Chúa Ruồi - Chương 04 - Phần 1
Chương 4: Mặt vẽ vằn vện và tóc dài
Nhịp điệu đầu tiên chúng làm quen được là thời gian trôi chậm chạp từ
hừng đông đến hoàng hôn, rồi thoắt một cái tối ngay. Chúng hân hoan chào đón
ban ngày với vầng dương sáng rực, biển dập dồn, khí trời trong mát, tha hồ chơi
đùa; cuộc sống thật đầy đủ khiến chúng không cần và quên cả hy vọng. Gần trưa,
nắng gần như thẳng đứng, những màu sắc đậm đà của buổi sáng chuyển sang màu
ngọc trai và trắng sữa, hơi nóng - như được mặt trời treo trên cao truyền sức
nặng - ập xuống khiến chúng phải chúi đầu né tránh, chạy vào nằm, thậm chí ngủ
trong bóng râm.
Nhiều chuyện lạ lùng xảy ra vào giữa trưa. Mặt biển loang loáng dâng cao,
tẽ thành những hình thù quái dị; dải san hô và dăm ba cây dừa cằn cỗi vẫn bám
trên chỗ cao bỗng như trôi lên trời, bềnh bồng, rồi bị giật tung ra, lướt như
những giọt nước mưa trên sợi dây thép, hoặc nhân lên gấp bội như đứng trước một
dãy gương lạ kỳ. Đôi khi đất liền hiện ra mờ mờ ở những nơi không hề có đất,
rồi vỡ tung như bong bóng nước ngay khi chúng đang nhìn. Piggy gọi một cách uyên bác
hết thảy những hiện tượng này là “ảo ảnh”; và bởi vì không đứa nào bơi qua được
làn nước có cá mập đang ngoác miệng chờ để tới dải đá ngầm nên chúng dần quen
với những điều bí ẩn này, không để ý tới nữa, y như chúng thờ ơ trước những vì
sao lấp lánh tuyệt vời. Giữa trưa, những ảo ảnh kia hòa vào bầu trời, lúc ấy
vầng dương nhìn xuống chòng chọc như một con mắt giận dữ. Rồi lúc gần xế trưa,
khi mặt trời dần xuống, bớt ảo ảnh, chân trời lại phẳng lì, xanh căng. Lúc đó
trời tương đối mát, nhưng rất mau tối. Khi mặt trời lặn hẳn, bóng tối phủ lên
đảo như một tấm khăn. Dưới bầu trời sao, chỉ lát sau đã đầy tiếng trằn trọc
trong những túp lều.
Tuy
nhiên, do quen lối làm việc, chơi đùa, ăn uống suốt ngày ở Bắc Âu nên chúng khó
hòa nhịp hoàn toàn với thời khắc ở đây. Mới đầu thằng nhóc Percival chui vào
lều nằm lì luôn hai ngày, lảm nhảm, nghêu ngao hát và khóc lóc. Bọn chúng cười,
nghĩ thằng này dở hơi. Từ đấy nó yếu đi, mắt đỏ kè, gầy rạc, ít chơi đùa mà chỉ
hay nhè.
Chúng
gọi chung tụi nhỏ là “lũ nhóc tì”. Từ Ralph trở xuống có đủ mọi lứa; tuy có một
nhóm nhỡ nhỡ khó xác định rõ rệt như bọn Simon, Roger và Maurice nhưng việc
phân biệt bọn lớn và bọn nhóc tì chẳng khó khăn gì mấy. Bọn nhóc rành rành,
những đứa chừng sáu tuổi, có lối sống đặc biệt, đồng thời mê say của riêng
chúng. Chúng ăn hầu như suốt ngày, hễ với được trái cây là hái ngay, chẳng cần
biết xanh hay chín, ngon hay dở. Thành ra bây giờ chúng đã quen với chuyện đau
bụng và mọi thứ bệnh đi chảy mãn tính. Chúng khiếp hãi bóng đêm nên túm tụm
nhau cho đỡ sợ. Ngoài chuyện ăn và ngủ ra, chúng thừa thì giờ cho những trò
chơi vặt vãnh vô tội vạ trên bãi cát trắng bên làn nước trong. Chúng không khóc
đòi mẹ nhiều như ta tưởng; da chúng nâu sạm và cáu bẩn. Nghe tiếng tù và gọi
họp chúng thảy đều có mặt; một phần do người thổi tù và là Ralph, mà theo chúng
thì nó đủ trưởng thành để làm nhịp cầu với thế giới người lớn đầy uy quyền,
phần khác vì chúng thích trò vui ở các buổi họp. Chứ chúng đâu quan tâm gì đến
bọn lớn, vì chúng có một cuộc sống tập thể sôi nổi mang cảm xúc riêng.
