Ngón Tay Mình Còn Thơm Mùi Oải Hương - Chương 10
Tây Ban Nha:
Barcelona, Barcelona…
Tôi mượn lời bài hát thật hội hè tại
Olympic Barcelona 1992 này làm tựa bài viết về thành phố Tây Ban Nha bên bờ Địa
Trung Hải, nổi tiếng với kiến trúc Gaudi, đàn guitar, rượu sangria và những vũ
điệu nóng bỏng như một mùa hè Nam Mỹ.
Trong
một chương trình TV tôi mới được xem, dân châu Âu xếp Barcelona đứng đầu 10
thành phố đẹp và dễ sống nhất thế giới, trên cả những đối thủ nặng ký Paris
lãng mạn, London kiêu hãnh, Amsterdam tự do thoải mái, New York “cosmopolitan”
hội tụ dân thập phương tứ xứ, Venice đẹp như tranh… Cũng dễ hiểu thôi, đối với
những nước châu Âu quanh năm lạnh lẽo, được hơn hai tháng hè nắng ấm rồi lại về
với những cơn gió lạnh, sương mù và mưa phùn, Barcelona - vừa là trung tâm tài
chính kinh tế quốc gia, vừa được thiên nhiên ưu đãi bờ biển cát mịn trải dài và
những tia nắng ấm áp gần như quanh năm - quả là thiên đường.
Barcelona luôn
được xem như một thành phố đầy tham vọng và hiện đại. Luôn làm mới mình và sẵn
sàng đón nhận những điều lạ, thủ phủ xứ Catalan bắt đầu nổi lên như một “hiện
tượng” trên thế giới từ năm 1987, khi chủ tịch Ủy ban Olympic quốc tế thông báo
thông báo thành phố chủ nhà Olympic 1992. Từ đó, Barcelona vượt qua
cái bóng của thủ đô Madrid và bốn mươi năm đế chế Franco để trở thành một trong
những thành phố năng động nhất châu Âu.
Bị trễ
chuyến bay của RyanAir nên tôi phải bay đến Reus, cách Lloret de Mar nơi
tôi hẹn với Daniel hơn 200 cây số. Xe buýt của hãng hàng không chở chúng tôi từ
sân bay Reus đến Barcelona đã nửa đêm. Tôi xách hành lí chạy
thục mạng vào nhà ga trung tâm Barcelona những sau một hồi vừa thở hổn hển vừa
chạy khắp ga, tôi thất vọng khi biết chuyến tàu cuối cùng về Lloret de Mar đã
rời ga cách đó không lâu.
Tôi
ngán ngẩm ngồi phịch xuống băng ghế dài. Đã sắp 12 giờ khuya những bên trong
nhà ga vẫn còn nhiều người lên xuống qua lại. Mấy ông taxi tới hỏi tôi đi đâu
và ra giá 120 euro sau khi biết nơi tôi muốn đi. Ban nãy bị trễ chuyến bay tôi
đã phải đóng mấy chục bảng Anh, bây giờ thêm chừng này tiền taxi nữa tiền đâu
đi chơi. Thế là tôi lắc đầu từ chối rồi nhìn quanh quất xung quanh, chợt nảy ra
ý định ngủ lại luôn trong sân ga chờ chuyến tàu sớm nhất vào 5 giờ sáng mai,
cũng không còn bao lâu nữa.
Một anh
chàng gốc châu Á trạc tuổi tôi vừa bước ra từ chuyến tàu đêm, mang trên vai một
túi xách du lịch to tướng ghé vào quầy bán hàng trước chỗ tôi ngồi. Anh có vẻ
là người địa phương vì phong thái tự tin và nói tiếng Tây Ban Nha rất rành,
trông mặt mũi cũng hiền lành thân thiện nên tôi lân la lại hỏi: “Hình như anh
là người ở đây? Cho tôi hỏi khuya ở nhà ga này có an toàn không?”. “Đúng rồi, nhà
tôi ở gần đây, nhưng sao bạn hỏi vậy? Bạn định ở lại đây chờ chuyến sáng mai
hả?”. Tôi gật đầu, anh quay sang hỏi những người bán hàng bằng tiếng địa phương
rồi quay lại bảo tôi: “Họ nói nửa tiếng nữa ở đây sẽ đóng hết cửa lại, bên
ngoài không vào được. Khuya cũng có bảo vệ trực, vậy chắc không đến nỗi nguy
hiểm đến tính mạng, chỉ sợ bạn ngủ quên có kẻ xấu lấy cắp đồ thôi.”
