Tưởng Giới Thạch - những bí mật về cuộc đời và gia thế - Phần 07 - Chương 05 - 04

3. Tính bẩm sinh của lái buôn:
tích trữ hàng quý.

Mặc dù thời niên thiếu Tưởng Giới
Thạch từng phát ra lời thề: Suốt đời tuyệt đối không làm thương nhân. Thế nhưng
quan sát cả cuộc đời Tưởng, trong việc làm người và xử sự của ông ta, trái lại,
đã luôn luôn bộc lộ ra sự điêu toa của thương nhân.Từ xa tới này, người Trung
Quốc tin thờ câu cách ngôn “ Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”. Nguyên nhân
không phải vì câu nói này xuất ra từ trong miệng thánh hiền, mà ở chỗ nó đã vạch
rõ được một quy luật khách quan tư Tưởng, tính cách của con người chịu ảnh hưởng
của hoàn cảnh như vây. Cho nên khi mọi người nghiên cứu và vạch rõ tính cách
thương nhân của Tưởng Giới Thạch thì không thể không chú ý tới hoàn cảnh mà Tưởng
Giới Thạch đã sống trong thời nhi đồng và thiếu niên.Trước hết, mọi người hãy
nhìn xem hoàn cảnh địa lý của quê hương
đã có ảnh hưởng như thế nào đối với Tưởng. Thị trấn Khê Khẩu, tuy ở
trong vùng núi xa xôi hẻo lánh cách phía bắc thành huyện Phụng Hóa 15 kilômét,
nhưng thực ra không phải là “Đào hoa nguyên” cách tuyệt với đời. Con suối Viêm
chảy qua thị trấn, là đường giao thông chủ yếu liên hệ vùng này với thế giới
bên ngoài. Dòng suối Viêm có thể chở thuyền gỗ đi lại trên mặt nước. Kỳ nước
dâng hàng năm thuyền chở hàng nặng tới ngàn cân cũng có thể qua lại. Từ Khê Khẩu
thuận dòng chẩy đi xuống hơn tám chục dặm, liền có thể tới Ninh Ba, Danh Phụ
Triết Đông. Ninh ba là cửa cảng được mở ra theo quy định của “Điều Ước Nam
Kinh” trong cuộc Nha phiến chiến tranh lần thứ nhất, là một trong năm cửa cảng
buôn bán do các đế quốc cận đại giàu mạnh bắt ép Chính phủ nhà Thanh mở ra sớm
nhất. Từ Ninh Ba ngồi thuyền gỗ tới thượng
Hải, cũng chỉ hành trình mất một, hai ngày. Lúc đó, giao thông đường bộ
rất không phát đạt, nông dân ở vùng núi các nơi như Thiên Đài, Tân xương v.v.. ở
phía Tây bắc Khê Khẩu muốn tới ven biển đều phải đi qua thị trấn Khê Khẩu chỗ lối
ra khúc thứ chín của Suối Viêm. Do đó, Khê Khẩu đã trở thành nơi tập trung phân
tán vật tư của quê hương phía bắc Phụng
Hóa. Một vị trí địa lý có lợi này của Khê Khẩu đã dẫn tới sự phát đạt về thương
nghiệp, mà sự phát đạt về thương nghiệp lại thúc đẩy ý thức chuộng thương. Lúc
đó, thị trấn Khê Khẩu nhỏ bé, số hộ cha đầy một ngàn (Năm 1936 tổ chức đại thọ
lần thứ 50 của Tưởng, Phong Cảo phòng từng đặt 1000 xuất điểm tâm ở Ninh Ba,
theo dự định mỗi hộ trên thị trấn được phát một xuất, kỳ thực số xuất phát ra
là 960, có thể nhìn thấy số hộ trên thị trấn khi Tưởng còn thơ ấu, tuyệt đối không
vợt quá số này). Thế nhưng đã có hơn 100 hiệu buôn, cửa hàng, sự phát đạt về
thương nghiệp của Khê Khẩu có thể đã nhìn thấy một vết vằn trên lng báo. Phong
cách sùng chuộng nghề buôn bán đã sản sinh theo sự Hưng khởi của nghề buôn, đã