Chúng
đắp những ngôi thành cát trên bờ dòng sông con. Những ngôi thành này cao chừng
ba chục phân, gắn vỏ sò, hoa héo và những viên đá xinh xinh. Quanh thành là một
khu liên hợp có bảng chỉ đường, đường xá, tường, đường xe lửa, nhưng phải nhìn
sát mặt cát mới thấy được ý nghĩa. Bọn nhóc chơi đùa ở đấy, dẫu chúng không
sung sướng thì ít nhất cũng dồn hết tâm trí. Thường thì ba đứa cùng chơi một
trò.
Lúc
này đây có ba đứa đang chơi ở đấy. Thằng Henry lớn nhất. Nó có họ hàng xa với
thằng bé mặt có vết bớt màu dâu mà không đứa nào còn trông thấy nữa sau buổi
chiều có đám cháy lớn kia, nhưng vẫn còn quá nhỏ để hiểu chuyện gì đã xảy ra.
Nếu có ai bảo rằng thằng bé kia đã đáp máy bay về nhà rồi thì hẳn nó sẽ tin
ngay chứ không khóc lóc ầm ĩ hay nghi ngờ gì.
Henry
là một thứ sếp trong buổi xế trưa này, vì hai đứa kia, Percival và Johnny, nhỏ
nhất đảo. Tóc và da thằng Percival có màu lông chuột mà có lẽ ngay cả mẹ nó
cũng không ưa nổi. Còn thằng Johnny thì trông vóc khỏe mạnh, tóc vàng, tính
tình hung hăng, lúc này chịu nghe lời chỉ vì ham vui. Ba đứa đang thân ái quỳ
chơi trên cát.
Roger
và Maurice từ trong rừng đi ra. Chúng hết phiên canh lửa nên kéo nhau xuống
đây, định bơi lội. Roger đi đầu, nó thẳng bước qua những ngôi thành cát, đạp đổ
hết, giẫm nát hoa, đá tung tóe những hòn cuội được mấy đứa nhóc chọn lựa.
Maurice theo sau, cười và phá thêm. Ba thằng nhóc ngừng chơi, ngước nhìn lên.
Những dấu hiệu đặc biệt mà chúng thích còn nguyên vẹn nên chúng không phản đối
gì. Riêng Percival bật lên mếu máo vì cát văng đầy mắt nên thằng Maurice chạy
vội đi. Trước đây lâu rồi nó từng bị ăn đòn vì đã hắt cát vào mắt một đứa nhỏ
hơn. Bây giờ, tuy ở đây không có ông bố bà mẹ nào để xáng cho nó một bạt tai nổ
đom đóm mắt, Maurice vẫn thấy bứt rứt vì đã làm chuyện sai quấy. Nó loay hoay
tìm cách biện hộ trong thâm tâm. Nó lẩm bẩm gì đấy đến chuyện bơi lội rồi chạy
ù đi.
Thằng
Roger đứng lại nhìn lũ nhóc. Nó không đen hơn ngày đầu mấy, nhưng mớ tóc đen bù
xù dài tận gáy và xõa xuống trán có vẻ hợp với khuôn mặt cau có đã biến nó từ
một đứa lãnh đạm khó gần gũi trước kia thành một kẻ gớm guốc. Percival nín
khóc, tiếp tục chơi, vì nước mắt đã làm trôi sạch cát. Thằng Johnny nhìn nó với
đôi mắt màu men xanh, rồi té cát lên như mưa, tức thì Percival lại òa lên.