Tôi cảm
ơn anh rồi ngồi xuống suy nghĩ. Những tác giả về du lịch tôi yêu thích có kể
lại những hoàn cảnh còn tệ hại hơn. Chẳng hạn tác giả Bill Bryson thời còn sinh
viên qua Anh lúc khuya lơ khuya lắc, chỉ những khách sạn hạng sang còn mở cửa.
Không đủ tiền anh chàng đành phải ngủ ngoài đường, lôi hết quần áo khăn lông
trong vali ra quấn lên người nằm co ro bên ngoài chống lại cái lạnh về khuya
như cắt da cắt thịt. Ở đây được ngủ bên trong còn tốt chán. Nghĩ vậy, tôi quyết
định sẽ ở lại ga tối nay.
Anh bạn
kia vẫn đứng tần ngần, bảo:
- Sao
tôi cũng ngại cho bạn quá! Hay bạn đi ra khách sạn bên này nè!
- À,
tôi là sinh viên, khách sạn gần ga mắc lắm, với lại chỉ vài tiếng nữa đến
chuyến tàu sáng, không sao đâu.
Anh
ngẫm nghĩ một chút:
- Nếu
bạn không ngại có thể về nhà tôi. Bữa nay chỉ có một đứa bạn nữa ở nhà, tôi
cũng đi vắng mấy ngày nay, về Madrid thăm ba mẹ mới lên lại. Bạn tôi
vui vẻ mến khách lắm. Nhưng tùy bạn thôi.
Bất ngờ
trước lời mời, tôi bật cười rồi đưa mắt quan sát anh. Anh trạc tuổi tôi, trông
khá thật thà và đáng tin cậy (Những năm tháng sống xa nhà từ khi còn nhỏ xíu
học cấp I đã dạy tôi cách nhìn người khá tốt). Tôi suy nghĩ hồi lâu rồi quyết
định gật đầu đồng ý. Anh cười mừng rỡ “Ừ thôi về nhà nhé, sao nhìn ga này thấy
cũng… ớn ớn.”
Francesco,
tên anh bạn mới quen, xách hộ giỏ đồ của tôi rồi chúng tôi đi bộ ra ngoài.
Barcelona đón tôi lúc nửa đêm bằng những con phố ấm áp với hàng cọ xanh um
chính giữa đại lộ, thỉnh thoảng có những cơn gió hiu hiu như Sài Gòn những đêm
cuối năm. Trời nóng những không ẩm nên rất dễ chịu. Tôi ngửa mặt nhìn những
ngôi sao thưa thớt trên trời đêm “Chào Barcelona”.
Trên
đường đi, tôi hỏi anh người châu Á gốc nước nào, anh bảo: “À, quê tôi ở xa lắm
chắc bạn không biết đâu.”. Tôi gật đầu: “Biết, biết, tôi cũng rành địa lý
lắm.”. Fran nói: “Tôi người gốc Việt Nam, bạn biết
Việt Nam không?”. Vừa bất ngờ vừa mừng rỡ, tôi chuyển sang nói tiếng
Việt ngay lập tức: “A, mình cũng người Việt nè.”. Thấy anh có vẻ không hiểu,
tôi nói lại câu đó bằng tiếng Anh, rồi hỏi: “Bộ anh không nói được tiếng Việt
hả?”. Anh lắc đầu: “Tôi sinh ra ở đây, cũng muốn học tiếng Việt nhưng không nói
được, chắc tại ba mẹ sống ở Madrid còn tôi ở Barcelona từ
nhỏ. Với lại mỗi lần nhắc tới Việt Nam mẹ tôi khóc hoài nên tôi chán
lắm.”. Tôi thôi không hỏi nữa, một phần cũng vì chúng tôi đã đứng trước cửa nhà
anh.
Anh bạn
người Tây Ban Nha cùng nhà bất ngờ khi thấy tôi, nhưng vẫn hồ hởi bước ra chào.