trực tiếp kích động tư Tưởng kinh tế tiểu nông suốt mấy ngàn năm của dân
cư vùng đó, khiến cho quan niệm truyền
thống đã tan vỡ từng bước, những quy phạm hành vi của nền kinh tế thương phẩm
đã sinh sôi nẩy nở trong sự thay đổi ngấm ngầm. Tưởng Giới Thạch chính là đã
sinh ra vào thời kỳ ấy.Thứ nữa, ảnh hưởng của gia đình đối với Tưởng Giới Thạch
càng trực tiếp hơn. Cha ông đời xa của họ Tưởng từ cuối đời Minh tới nay đều lấy
nghề nông làm gốc. Đến đời ông nội của Tưởng Giới Thạch, bắt đầu thay đổi nghề
cũ, lấy việc buôn bán muối để sống. Đến những năm cuối, Tưởng Ngọc Biểu dốc hết
tiền tích lũy ra, mở cửa hiệu muối Ngọc Thái ở thị trấn Khê Khẩu, lấy việc buôn
bán muối nấu rợu làm nghề nghiệp chính kiêm cả việc kinh doanh lợng thực và
buôn bán vôi v.v..., gia đình ngày càng giầu có. Đến đời Tưởng Triệu Thông, cha
của Tưởng Giới Thạch do vì kinh doanh phát đạt, việc buôn bán đã đạt tới đỉnh
điểm. Vào lúc đó cửa hiệu muối Ngọc Thái với cửa hiệu tạp hóa Thành Vĩnh xương,
cửa hiệu tạp hóa Nghiêm Hẵng Xuân Nam và cửa hiệu gạo Giang Sinh v.v.. đều là
những hiệu buôn lớn đếm được trên đầu ngón tay ở thị trấn Khê Khẩu.Lúc đó, nghê
buôn muối rất sang trọng, trong dân gian có bài thơ ca vịnh nghề buôn muối như
sau:Đạm hồng sam tử đạm hồng quầnĐạm tảo nga my đạm điểm thầnChỉ duyên hỗn thân
đô thị đạmnhân thử giá dữ mãi diêm nhân(áo hồng nhạt, quần hồng màu nhạt, mày
ngài nhạt, môi hồng điểm nhạt. Bởi cHưng toàn thân đều là màu nhạt, vậy nên chỉ
gả cho người bán muối thôi!) Điều này nói lên rằng làm nghề buôn bán muối rất
có nhiều tiền, ở đâu cúng có thể lấy được thê được thiếp, thỏa thích vui chơi.Lại
nữa, ở thời nhà Thanh, muối do nhà nước độc quyền. Cửa hiệu bán muối cần phải tới
quan kiểm muối lĩnh được “thẻ bán muối”. Sau khi được quyền chuyên bán rồi mới
có thể kinh doanh. Do đó, cửa hiệu muối Ngọc Thái ở Khê Khẩu chỉ có duy nhất,
không có hiệu muối thứ hại. Tưởng Giới Thạch sống trong một gia đình giầu có
như vậy, cha mẹ dạy bảo cặn kẽ, tha thiết khuyên răn chỉ mong muốn Tưởng kế thừa
được tổ nghiệp, cũng là một việc hợp tình hợp lý. Tưởng Giới Thạch tuổi trẻ
ngang ngạnh, chỉ thích ham chơi, tuy từ nhỏ đã muốn làm “Quan lớn mà không ai
có thể quản được”, thế nhưng sự hun đúc rèn luyện của gia đình vẫn không có
cách gì chống cự được.Tháng 8 năm 1916, sau khi Tưởng Giới Thạch từ chức từ trong
quân đông bắc quân cách mạng Trung hoa, qua Bắc Kinh đến thượng Hải. Lần này đến thượng Hải, Tưởng chẳng có việc gì để làm, tâm trạng
chơ vơ chới với, cảnh tợng lạnh giá chát chua. Lúc này, Trần Kỳ Mỹ đã chết,
trên chính giới Tưởng mất quả núi để nơng tựa, trên mặt kinh tế cũng rất kiệt
quệ. Do đó cần phải mở ra một con đường khác tìm lấy người che chở. Trong thời
kỳ này, Tưởng bắt đầu kết giao với Trương Tĩnh Giang, Trần Quả Phu v.v..rồi
cùng bọn họ lao vào tham gia gia dịch đầu cơ ở sở Giao dịch chứng khoán thượng Hải.Việc theo đuổi Kinh doanh mang tính chất