Chơi
chán, Henry bỏ đi dọc bãi biển. Thằng Roger bám theo, nép dưới hàng dừa, làm
như tình cờ lững thững đi cùng hướng. Henry đi cách hàng dừa và bóng râm một
quãng, vì nó quá nhỏ nên chưa biết cần phải tránh nắng. Nó đi xuống dưới, chơi
sát bờ nước. Nước Thái Bình Dương đang dâng nhanh, cứ sau vài giây mặt phá nước
tương đối lặng lại tiến vào thêm chừng hai đốt ngón tay. Làn nước của biển mới
xô vào này mang theo nhiều sinh vật li ti trong veo dò dẫm trên cát nóng và
khô. Chúng thám thính vùng đất mới với những giác quan li ti. Biết đâu lần này
có thức ăn, dù lần mò mẫm trước chúng không tìm thấy: phân chim, hoặc côn
trùng, mọi mảnh vụn vương vãi của đời sống trên đất liền. Lũ sinh vật trong veo
này bò lên, như hàng vạn răng cưa li ti, bới tìm thức ăn trên bãi biển.
Thằng
Henry say mê nhìn. Nó nhặt một chiếc que con mòn và bợt trắng vì sóng biển trôi
giạt lên bãi, thọc lung tung, thử điều khiển những sinh vật dọn rác này di
chuyển theo ý nó. Nó đào những rãnh nhỏ, đợi ngập nước thủy triều rồi tìm cách
hướng đám sinh vật ấy vào đấy. Nó say sưa và vô cùng sung sướng khi cảm thấy
điều khiển được sinh vật. Nó nói với chúng, thúc ép chúng, ra lệnh cho chúng.
Nước triều lên khiến nó bước lùi lại, vết chân nó biến thành những cái vịnh
giam hãm đám sinh vật kia, cho nó ảo tưởng rằng nó tài giỏi. Nó ngồi xổm sát mé
nước, cúi nhìn, một lọn tóc xõa lên trán và mắt; nắng xế trưa bắn xuống những
mũi tên vô hình.
Roger
cũng chờ đợi. Mới đầu nó núp sau một thân dừa lớn, nhưng rồi bước hẳn ra ngoài
vì thằng Henry bận mê mải với những sinh vật trong veo. Nó nhìn dọc bãi cát.
Thằng Percival đã khóc lóc bỏ đi, còn thằng Johnny được tự hào làm chủ những
tòa thành. Nó ngồi đấy, nghêu ngao hát và ném cát vào một thằng Percival vô
hình. Roger nhìn thấy vỉa đá phía sau thằng Johnny, nơi tóe lên loang loáng nơi
Ralph, Simon, Piggy và Maurice đang ngụp lặn trong vũng tắm. Nó cố vểnh tai
nhưng chỉ nghe loáng thoáng tiếng của bọn chúng.
Một
làn gió nhẹ chợt lay động những tán dừa khiến những tàu lá đung đưa xào xạc.
Phía trên đầu Roger chừng gần hai chục mét, một chùm dừa, như những quả bóng
bầu dục đầy xơ, đứt cuống nối nhau rơi xuống đất ầm ầm nhưng không trúng nó.
Roger chẳng nghĩ gì đến chuyện vừa thoát nạn, mà đảo mắt từ những quả dừa tới
Henry rồi trở lại.
Lớp
đất ngay dưới những gốc dừa là bãi bồi, đời này qua đời nọ, những cây dừa đã
làm lỏng những viên đá xưa kia vốn nằm trên bãi cát khác. Roger cúi nhặt một
hòn đá ném Henry - nó cố ý ném hụt. Viên đá, dấu hiệu của thời kì mông muội,
rơi xuống nước, bên phải Henry khoảng năm mét. Roger lại nhặt một nắm đá, ném
tiếp, nhưng không dám ném quanh Henry chừng sáu mét đường kính. Trên đảo này,
những điều cấm kỵ ở quê nhà vẫn sâu đậm, dẫu không lộ rõ. Thằng bé đang ngồi
xổm kia được cha mẹ, nhà trường, cảnh sát và luật lệ che chở. Một nền văn minh
đã bị tàn phá và không biết gì hết về sự hiện hữu của Roger đã níu lấy nó.