Sau khi nghe Fran giải thích, anh chàng cười tươi rói, bảo: “Đúng rồi đó ở đây
đi, tụi tôi đàng hoàng lắm, ở nhà ga có bảo vệ thì có chứ vẫn không an toàn cho
bạn đâu.”. Fran cất túi, xuống tủ lạnh lấy sữa và bánh mì mời tôi rồi bảo tôi
có dùng Internet thì dùng. Tôi uống sữa, ăn bánh rồi vừa ngáp vừa lên Internet
xem chỉ dẫn đường đi đến khách sạn ở Lloret de Mar. Fran ôm gối ra xa lông bảo:
“Tôi ngủ trước đây, đi đường hơi mệt! Tối nay tôi ngủ ngoài phòng khách, còn
bạn ở phòng tôi đi, đói bụng cứ ra tủ lạnh lấy đồ ăn thêm nhé!”. Tôi áy náy:
“Để tôi ngủ ngoài phòng khách cho!”, nhưng Fran cười gạt đi: “Không phải ngại!
Mình là người Việt mà, người Việt lúc nào cũng nhường chỗ tốt hơn cho khách
đúng không?”.
Sáng
sớm hôm sau, Fran buồn ngủ mắt nhắm mắt mở nhưng một mực đòi xách giỏ tiễn tôi
ra ga, giúp tôi mua vé lên tàu rồi mới chịu về nhà. Tôi quay sang nhắc lại lời
mời hôm qua: “Cuối tuần tôi lên đây lại, mời anh với bạn gái đi ăn một bữa
nhé!”.
Sau mấy
ngày ở Lloret de Mar, Daniel và tôi trở lại Barcelona. Du khách đến đây
ngày đầu tiên thường tìm ngay đến Sagrada Familia, kiến trúc bằng đá kiểu
Gothic ngay ở trung tâm thành phố. Công trình được thiết kế bởi kiến trúc sư
tài danh Antoni Gaudi, hơn một thế kỷ nay vẫn chưa xây xong. (Dân Tây Ban Nha
vốn nổi tiếng “làm biếng”, điển hình qua việc ngày làm việc thường bắt đầu từ
10 giờ sáng đến 1 giờ trưa, rồi từ sếp đến nhân viên đều làm một giấc ngủ trưa
(siesta) đến 3, 4 giờ chiều mới bắt đầu làm việc lại, thà chịu ra về trễ còn
hơn mất siesta). Tòa tháp còn được biết đến với cái tên “Ngôi đền của gia đình
mộ đạo”, có ba mặt: phía Đông tượng trưng ngày Chúa ra đời, phía Tây tượng
trưng cái chết và sự say mê, còn tháp lớn nhất ở phía Nam tương trưng cho sự
vinh quang. Dù đang xây dở dang, Sagrada Familia trông vẫn tuyệt đẹp, với những
ngọn tháp nhọn vươn lên cao vút trên nền trời xanh nhiệt đới, đứng cạnh bên có
thể chiêm ngưỡng được những đường nét chạm khắc cực kì tinh xảo.
Rời
công trình thế kỉ nọ,
chúng tôi đến La Rambla. Phố đi bộ dài rộng thênh thang với hàng dãy các cửa
hàng bán khăn, áo, mũ nón và đồ lưu niệm làm bằng tay của dân địa phương và các
nơi khác trên thế giới, bên cạnh những gánh hoa tươi muôn màu. Trái với tưởng
tượng của tôi, những vật dụng trong các shop trông rất tinh tế chứ không tràn
lan tạp nham như những “bẫy khách du lịch” (tourist traps) mà những thành phố
lớn thường hay có. Tuy đắt đỏ nhất Tây Ban Nha, vật giá
ở Barcelona vẫn rất rẻ so với những nước láng giềng Anh, Pháp, Đức,
Ý... nên dân châu Âu qua đây mua sắm nườm nượp. Nhất là vào dịp cuối tuần, ai
cũng tay xách nách mang những giỏ giấy đựng đầy quần áo, giày dép, thức ăn và
rượu vang.
La
Rambla rất xanh với những hàng cây rợp bóng, và dù khách bộ hành qua lại đông
đúc nhưng vẫn sạch sẽ tinh tươm. Thỉnh thoảng bên đường lại bắt gặp tiếng nhạc
rộn rã phát ra từ những cây đàn guitar (không phải “của đại đội 3” mà của những
nghệ sĩ lang thang Tây Ban Nha, vốn là cái nôi của đàn guitar trên thế giới).
