”
“Đó là một câu hay. Hãy ghi nó lên bia mộ tôi khi
tôi cháy bùng bùng trong địa ngục.”
Cô âu yếm vỗ nhẹ lên đầu gối gã. “Đừng ngớ ngẩn,
ông Corso. Mọi chuyện diễn ra như người ta muốn nhiều hơn là người ta thường
nghĩ. Thậm chí cả quỷ cũng có thể chấp nhận diện mạo khác đi. Hay tính cách
khác đi.”
“Chẳng hạn như biết hối hận.”
“Đúng. Nhưng cũng có thể là có tri thức và sắc đẹp.” Cô lại băn khoăn
nhìn thành phố. “Hoặc giả là quyền lực và của cải.”
“Nhưng kết quả cuối cùng vẫn như nhau: kiếp đọa đày.” Gã lặp lại động tác
ký tên vào bản hợp đồng tưởng tượng. “Vẫn phải trả giá cho sự ngây thơ của linh
hồn.”
Cô lại thở dài. “Ông đã trả giá từ lâu rồi, Corso. Và hiện giờ vẫn đang
phải trả. Đó là một thói quen kỳ lạ, cứ trì hoãn nó đến tận cùng. Giống như hồi
cuối của một thảm kịch... Mỗi người kéo dài kiếp đày đọa của mình từ thuở ban
đầu. Còn con quỷ, hắn chẳng là gì khác hơn nỗi đau của Chúa; cơn cuồng nộ của
kẻ độc tài mắc kẹt trong cái bẫy của chính mình. Kẻ thắng nói sao cũng được.”
“Chuyện đó xảy ra khi nào?”
“Lâu hơn ông có thể tưởng tượng nhiều lắm. Hết sức nghiệt ngã. Em đã
chiến đấu hàng trăm ngày đêm trong tuyệt vọng và không có nơi ẩn nấp.” Một nụ
cười bí ẩn nở trên môi cô. “Đó là điều duy nhất em tự hào - chiến đấu đến cùng.
Em rút lui nhưng không quay lưng lại, xung quanh là những kẻ khác cũng từ trên
cao rơi xuống. Em khản giọng vì thét gào cuồng nộ, sợ hãi và kiệt sức. Sau trận
đánh, em đi qua một cánh đồng hoang vắng và cô đơn như cõi vình hằng giá băng...
Đôi khi em vẫn bắt gặp dấu vết của một trận chiến hoặc một chiến hữu ngày xưa
đi qua không dám ngẩng đầu.”
“Vậy thì sao lại là tôi? Sao cô không tìm kẻ nào đấy bên phe thắng? Tôi
chỉ chiến thắng được ở tỷ lệ năm ngàn đối một.”
Cô gái quay đi nhìn ra xa. Mặt trời đang lên, tia bình minh đầu tiên cắt
ngang không gian buổi sáng bằng một vệt hồng chiếu thẳng vào ánh mắt cô. Khi cô
quay lại nhìn Corso, gã cảm thấy hoa mắt khi nhìn sâu vào toàn bộ ánh sáng phản
chiếu trong đôi mắt xanh.
“Bởi vì sự mình bạch không bảo giờ chiếng thắng. Và quyến rũ một gã khờ
chả bao giờ là việc đáng làm.”
Rồi cô ghé mình sang hôn gã rất chậm, dịu dàng vô hạn. Như thể đã phải
đợi chờ đời đời kiếp kiếp để làm chuyện đó.
***
Sương mù chậm rãi tan đi. Tựa như thành phố lửng lơ trên không đã quyết
định hạ xuống đất. Bình minh tỏa sáng trên quần thể màu xám và vàng đất của lâu
đài Alcazar, tháp chuông nhà thờ và cây cầu đá với những cột chống chìm trong
làn nước đen thẫm, giống như một bàn tay hiểm ác vắt ngang dòng sông.
Corso khởi động máy. Xe lướt êm trên đường phố vắng. Vì họ đi xuống, ánh
mặt trời mới lên bị bỏ lại đằng sau, lửng lơ trên đầu họ. Thành phố chậm rãi
xích lại gần hơn, và họ từ từ dấn vào một thế giới sắc màu lạnh lẽo và tịch
mịch bao la không chịu rời tàn dư của những mảng sương mù xanh xám.
Gã ngập ngừng trước khi qua cầu, dừng xe dưới mái vòm đá ở lối lên cầu;
bàn tay đặt trên bánh lái, đầu hơi cúi, cằm chĩa ra - hệt như bức chân dung thợ
săn rình mồi chụp nghiêng. Gã gỡ kính ra lau, mặc dù không cần thiết. Hết sức
từ từ, gã ngắm cây cầu, trong đôi mắt không có kính, nó giống như một lối đi mơ
hồ với những đường nét chập chờn. Gã không quay lại nhìn cô gái nhưng vẫn biết
cô đang nhìn mình. Gã đeo kính lên, chỉnh lại trên sống mũi, cảnh vật lại sắc
nét, nhưng chẳng phải nhờ vậy mà thấy an tâm hơn. Bờ sông bên kia tối om. Dòng
nước trôi qua những trụ cầu giống như dòng thời gian đen sẫm của con sông Lethe
ngăn cách địa ngục và trần gian. Trong mảng đêm cuối cùng chưa chịu biến đi,
cảm giác nguy hiểm trong gã trở nên hữu hình, sắc nhọn như một mũi kim thép.
Corso cảm thấy mạch đập rộn ràng trên cổ tay khi gã nắm lấy cần số. Vẫn
còn kịp quay lại, gã tự nhủ. Như vậy thì những gì đã xảy ra đã chẳng
xảy, chẳng có gì phải đến sẽ đến. Còn về phần giá trị thực tế của Nunc
scio, “Giờ thì tôi biết,” do thượng đế hay do quỷ đặt ra, cái đó hết
sức mơ hồ. Gã nhăn mặt. Chúng chẳng là gì ngoài những từ ngữ. Gã biết rằng
trong vài phút nữa gã sẽ ở bên kia cầu, bên kia sông. Verbum dimissum
custodiat Arcanum. Ngẩng nhìn trừng trừng lên trời, gã tìm kiếm người
cung thủ có hay không những mũi tên trong bao tên, trước khi vào số và từ từ
tiến lên.