Henry
ngạc nhiên nghe tiếng rơi lõm bõm xuống nước. Nó quên khuấy đám sinh vật trong
veo câm lặng, chú mục như chó săn nhìn vào tâm của những vòng sóng nước đang
loang rộng. Những viên đá rơi xuống phía này phía nọ khiến Henry không ngớt
ngoái nhìn, nhưng đều không kịp thấy viên đá bay vút trên không. Cuối cùng nó
cũng thấy được một viên, bèn cười hăng hắc đưa mắt tìm thằng bạn đang trêu chọc
nó. Nhưng Roger đã vọt nhanh lại sau thân dừa, tựa vào đấy, thở gấp,mắt chớp
lia lịa. Rồi Henry thấy chán những viên đá kia bèn bỏ đi.
“Roger!”
Jack
đang đứng dưới một gốc cây cách chừng mươi mét. Khi Roger mở mắt ra nhìn Jack,
một cái bóng sẫm hơn bò dưới lớp da ngăm đen của nó, còn Jack không thấy gì cả.
Nó nôn nóng vẫy, nên Roger liền đi tới.
Cuối
con sông có một vũng nước, một cái hồ nhỏ xíu do cát chặn lại, đầy lục bình
trắng và cói hình cây kim. Có Sam với Eric đang đợi ở đây, cả Bill nữa. Jack
quỳ trong bóng râm bên hồ, lật ra hai tấm lá to nó cầm theo. Một lá đựng đất
sét trắng, lá kia đựng đất sét đỏ. Cạnh đó là một khúc than củi mang từ đống
lửa trên núi xuống.
Vừa
làm Jack vừa giải thích cho Roger.
“Chúng
không ngửi ra tao. Nhưng chúng trông thấy tao, tao nghĩ thế, như một vật gì đó
màu hồng dưới những gốc cây.”
Nó
tô đất sét lên mặt.
“Ước
gì tao có được chút màu lục!”
Nó
quay khuôn mặt đã tô hết một nửa nhìn Roger đang ngơ ngác, vẻ không hiểu.
“Để
đi săn. Như trong chiến tranh vậy. Vẽ ngụy trang, mày biết mà. Để vật này trông
giống vật gì khác...”
Nó
vặn vẹo người, gấp gáp giải thích.
“...
giống lũ bướm đêm trên thân cây ấy mà.”
Roger
hiểu ra, gật gù ngẫm nghĩ. Hai thằng sinh đôi xích lại gần Jack, rụt rè phản
đối chuyện gì đấy. Jack xua chúng đi.
“Câm
mồm!”
Nó
tô mẩu than lên mặt, xen kẽ giữa những vệt đỏ và trắng.
“Không.
Hai đứa bay đi theo tao.”
Nó
nhìn bóng mình trong vũng nước, thấy không thích, liền cúi xuống vốc nước ấm
đầy hai bàn tay gột đi những vệt tèm lem trên mặt. Những đốm tàn nhang và lông
mày màu cát lại hiện ra.
Roger
gượng cười.
“Trông
đâu có xấu.”
Jack
vẽ lại. Nó bôi trắng một bên má và một hốc mắt, nửa mặt kia bôi đỏ rồi vạch một
vệt than đen từ tai phải xuống hàm bên trái. Nó tìm hình mình trong hồ nước,
hơi thở của nó làm xao động mặt gương.
“Sam
- Eric. Tìm cho tao một sọ dừa. Không có nước.”
Nó
quỳ xuống, đưa giữ gáo nước. Một vệt nắng tròn chiếu lên mặt nó và đáy nước
sáng lên. Nó kinh ngạc nhìn vào cái bóng không phải của nó nữa mà của kẻ nào đó
xa lạ và đáng sợ. Nó hắt nước đi, nhảy dựng lên cười khoái trí. Bên hồ, những
đứa kia nhìn chòng chọc thân hình gân guốc mang mặt nạ của nó và khiếp hãi. Nó
liền nhảy múa và tiếng cười của nó nghe gầm gừ và khát máu. Nó nhảy phóc tới
thằng Bill. Mặt nạ là thứ gì đấy hoàn toàn tách biệt để Jack nấp phía sau,
thoát mọi ngượng ngập lẫn e dè. Khuôn mặt đỏ, trắng và đen kia vọt lên không,
phóng tới thằng Bill. Bill cười phá lên, đột nhiên nó câm bặt rồi bỏ chạy qua
những bụi cây, vấp lên vấp xuống.