Trên khu La Rambla, chợ Boqueria là một bữa tiệc cho tất cả các giác quan: mắt
thấy trái cây tươi rói, hải sản, thức ăn làm sẵn... màu sắc thật ngon mắt; mũi
ngửi mùi thơm nhè nhẹ của trái cây quyện mùi paella (cơm truyền thống Tây Ban
Nha trộn tôm, mực, sò, thịt gà...) thơm phức; tay sờ những trái dâu chín mọng,
đào và mơ mịn màng còn nguyên những giọt sương buổi sớm; tai nghe tiếng rao
hàng lẫn tiếng cười nói lao xao; và miệng nếm thử những món mứt kẹo ngọt ngào
mà người bán hàng hào phóng đưa cho. Boqueria đối với tôi thú vị như chợ Bến
Thành đối với khách du lịch phương Tây vậy.
Nhưng
thích nhất vẫn là những con đường nhỏ dọc theo La Rambla. Cũng có nhiều shop
lưu niệm với những cô bán hàng đáng yêu tươi cười vui vẻ. Đường nhỏ vắng người
nên yên tĩnh, có thể hít thở không gian buổi chiều ấm áp và hương hoa thơm ngát
từ những gánh hàng hoa tràn cả ra ngoài.
Chúng
tôi không có nhiều thời gian ở Barri Gotic, khu phố cổ từ thế kỉ 14 còn nguyên vẹn những
dấu vết nguyên thủy xưa. Nhưng mỗi lần nhìn lại những bức ảnh chụp phố xưa với
lâu đài, nhà thờ, cầu treo, tường cũ, tôi lại nhớ đến những dây leo quấn xanh
rờn trên tường đá lối vào khu phố và những tia nắng cuối ngày dát vàng thành
cổ. Nhớ chiếc cầu treo bắc ngang hai tòa nhà với mái vòm và lan can uốn lượn
như chờ cô công chúa Tây Ban Nha ném quả cầu chọn chồng trong truyện cổ tích
ngày nào. Nhớ tiếng sáo thổi huyền hoặc âm vang trong tĩnh lặng chỉ có tiếng
bước chân du khách nhón gót và trò chuyện với nhau thật khẽ khàng.
Những
nơi còn lại ở Barcelona không yên tĩnh. Nhắc tới thành phố này, dân
“chịu chơi” thường nhắc tới những quán bia, quán rượu khắp nơi, còn dân địa
phương, khách du lịch cũng như người nước ngoài đang làm việc tại đây đua nhau
nốc sangria (rượu đặc trưng Tây Ban Nha có độ cồn rất cao, ngâm trái cây tươi
như dâu, cam, đào mơ...) như nước lã. Như đã hẹn trước, tôi gọi điện cho
Francesco mời anh và bạn gái đi ăn để cảm ơn. Khu Barcelona mà Fran dẫn chúng
tôi tới ở gần bãi biển. Trước đây là làng chài, sau nữa là khu phố của ngư dân
và ngày nay tràn ngập những nhà hàng hải sản kiểu alfresco với khách ăn uống nhộn
nhịp trên những bộ bàn ghế kiểu Địa Trung Hải kê dọc vỉa hè. Trong lúc đi bộ,
tôi hỏi Fran sao không thấy những trường đấu bò Tây Ban Nha ở Barcelona thì
được biết chỉ Madrid và những vùng khác mới ưa chuộng môn thể thao nổi tiếng
thế giới này, còn người Barcelona và cả xứ Catalan cho đấu bò tót quá độc ác và
man rợ.
Đã 8
giờ tối, tôi đói bụng và cũng hơi mỏi chân nên đòi vào một trong những quán ăn
ven đường, Fran cười trêu chọc: “Giờ này sớm quá ai mà ăn tối, ở đây 10 giờ mới
ăn. Nhập gia tùy tục chớ”. Nói vậy nhưng Fran cũng dẫn chúng tôi vào một quán
rất ngon bên đường. Chúng tôi ăn no nê những đặc sản địa phương như mực nhỏ
bằng ba ngón tay nướng vỉ nguyên con, rắc rau mùi xắt nhuyễn và vắt chanh tươi,
hay tôm bỏ lò với nấm mọng nước vỡ ra trong miệng khi cắn. Fran chỉ cho tôi một
món ăn gồm thứ rau xanh rờn là lạ người phục vụ mới mang sang trên đĩa ông
khách ngồi bàn bên cạnh, cười bảo: “Ớt xào đó, có dám thử không Fran gọi cho?”.