đầu cơ trong việc giao dịch chứng khoán ở thượng Hải, rất thuận lợi và đã phát tài to. Chỉ
trong thời gian cha đầy nửa năm, từ trong việc giao dịch chứng khoán, Tưởng Giới
Thạch đã thu được khoản lợi cực lớn, số mức thu được mời mấy vạn đồng, nghiễm
nhiên trở thành một phú ông mới ở bãi thượng
Hải. Trong sóng gió hãi hùng của việc mua bán cổ phiếu, chứng khoán, như
thủy triều lúc lên lúc xuống, tình huống vạn biến trong nháy mắt, sở dĩ Tưởng
có thể đứng vững mà không bị sa vào thế thất bại, chủ yếu là được sự tương trợ
hết sức có lợi của Trương Tĩnh Giang v.v..Trương Tĩnh Giang là người huyện Ngô
Hưng Triết Giang, dòng dõi thương nhân, từng theo đuổi hoạt động thương nghiệp ở
Pa ri, về mặt chơi mua bán cổ phiếu, chứng khoán thì Trương là tay sành. Trương
không những chỉ rõ bến mê đường tối trên mặt buôn bán, mà còn xuất vốn ra cho
Tưởng, khiến Tưởng có thể mạnh tay làm lớn, và đã nhiều lần thu lợi. Ngoài những
nhân tố khách quan được sự giúp đỡ của một số người như Trương Tĩnh Giang
v.v..ra, “tổ chấy” quê hương thời nhi đồng
của Tưởng Giới Thạch cũng đã phát huy được tác dụng, đúng là “ngầm hiểu ý nhiều”.
Điều này có thể nói là “nhân tố bên trong” tạo ra sự phát tài cho Tưởng.Năm
1919, Tưởng Giới Thạch đã sớm trở thành lão Tướng trên thương trường, đã hợp
tác với bọn Ngu Hiệp Khanh v.v...mở ra sở giao dịch hàng hóa chứng khoán thượng Hải. Ngu Hiệp Khanh làm chủ tịch hội đồng,
Trương Tĩnh Giang, Trần Quả Phu, Tưởng Giới Thạch v.v...làm ủy viên hội đồng. Tổng
cộng chia làm 10 vạn cổ phần, cầm cho các nhà buôn Nhật Bản 7 vạn cổ phần, cầm
cố cho các nhà buôn người Hoa 3 vạn cổ phần. Đến cuối năm 1920, thu lợi được 2
triệu 70 vạn đồng. Kho tiền của Tưởng Giới Thạch đã bành trướng nhanh chóng như
vậy đó.Từ năm 1916 đến năm 1922, trong hoạt động giao dịch chứng khoán thượng Hải suốt sáu năm dài, Tưởng Giới Thạch không
những đã thu được lợi ích kinh tế cực kỳ lớn, hơn thế đã quen biết được một loạt
các nhân vật thượng tầng trong tập đoàn
tài chính Giang Triết và tập đoàn lưu manh. Điều quan trọng hơn là: Tưởng đã nắm
chắc được rất nhiều “tuyệt chiêu” mà ít người biết tới trong hoạt động kinh
doanh thương nghiệp mang tính chất đầu cơ, thế rồi đem những “tuyệt chiêu”
trong thương chiến này đưa sang cấy ghép
trên vũ đài đấu tranh chính trị, khiến Tưởng có thể hô gió gọi ma, trở thành một
kiêu hùng của thời thế.Thực tiễn buôn bán sáu năm ở thượng Hải đã kiến cho Tưởng Giới Thạch tỉnh ngộ ra
được tính chất quan trọng của “tiền vốn”.Hoạt động đầu cơ cổ phiếu, thu lợi tuy
nhiều, thế nhưng việc này bắt buộc phải cần đến tiền vốn, nếu không có sự giúp
vốn của Trương Tĩnh Giang, cho dù Tưởng có tài ba đến mấy, thì cũng chỉ có thể
lảng vảng ở bên ngoài cửa của sở giao dịch mà thôi. Vậy thì, sau khi Tưởng Giới