Jack
phóng lên hai đứa sinh đôi.
“Những
đứa còn lại làm thành một hàng. Nhanh!”
“Nhưng
mà...”
“...
tụi tao...”
“Nhanh!
Tao sẽ bò lên rồi phập...”
Chiếc
mặt nạ đã buộc chúng phải nghe lời.
Ralph
leo ra khỏi vũng tắm, đi ngược lên bãi, ngồi dưới những bóng dừa. Nó vuốt ngược
mái tóc vàng xõa xuống lông mày. Simon đang đập chân bơi, còn Maurice tập nhảy
chúc đầu xuống nước. Piggy đi lang thang, nhặt bừa đây đó thứ gì đấy rồi lại
bỏ. Những cái vũng vây quanh là đá tảng vẫn lôi cuốn nó giờ đây ngập nước thủy
triều, khiến nó mất hứng, đành chờ đến khi triều xuống. Đột nhiên thấy Ralph
dưới gốc dừa, nó liền tò mò tới ngồi bên cạnh.
Piggy
mặc chiếc quần soóc tả tơi, thân hình béo núc của nó nâu vàng, đôi mắt kính vẫn
ánh lên khi nhìn vật nào đấy. Nó là đứa duy nhất trên đảo có tóc chừng như
không hề dài thêm. Đầu đứa nào cũng bù xù, riêng tóc Piggy vẫn nằm thành sợi
trên đầu, như thể nó hói bẩm sinh và mái tóc thưa thớt kia sẽ sớm rụng đi như
lộc non trên sừng nai tơ.
“Tao
đang nghĩ về một cái đồng hồ,” nó nói. “Mình có thể
nàm một cái đồng hồ mặt trời. Mình cắm một cây que[10] trên
cát, thế nà...”
[10] Dùng bóng que để xác định giờ.
Diễn
tả điều này bằng toán học sẽ rất mất công, nên nó chỉ tả qua loa.
“Và
một chiếc máy bay, một máy truyền hình,” Ralph bực mình nói, “cả một máy hơi nước.”
Piggy
lắc đầu.
“Cho
những thứ ấy mình cần nhiều kim noại,” nó nói, “mà mình đâu có kim noại. Nhưng
mình có que.”
Ralph
quay lại, vô tình bật cười. Piggy đúng là thứ của nợ. Thân hình mập ú của nó.
Bệnhxiễn của nó, những ý nghĩ tỉnh bơ của nó thật chán phèo, nhưng
chọc ghẹo nó - dù không cố ý - thì thật vui.
Piggy
thấy thế tưởng nhầm rằng đó là sự thân thiện. Những đứa lớn đều đã dần dà cho
rằng thằng Piggy không hợp với bọn chúng, không chỉ vì khẩu âm của nó, điều này
chẳng quan trọng mấy, nhưng vì nó mập ú, vì bệnhxiễn, vì nó đeo
kính, và vì nó kiêng việc tay chân. Giờ đây thấy điều nó nói ra khiến Ralph bật
cười, nó liền mừng rơn, chộp ngay cơ hội.
“Mình
có cả đống que. Tụi mình có thể nàm cho mỗi đứa một cái đồng hồ mặt trời. Mình
sẽ biết giờ giấc.”
“Bổ
ích gớm nhỉ?”
“Mày
bảo phải nàm gì mà. Để mình được cứu khỏi đây.”
“Thôi,
im miệng đi.”
Nó
đứng vọt dậy, quay lại vũng tắm, đúng lúc Maurice phóng xuống trông thật thảm
hại. Ralph mừng vì có chuyện khác để đổi đề tài. Khi Maurice trồi lên, nó hét
lớn.
“Ê
ê vỡ bụng! Ê ê vỡ bụng!”