Ông khách cười vui vẻ đưa nguyên đĩa cho chúng tôi, sớt ra gần phân nửa, bảo
bằng tiếng địa phương: “Ăn đi, ăn thử đi cho biết.”. Người Tây Ban Nha rất thân
thiện và hiếu khách (phải chăng nhờ vậy mà Barcelona đứng đầu bảng
những thành phố được ưa thích trên thế giới qua cuộc thăm dò nọ?). Do đó những
nước thuộc địa cũ của Tây Ban Nha ở châu Mỹ như Argentina, Mexico, Chile,
Ecuador, Costa Rica... cũng cùng một lối sống rất vui vẻ dễ chịu mà ai sang
cũng khó muốn về.
Nhưng
thành phố xứ Catalan này cũng có mặt trái của nó mà tôi tận mắt chứng kiến khi
đang đi bộ trên một đại lộ. Một người đàn ông đang chạy đuổi theo hai cô nàng
gầy gò mặc váy dài có vẻ là dân giang hồ, di-gan (dân “gypsy” lang thang nay
đây mai đó ở châu Âu). Hai cô nàng chạy tản ra hai hướng, ông quyết định nhắm
một cô rồi đuổi kịp túm lấy cổ áo, cô ta vội đưa cái bóp mới giật được đang cầm
trong tay. Người đàn ông lấy lại được ví tiền mới bị giật, lên xe rồi đi. Sự
việc diễn ra rất nhanh làm tôi đứng há hốc miệng ra nhìn. Tuy không lạ với
những cảnh cướp giật, móc túi (bản thân tôi cũng là nạn nhân bị giật mất dây
chuyền, điện thoại và giỏ xách trên những đường phố Sài Gòn), nhưng đi bao
nhiêu nước châu Âu, cướp giật giữa thanh thiên bạch nhật thế này quả là lần đầu
tiên tôi nhìn thấy.
Song
hình ảnh đáng buồn ấy vẫn không làm mờ đi những kỉ niệm đẹp của tôi ở đây. Cũng phải thôi, nếu những
nhân vật lỗi lạc Salvador Dali, Joan Miro hay Paolo Picasso (“kẻ nổi loạn trẻ
tuổi” vẫn thường lang thang những quán cà phê Barcelona thuở thiếu thời), gắn bó với
Barcelona đến thế, ắt hẳn thành phố này phải có thật nhiều điều níu chân
bất cứ ai.
Cho tới
bây giờ, mỗi lần nhìn lại cây nến màu xanh nước biển đắp vỏ sò ốc thiên nhiên
và hộp đựng bút bằng đá có khắc chữ Barcelona mua ở khu Barri Gotic, tôi lại
nhớ đến buổi sáng thức dậy sớm mắt nhắm mắt mở leo hàng hàng bậc thang dẫn lên
công viên Parc Guell ở Gracia, thấy sương sớm giăng mờ khắp những mái nhà ngái
ngủ và những ngọn tháp của nhà thờ Sagrada Familia kiêu hãnh vươn cao. Nhớ
những trạm xe điện ngầm độc đáo với những tác phẩm nghệ thuật mới (Art Nouveau)
và những bức tranh lớn thật sống động bằng đá mosaic khảm trên tường. Nhớ những
chiếc ghế dài bằng gốm nhiều màu nơi chúng tôi nghỉ chân ăn bánh mì trong tiếng
chim hót ríu rít. Nhớ nhà thờ lớn với những cây ngọc lan hoa trắng ngát thơm.
Nhớ buổi tối nằm dài trên cát trắng trong gió biển lồng lộng và tiếng đại dương
rì rầm cạnh bên, nghe mấy anh chàng địa phương ngồi gần bàn đua nhau hát ầm ĩ
những bài hát tiếng Tây Ban Nha thật hội hè... Và tôi lại hát nho nhỏ bài hát ở
Olympic năm nào “Barcelona,Barcelona...”.