Thạch về tới Quảng Châu, trở lại với mặt trận cách mạng, chàng thanh niên hừng
hực đầy dã tâm này đưa dựa vào “tiền vốn”
nào để xây dựng cơ đồ trên vũ đài chính trị?Nhìn tấm gơng xa kinh nghiệm thành
công của Napôlêông, Tằng Quốc Phiên, quan sát gần đường lối cướp nước của Viên
Thế Khải và bài học nhiều lần làm cách mạng thất bại của Tôn Trung Sơn, Tưởng
Giới Thạch hiểu sâu sắc rằng ở Trung Quốc quân phiệt Cắt cứ, anh hùng nhiều như
cây rừng, không có quân đội riêng, không có thực lực làm tiền vốn thì đừng hòng
bàn tới bất kỳ chuyện gì. Mà muốn xây dựng, thực hiện quân sự của mình, lại
không thể đi con đường cũ kéo nhau lên núi, chiếm cứ địa bàn, chiêu binh mãi mã
của bọn quân phiệt xa. Phải làm sao đây? Khảo sát đối với Liên Xô đã khiến cho
Tưởng Giới Thạch bỗng nhiên sáng tỏ. Đó chính là: lợi dụng sự giúp đỡ của Liên
Xô, mợn danh nghĩa của cách mạng và Quốc dân đảng, vứt bỏ quân đội cũ, xây dựng
lại từ đầu, lập nên một quân đội kiểu mới chịu sự khống chế tuyệt đối của mình
và phục vụ cho mình. Chính là vì nhìn trúng kiểu này, Tưởng Giới Thạch quen kiểu
chọn chỗ béo bở, mới chịu tiếp nhận chức vụ hiệu trưởng trường quân sự Hoàng Phố
lúc đó binh quyền chẳng có, địa vị cũng chẳng cao này.Những người đã nghiên cứu
lịch sử Quốc dân đảng đều am hiểu sâu sắc một điều thường thức cơ bản: Tưởng Giới
Thạch đã xây dựng cơ nghiệp từ Hoàng Phố. Sau một số năm, Tưởng Giới Thạch đã
làm nên chức Tổng tài Quốc dân đảng và Tổng thống “Trung hoa dân quốc!” Thế
nhưng các học sinh Hoàng Phố của Tưởng vẫn xng hô gọi Tưởng là “Hiệu trưởng” điều
này không thể không coi là một thành công lớn của Tưởng. Mấy chục năm trở lại
đây, Tưởng dựa vào danh nghĩa Quốc dân đảng và Cách Mạng để xây dựng trường
quân sự, xây dựng lên thực lực quân sự của mình. Sau đó lại dựa mợn thực lực
quân sự để đề cao địa vị chính trị của mình, có thể nói là quân quyền đảng quyền
đã hỗ trợ thúc đẩy cùng tiến, cùng đạt thành quả rực rỡ, cuối cùng đã tập hợp Đảng
quyền Quân quyền vào cả một thân Tưởng, Tưởng đã trở thành “Lãnh tụ Cách mạng”
nắm vững thực lực quân sự. Tức thì, đem so sánh với các thủ lĩnh quân sự nói
chung, Tưởng Giới Thạch là một “Tín đồ trung thực” theo Chủ nghĩa Tam dân chấp
hành đúng như Tôn Trung Sơn, có vốn chính trị rồi, không thể bị coi là quân phiệt
nữa. Rồi đem so sánh với các lãnh tụ đương thời ở trong Quốc dân đảng như Uông
Tinh Vệ Hồ Hán Dân v.v... Tưởng lại là Tướng lĩnh nắm thực lực quân sự, chứ
không phải là nhà chính trị xuông không có thực lực. Khoản tiền vốn Tưởng Giới
Thạch xây dựng cơ đồ trên vũ đài chính trị Trung Quốc thật là lớn lao!Bà con
nhân dân thường nói: Vật có hiếm mới quý. Đối với những nhà buôn, định luật này
có thể gọi là tích trữ hàng quý. Còn như trong triết học đối nhân xử thế của Tưởng
Trung Chính thì hễ cứ phát hiện ra “hàng quý” của mình liền lập tức nâng cao bảng
giá, giá tiền mà ông ta rao bán đã không “trung” mà cũng chẳng “chính”.Ngày 16