Maurice
mỉm cười nhìn Ralph nhẹ trườn xuống nước. Trong bọn chúng, Ralph là đứa thoải
mái nhất với cuộc sống ở đây; nhưng hôm nay, nó khó chịu khi phải nghe cái từ “cứu”
vô dụng, vớ vẩn. Làn nước sâu màu lục và nắng vàng óng lung linh không an ủi
được nó. Thay vì ngồi nghịch nước, nó lặn đều nhịp bên dưới thằng Simon rồi leo
lên phía bên kia vũng tắm, nằm ướt nhẹp như con hải cẩu. Piggy, luôn luôn cục
mịch, đứng lên bước lại cạnh Ralph. Thằng này làm như không thấy, nằm quay sấp.
Ảo ảnh đã tan hết. Nó rầu rĩ đưa mắt nhìn chân trời xanh căng như lằn chỉ.
Khoảnh
khắc sau nó nhảy dựng lên, hét lớn.
“Khói!
Khói!”
Simon
ngồi bật dậy giữa vũng tắm, bị nước ập đầy miệng. Maurice đang đứng, định phóng
xuống liền xoay người, vọt tới vỉa đá, nhưng lại ngoặt quay qua bãi cỏ dưới
hàng dừa. Ở đây nó mặc vào cái quần soóc tơi tả, sẵn sàng cho mọi chuyện.
Ralph
một tay giữ ngược mái tóc, tay kia nắm chặt. Simon leo ra khỏi vũng tắm. Piggy
lau kính lên quần soóc, hấp háy trông ra biển. Maurice xỏ cả hai chân vào một
ống quần soóc. Trong cả đám chỉ có Ralph vẫn đứng yên.
“Tao
không thấy khói,” Piggy ngờ vực nói. “Ralph ơi, tao không thấy khói - khói ở
chỗ nào?”
Ralph
không đáp. Giờ đây hai bàn tay nó siết chặt trên trán để mái tóc vàng khỏi xõa
xuống mắt. Nó nghiêng tới trước. Muối trắng bám đầy trên mình nó.
“Ralph...
con tàu đâu?”
Simon
đứng bên cạnh, hết nhìn Ralph lại ngó chân trời. Quần của Maurice rách xoạc một
cái, nó quẳng luôn tại đó, chạy tới bìa rừng rồi trở lại.
Khói
như một cái nút nhỏ nơi chân trời, đang chầm chậm cuộn lên. Bên dưới là một
chấm con, có lẽ là ống khói. Mặt Ralph nhợt nhạt khi nó lẩm bẩm, như cho chính
nó nghe.
“Họ
phải trông thấy khói của bọn mình.”
Lúc
này Piggy đã nhìn được đúng hướng.
“Tao
chẳng thấy gì mấy.”
Nó
quay lại, đăm đăm nhìn lên núi. Ralph tiếp tục hau háu nhìn con tàu. Mặt nó đã
có thần sắc. Simon đứng im lặng bên cạnh nó.
“Tao
biết mắt tao nhìn không được rõ,” Piggy nói, “nhưng tụi mình có khói không chứ?”
Ralph
nhấp nha nhấp nhổm, mắt vẫn đăm đăm nhìn con tàu.
“Khói
trên núi.”
Maurice
chạy tới, đăm đăm nhìn ra biển. Cả hai thằng Simon và Piggy đều nhìn lên núi.
Piggy nheo mắt, còn Simon hét lên như chính nó bị thương.
“Ralph!
Ralph!”
Tiếng
kêu thất thanh khiến Ralph quay lại.
“Nói
cho tao biết đi,” giọng Piggy lo lắng, “có tín hiệu gì không?”
Ralph
quay nhìn làn khói đang tan dần nơi chân trời rồi ngó lên núi.
“Ralph
ơi, tao năn nỉ mà! Có dấu hiệu gì không?”
Simon
rụt rè đưa tay định chạm vào Ralph, nhưng Ralph đã vọt qua đầu cạn của vũng tắm
làm nước văng tung tóe, xuyên bãi cát trắng nóng, chạy dưới hàng dừa. Lát sau
nó phải đánh vật với tầng cây thấp đang phủ kín dần vệt sẹo. Simon chạy theo
sau, rồi tới Maurice. Piggy gào lên.