Biết đâu Lloret De Mar…
Lloret De Mar đón tôi bằng cái nắng
chói chang như táp vào mặt, cái nắng chỉ có ở những vùng biển Tây Ban Nha dễ
làm chóng mặt những ai đến từ những nước phương Bắc xa xôi đầy mưa phùn. Đôi
bạn trẻ khách du lịch người Đức dẫn tôi tìm đường đến nơi ở chìa cánh tay ra,
bảo "Mới mấy ngày mà tụi này đã bị cháy da rồi đấy, cẩn thận nhé nắng
không chừa ai đâu."
Hành
trình đến Lloret De Mar mệt hơn tất cả những chuyến đi trong đời. Bị lỡ chuyến
bay ở sân bay London Stansted, tôi phải đóng thêm tiền và ngồi chờ mấy tiếng
đồng hồ để bay một chuyến khác đến Reus - cách nơi tôi muốn đến gần
ba trăm cây số. Vừa tiếc tiền, vừa mệt vì phải đổi tàu và xe buýt suốt một ngày
trời, đến Lloret De Mar tôi không thiết tha gì ngắm cảnh mà nằm ngủ li bì.
Khi tôi
thức dậy, thành phố trông cũng không khá hơn mấy. Trước khi tôi qua, mọi người
báo trước "Đã đi du lịch biển ở đó thì không có gì "văn hoá" đâu
nhé, chỉ toàn thấy khách du lịch người Anh và Đức nốc sangria suốt ngày
thôi!" Vốn quen tản bộ trên những thành phố êm đềm với những ngôi nhà xưa
hoa nở trên bệ cửa sổ, tôi choáng ngay trên đường ra bờ biển Lloret De Mar, với
những con đường hẹp ồn ào đầy những cửa hàng bán đồ lưu niệm và quần áo rẻ tiền
khắp nơi. Bờ biển nắng chói chang, chật chội với những cây dù đủ màu sặc sỡ và
khách du lịch nằm sắp lớp phơi nắng. Tôi thở dài, đeo kính đen tránh ánh nắng
chiếu thẳng vào mặt rồi lôi cuốn sách đem từ nhà sang nằm trên cát đọc.
Lloret
De Mar nằm phía Nam Costa Brava (có nghĩ là "Bờ biển gồ ghề" trong
tiếng địa phương), cùng với Costa Blanca cà Costa del Sol là ba vùng biển thu
hút nhiều du khách Châu Âu nhất Tây Ban Nha. Trải dài từ Blanes đến biên giới
nước Pháp, Costa Brava vốn nổi tiếng với những mỏm đá cao cút, núi
non cây cối xanh um, bờ biển trải dài nước trong xanh như lọc. Nhưng từ khi
phát triển du lịch, những tòa nhà xấu xí đua nhau mọc lên, du khách kéo đến
đông như kiến, vùng biển cũng mất đi nét nguyên sơ ngày trước. Tôi ngao ngán
bảo Daniel cũng đang chán nản ngồi bên cạnh nhìn khách du lịch ồn ào xung quanh:
"Có những nơi mình đi nhưng biết chắc chắn sẽ có ngày trở
lại: Parishay Vienna chẳng hạn. Cũng có những nơi mình đi nhưng
biết chắc chắn sẽ không bao giờ quay lại lần nữa..." Tôi bỏ dở câu nói,
nhưng anh hiểu ý ngay, gật đầu đồng tình.
Nhưng
đến khi nắng bắt đầu tàn và mọi người xếp khăn tắm, cuốn dù rải rác ra về, bờ
biển tĩnh lặng hơn và cũng đáng yêu hơn phần nào. Gió biển thổi hiu hiu mang
theo vị mặn rất đặc trưng mà lâu lắm tôi không có dịp cảm nhận. Ánh nắng hoàng
hôn lấp loáng rọi xuống mặt nước biển xanh và sâu thẳm sóng tung bọt trên những
mỏm đá gần bờ cát. Chúng tôi tản bộ trên một con dốc bậc thềm lát đá phía tay
phải bờ biển. Từ trên dốc đá, có thể nhìn thấy những cơn sóng buổi chiều lăn
tăn bên dưới, cạnh những quả bóng màu vàng thả bập bềnh trên biển đến tận bờ để
thuyền bè biết đường cập bãi cát. Dưới nắng hoàng hôn, những ngôi nhà cao tầng
mới xây trên con đường dọc bãi biển trông cũng dễ nhìn hơn ban sáng.