tháng 6 năm 1922, Trần Quýnh Minh nổ pháo vào Phủ tổng thống, phát động quân
phiến loạn chống lại Tôn Trung Sơn ở Quảng Châu, Tôn đã rút về chiến hạm “Vĩnh
Phong”. Ngày 29 tháng 6, Tưởng Giới Thạch từ Hộ đến Huệ, bước lên tàu “Vĩnh
Phong” thay Tôn Trung Sơn chỉ huy tác chiến với quân phiến loạn. Trong 55 ngày
đêm gian khổ, Tưởng “ngày đêm hầu hạ bên mình” đã khiến cho Tôn Trung Sơn rất cảm
động. Trong lời tựa mà Tôn Trung Sơn viết vào cuốn “Ký sự gặp nạn ở Quảng Châu
của Tôn đại Tổng thống” do Tưởng Giới Thạch soạn thảo, cũng từng ca tụng rằng:
“Cuộc làm phản của họ Trần, Giới Thạch đã tới Việt, lao vào nguy nan, ngày đêm
phục dịch trên chiến hạm, vạch thảo nhiều kế hoạch, càng sống chết với tôi và
các Tướng sĩ hải quân”. Dựa theo lý mà nói, trải qua sự từng trải nguy hiểm
này, quan hệ giữa Tưởng và Tôn phải càng mật thiết hơn. Thế nhưng, thực tế đã
không như vậy, Tưởng Giới Thạch tự cho rằng có công với Tôn Trung Sơn thì phải
được sự đền đáp cao hơn mới phải. Khoảng cuối tháng 8, Tưởng Giới Thạch đã viết
cho Tôn Trung Sơn một bức th, trong th, ngoài vấn đề Đảng vụ Quốc dân đảng, Tưởng
cũng đã đề xuất rất nhiều ý kiến, phê bình. Kỳ thực những người sáng mắt vừa
nhìn đã biết ngay, Tưởng tự nhận là thần có công, đã không thỏa mãn với công
tác quân sự đơn thuần. Tưởng hy vọng Tôn Trung Sơn có thể đề bạt mình thành người
lãnh đạo chủ chốt của Quốc dân đảng để thực thi hoài bão của mình, cho nên trên
vấn đề Đảng vụ Tưởng đã nêu rất dài.Tháng 1 năm 1924, Đại hội đại biểu Quốc dân
đảng lần thứ nhất đã triệu tập tại Quảng Châu. Trong hội nghị, để đổi mới Quốc
dân đảng, Tôn Trung Sơn đã tuyển chọn ra ẹy ban chấp hành Trung ương 24 người có tham gia hai đảng Quốc Cộng.
Trong cơ cấu lãnh đạo Trung ương tuyển
chọn mới lần này lại không có vị trí của Tưởng Giới Thạch, Tưởng chỉ đảm nhận
chức vụ một ủy viên trong ủy ban quân sự cấp dới. Đây là một đòn đả kích rất lớn
đối với Tưởng, người tự cho mình là công thần, Tưởng “suốt ngày ấm ức bất an,
như người ngồi trên thảm kim”. Tháng 2, Tưởng lại một lần nữa dùng từ chức để
ép giá, đệ đơn từ chức tới Tôn Trung Sơn cha được phê chuẩn đã phủi tay bỏ
đi.Nhìn chung, trong thời kỳ Tưởng Giới Thạch đi theo Tôn Trung Sơn này, hơi một
tý là Tưởng từ chức đã có tới hơn mời lần. Trong những lần đó, ngoài một số
nguyên nhân khác ra, còn phần lớn đều do tự coi mình là “công thần”, ép buộc
Tôn Trung Sơn phải phong cho Tưởng chức quan to lớn hơn.Trên vũ đãi quốc tế, đặc
trưng tính cách tích trữ hàng qúy này của Tưởng Giới Thạch cũng thể hiện rất rõ
rệt. Tháng 6 năm 1942, sau cuộc hải chiến ở đảo Trung Đồ, quân Mỹ chuyển sang
phản công ở chiến trường Thái Bình Dương. Do vì đại lục Trung Quốc đã kiềm chế
mấy triệu quân tinh nhuệ Nhật Bản, những hành động quân sự trên Thái Bình Dương
đối với quân Mỹ cũng có ý nghĩa rất trọng đại. Do đó, trong chiến lượccủa nước