“Ralph!
Nói đi mà... Ralph!”
Rồi
nó cũng phóng đi, nhưng chưa qua khỏi bãi dừa đã vấp phải cái quần thằng
Maurice quẳng ở đó. Sau lưng bốn đứa, khói tàu chầm chậm trôi dọc chân trời,
còn trên bãi biển, thằng Henry và Johnny đang ném cát vào Percival khiến thằng
nhỏ lại lặng lẽ khóc. Nhưng cả ba đứa hoàn toàn chẳng biết gì về sự cố chấn
động kia.
Tới
cuối vệt sẹo, Ralph thở hồng hộc chửi đổng. Nó đã liều mạng phóng giữa những
dây leo xù xì khiến máu chảy ròng ròng trên tấm thân trần. Nó dừng lại chỗ núi
dốc. Maurice chỉ sau nó vài mét.
“Kính
của thằng Piggy!” Ralph kêu, “nếu lửa tắt ngấm rồi thì mình cần có kính...”
Nó
ngừng lại rồi xoay tới xoay lui trên đôi chân. Bây giờ mới thấy thằng Piggy
đang phục phịch từ bãi cát leo lên. Ralph nhìn chân trời rồi ngó lên núi. Nên
đợi lấy kính của Piggy chăng, nhỡ lúc đó con tàu đi mất rồi? Còn nếu cứ leo lên
núi ngay, giả thử lửa đã tắt ngấm và chúng phải chờ Piggy bò lên mà con tàu
khuất dưới đường chân trời? Ralph phân vân tột độ, đau đớn vì không quyết đoán
được, nó gào lên.
“Trời
ơi! Trời ơi!”
Simon
khó nhọc lách qua những bụi cây, thở hổn hển, mặt nhăn nhúm. Ralph tiếp tục
luồn lách lao đi và phát điên khi thấy làn khói mỏng dần xa.
Lửa
đã tắt. Chúng thấy ngay, thấy cái điều thật ra chúng đã biết từ ở dưới bãi, khi
làn khói quê hương vẫy gọi. Lửa đã tắt ngấm, không một tí khói, tắt hoàn toàn;
những đứa canh giữ lửa đã bỏ đi. Một đống củi chưa dùng đến nằm sẵn đó.
Ralph
quay ra nhìn biển. Một lần nữa, chân trời lại trải dài thật vô tình, tuyệt
không thấy một làn khói mỏng manh nào. Ralph loạng choạng chạy dọc những tảng
đá, đứng khựng lại kịp bên bờ vách núi màu hồng hét gọi con tàu.
“Quay
lại! Quay lại!”
Nó
chạy tới chạy lui bên vách núi, mắt luôn hướng ra biển, gào như mất trí.
“Quay
lại! Quay lại!”
Simon
và Maurice lên tới nơi. Ralph nhìn chúng không chớp. Simon quay đi, lau vội
nước mắt trên đôi má. Ralph moi tận đáy lòng tìm cái từ tệ hại nhất mà nó biết.
“Chúng
đã để ngọn lửa khốn kiếp này tắt mất rồi.”
Nó
nhìn xuống sườn núi rậm rạp. Piggy đã lên tới nơi, thở hồng hộc và mếu máo như
một đứa nhóc tì. Ralph nhắm chặt tay, mặt đỏ gay. Cái nhìn gay gắt, giọng nói
chua chát của nó đã thay cho lời nói.
“Chúng
kia kìa.”
Một
đám rước hiện ra tận dưới kia, giữa những đống đá vụn màu hồng gần mé nước. Một
số đứa đội mũ đen, ngoài ra gần như trần truồng. Mỗi khi tới chỗ dễ đi chúng
đều cùng vung gậy lên cao. Chúng ca hát, hình như liên quan gì đấy tới cái bó
mà hai thằng sinh đôi ngỗ ngược đang thận trọng gánh. Tuy đứng xa nhưng Ralph
vẫn dễ dàng nhận ra Jack, cao, tóc đỏ, đang dẫn đầu đám rước - chắc chắn rồi.