Phía
bên kia đồi, cách khoảng mười lăm phút đi bộ là một quán cà phê cheo leo trên vách
đá. Khách du lịch đang vừa uống nước vừa ngắm hoàng hôn buông xuống biển. Chúng
tôi không đến đó mà xuống đồi, tiếp tục đi bộ trên bãi cát ướt mịn màng cho
những con sóng mơn man trên bàn chân. Tôi sục chân xuống cát, nhớ những ngày về
Nha Trang cũng cát vàng biển xanh thế này, thỉnh thoảng còn bắt gặp những con
còng gió chân dài chạy lăng xăng trên bãi cát và những vỏ ốc trắng muốt sóng
đánh dạt vào bờ. Ở đây tuyệt nhiên không thấy một vỏ ốc nào, có lẽ tất cả đã
nằm trong những cửa hàng bán đồ lưu niệm, bán cho khách du lịch với giá cắt cổ
7 euro một túi (khoảng 140.000đ). Chỉ an ủi một điều tuy Lloret de Mar và biển
Tây Ban Nha nói chung đông đúc ồn ào nhưng mọi người ý thức không xả rác nên
khắp bãi biển vẫn sạch sẽ.
Ngày
hôm sau, chúng tôi qua con dốc phía bên kia, không có bậc thềm mà thay bằng con
đường lát đá quanh co phía trên biển, với một bên đại dương, một bên vách núi
mọc đầy thông xanh. Cheo leo trên đồi là tòa lâu đài qua mấy trăm năm nắng gió
xứ Catalan còn đứng đó, in bóng lên nền trời xanh. Tôi đứng im lặng, tưởng
tượng hàng mấy thế kỉ trước những gia đình hoàng gia cũng đứng nơi này, tự hào
nhìn tòa lâu đài kiêu hãnh được bao bọc bằng tường đá, với nắng hoàng hôn dát
vàng và gió biển làm lao xao những cây thông xanh ngắt xung quanh. Thỉnh thoảng
một trái thông rớt xuống thềm đá làm giật mình con chim hải âu đang đứng tư lự
trên mỏm núi.
Xung
quanh chúng tôi trên con đường đá rất vắng người. Lúc đó, tôi nghiệm ra ắt hẳn
Lloret de Mar trở thành địa điểm du lịch nổi tiếng nhờ tòa lâu đài đẹp như
trong truyện cổ tích này. Nhưng du khách đến đây 99 % chỉ cắm dù trải khăn
xuống cát tắm biển từ trưa tới chiều. Tối thì vào những quán bar Bogeda nốc
sangria như nước lã, xong vào discotheque đến rạng sáng mới về phòng, ngủ đến
trưa rồi lại mang dù và khăn ra biển. Chẳng ai buồn leo dốc lên thăm mỏm đá
chênh vênh và tòa lâu đài bị bỏ quên. Những ai khi trước vốn yêu tòa lâu đài và
hoàng hôn êm đềm trên con đường đá thì từ lâu đã bỏ phố biển xứ Catalan ồn ào
náo nhiệt này để đến những nơi khác thanh bình hơn. Vì vậy chúng tôi một mình
hít căng hơi gió biển hè mát rượi, nhìn con thuyền buồm xa xa và cành thông vắt
ngang đu đưa trong nắng chiều.
Những
ngày ở phố biển qua nhanh, buổi sáng khi xách hành lý ra bến xe buýt, tự nhiên
tôi hơi buồn, cái buồn khi quay lưng lại một nơi mình biết sẽ không bao giờ trở
lại lần nữa. Biết đâu một ngày nào đó Lloret de Mar sửa sang lại những
ngôi nhà bê tông xây cẩu thả, khách du lịch đến đây bớt uống sangria thâu
đêm, bãi biển vắng bớt người. Biết đâu những cửa hàng bán quần áo và đồ bơi rẻ
tiền nhốn nháo dọc đường được thay bằng những quán ăn thanh bình có hoa tươi
trên đầu, và tòa lâu đài vẫn còn đó, nơi đại dương vẫn vỗ những cơn sóng bất
tận vào bờ... Nhưng tất cả những điều "biết đâu" ấy sẽ không bao giờ thành
sự thật nên tôi kéo tay Daniel bước lên xe buýt. Chỉ hơn một tiếng đồng hồ nữa,
chúng tôi sẽ đến Barcelona...