Mỹ, địa vị của Trung Quốc đột nhiên được nâng cao. Lúc này Tưởng Giới Thạch lão
mu thần toán đã nhìn trúng thời cơ liền dùng thủ đoạn ép buộc tổng thống
Rudơven nước Mỹ. Tưởng thông qua Stilwell đề xuất với Chính phủ Mỹ ba yêu cầu:
1-Điều 3 sư đoàn quân Mỹ tới Trung Quốc để hiệp trợ tác chiến; 2- Xây dựng tại
Trung Quốc một đội hàng không được tổ chức bởi 500 chiếc; 3- Mỗi tháng phải vận
chuyển vào Trung Quốc 5000 tấn vật t. Ba điều yêu cầu này không được thỏa mãn,
cũng chính là nói nước Mỹ không tích cực viện Hoa, Tưởng Giới Thạch sẽ chuẩn bị
giảng hòa đơn phương với Nhật Bản. Kỳ thực, số vật tư này dùng bao nhiêu vào chống
Nhật, dùng bao nhiêu vào chống cộng, trong lòng Stilwell đều rõ cả. Bất đắc dĩ
nước Mỹ phải cầu đến Tưởng để tác chiến ở chiến trường Thái Bình Dương, đành phải
đáp ứng vô điều kiện bảng kê vũ khí quân sự mà Tưởng Giới Thạch nêu ra.Bẩm tính
thương nhân này của Tưởng Giới Thạch, không những biểu hiện ra trong cuộc đấu
tranh chính trị, mà cũng còn biểu hiện ra trên chiến trường quân sự mà Tưởng dập
tắt “nổi loạn” nữa. Trong việc thu thập sự biến chống Tưởng trong nội bộ, Tưởng
đã nhiều lần dùng tới Pháp bảo cúng tiền. Tháng 3 năm 1929, Quế Hệ trước tiên gọi
điện đánh Tưởng, cuộc chiến tranh Tưởng Quế bùng nổ. Tưởng vận dụng thủ pháp
dùng tiền mua chuộc và thủ pháp viễn giao cận công, trước hết dùng phương thức
hứa hẹn lừa Phùng Ngọc tường phạt Quế. Lại dùng vàng bạc mua chuộc Tướng lĩnh của
Quế Hệ là Lý Minh Dương quay súng chống lại, nhanh chóng đập tan được cuộc tấn
công của Quế Hệ. Sau đó, Tưởng lại với danh nghĩa là Phùng Ngọc tường cha tham
chiến, không thi hành lời hứa trước, bức Phùng phải dấy động Can qua với Tưởng.
Thế nhưng giữa lúc Phùng Ngọc tường chiếm cứ Tây Bắc chuẩn bị đánh Tưởng, các bộ
Tướng của Phùng là Hàn Phúc Củ, Thạch Hữu Tam đã bị đồng tiền của Tưởng mua chuộc,
đã đánh điện chống lại Phùng ủng hộ Tưởng. Một thời gian, Tưởng Giới Thạch đã
dùng tiền bạc lôi kéo và chia rẽ giữa quân sự với chính trị lưu manh đã thu được
toàn thắng. Những ví dụ các trận đánh “kiệt suất” dùng tiền bạc giành chiến thắng
giống kiểu này, trong đời sống sinh nhai quân sự của Tưởng Giới Thạch không sao
kể hết được. Cho dù Tưởng có bại trận cũng không quên trước hết phải nắm lấy đồng
tiền. Năm 1949, đối mặt với thế tấn công mạnh mẽ, trong chiến dịch vợt sông của
quân giải phóng, Tưởng Giới Thạch bàng hoàng lo sợ phải chạy trốn về Đài Loan,
thứ đầu tiên cướp đoạt đem đi cũng vẫn là tiền bạc.Ngời ta thường nói: giang
sơn dễ đổi, bản tính khó thay. Mặc dù Tưởng Giới Thạch chán ghét kinh doanh
buôn bán, thế nhưng trong con người Tưởng điều bộc lộ ra rõ ràng nhất vẫn là bản
chất thương nhân. Tích trữ hàng qúy, đầu cơ trục lợi, dùng tiền chế thắng
v.v..thật là cặn kẽ thấu đáo, kỹ càng hết mức.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3