Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 2) - Chương 22
Chương 22: Rời xa nơi trú ẩn
Có tiếng rít và
rạn nứt dữ dội, cánh cửa gỗ dày dặn của chỗ trú ẩn vỡ vụn ra thành trăm mảnh,
cái chốt sắt bị giật ra khỏi ổ khóa, gạch đá rơi loảng xoảng xung quanh, vung
vãi vào không gian đám bụi mờ mịt - đầu chiếc Salamander choán lấy khoảng không
từng có cánh cửa ở đó. Có người bên trong chiếc Salamander liệng ra một cái
đèn, rồi đột nhiên căn phòng ngập tràn ánh sáng. Đám bụi vữa tường lơ lửng
trong ánh sáng như thể sương màu hổ phách.
“Đi thôi!” Kate
hét lên, tuột tay ra khỏi chiếc còng và túm lấy Constance. Với hai cậu bạn bám
theo sát gót, cô chạy thẳng về phía chiếc Salamander, ho sặc sụa vì bụi và nheo
mắt tránh ánh đèn pha chói lóa. Cô băng qua chỗ McCracken và Sharpe vừa đứng đó
lúc trước. Lỉnh vội như cá thấy ánh đèn, mấy Gã Số Mười đã trốn mất và không bị
phát hiện nữa.
Milligan xuất
hiện đột ngột như rơi từ trên trời xuống. Ông hạ cánh cách đầu mũi xe
Salamander có vài bước chân, đổ bóng dài từ chiếc đèn pha, bao quanh ông là đám
bụi vữa cuồn cuộn như khói. Ông quỳ gối và nhắm khẩu súng gây mê về phía đống
gỗ kì quặc ở chỗ trú ẩn. Hết nhìn bên trái, rồi lại sang phải. Ông vừa phát
hiện ra mấy Gã Số Mười ẩn mình sau những xà gỗ và đang chĩa súng về cả hai
phía.
“Giúp các bạn
vào trong đi, Kate! Ngay bây giờ! Vào trong Salamander!”
Kate cũng vừa
kịp lôi Constance qua chỗ ông. “Coi chừng, bố Milligan! Có một tên ở trên mái
nhà!”
Ngay ở câu “coi
chừng” Milligan đã nhảy bật về trước, và cũng giây khắc đó một chiếc bút chì
vàng xuất hiện, như thể có ma thuật, rung bần bật trên sàn tàu ở ngay chỗ ông
vừa quỳ gối. Ông nhắm súng về phía đống xà mái nhà nhưng chỉ thấy bóng tối che
khuất và đống gỗ. Sau lưng ông, Kate đang đẩy các bạn leo lên thùng xe
Salamander.
“Hạ vũ khí xuống!” một giọng
nói từ phía trên vọng xuống.
“Một phút nữa thôi,” Milligan
gầm gừ.
“Hạ ngay xuống,” giọng nói
lại vang lên, “nếu không cô gái buộc tóc đuôi ngựa kia sẽ được một đường cắt
tóc nham nhở đấy.”
Kate vừa hết sức kéo được
Reynie vào trong chiếc Salamander thì nghe thấy lời nói đó. Cô bé ngước nhìn
lên phía xà gỗ. Thoạt đầu cô chẳng nhìn thấy gì. Rổi cô kinh hoàng nhìn thấy
thứ gì đó giống như quỷ hút máu đang co giật. Đó là lông mày của Crawlings,
đang vặn vẹo đầy kích động. Gã Số Mười ẩn mình gần kín trong bóng khuất, nhưng
gã đang cố ý để Kate nhìn thấy rõ mặt gã, quan trọng hơn nữa là tia laser đang
nhắm vào cô bé.
“Kate?” Milligan gọi cô. Từ
chỗ mình, ông không thấy những hình ảnh mà cô nhìn thấy. Khi cô bé không đáp
lời, ông ngoái nhìn ra sau và thấy con gái đang bất lực nhìn chăm chăm về phía
đống xà gỗ. Milligan không chút do dự. Ông đặt khẩu súng gây mê xuống sàn nhà.
“Milligan, đừng bố!” Kate hét
toáng lên, thấy mình đã bật nói lại được. Nhưng quá muộn mất rồi.
“Đá nó ra xa ngươi,”
Crawlings ra lệnh.
Milligan dùng chân đá khẩu
súng gây mê trượt trên sàn nhà.
“Quay vào trong phòng, nhặt
một cái còng tay lên, rồi tự khóa tay mình vào cái xích. Nhớ siết cái còng cho
chặt vào.”
Milligan bước đi và tự khóa tay
vào cái xích, nó vẫn mắc vào tấm xà gỗ. Ông giằng mạnh chiếc còng để chứng tỏ
mình đã bị khóa chặt rồi. Ngay khi ông làm việc đó, Crawlings nhảy xuống nền
nhà cách đó vài mét, nhắm súng thẳng vào ngực Milligan. Gã toét miệng cười
khoái trá. “Tao nghe thấy con nhóc gọi ngươi có đúng không? Ngươi đích thực là
Milligan đấy à?”
Milligan không nói năng gì,
chỉ nhoài người về trước như thể chẳng mong gì khác ngoại trừ xông thẳng vào
người gã Crawlings. Nhưng cái xích kéo căng ra phía sau lưng ông - ông ở mức
căng hết cỡ của nó rồi - và Crawlings quát lên, “Chúng mày có nghe thấy không
tụi bây? Milligan đấy! Chúng ta tóm được lão Milligan nổi danh bị xích vào một
cái cọc!”
McCracken và Sharpe nhoài
người ra và đi tới giữa phòng. Gã McCracken nhếch miệng lên như thể đang cố
không phì cười. “Milligan à? Điều bất ngờ thú vị đây!”
Gã Crawlings tiến lại gần để
nhìn cho rõ hơn, mắt ngó nghiêng cái xích để cẩn trọng không tiến quá gần tầm
với của Milligan. Gã nhắm súng laser vào ngực Milligan. “Chính ngươi! Kẻ thù
đáng gườm nhất của Số Mười! Ái, chà chà! Mới hay ho làm sao nếu ta lại chính là
người loại bỏ được ngươi một lần và mãi mãi hả?”
Milligan lầu bà lầu bầu điều
gì đó.
Gã Crawlings hơi nhoài người
về trước. “Gì thế hả?”
Không ai thấy Milligan đã làm
gì. Hoặc chí ít thì cũng không thấy rõ ông đã thực sự xoay xở thế nào. Chuyện
xảy ra có vẻ như ông bước lên trước, đáp trả đối thủ bằng một cú ghì mà có lẽ
chính gã cũng định xiết chặt lấy ông. Thế rồi gã Crawlings lăn ra bất tỉnh trên
nền nhà và Milligan thì đã cầm trong tay khẩu súng laser.
“Tao đã bảo rằng cái xích này
dài hơn chúng mày tưởng mà,” Milligan lầm bầm.
McCracken và Sharpe đứng cách
nhau vài mét ở chính giữa phòng, mải miết dõi theo khẩu laser trong tay
Milligan. Nụ cười trên môi chúng biến mất tăm mất tích và chúng vẫn nín lặng
không thốt lời nào!
“Ông bạn thông minh đấy,”
McCracken cất lời, sau khi trấn tĩnh lại. “Cách ông bạn làm là dồn một đoạn
xích lại phía sau mình để nó trông ngắn hơn hả? Bàn tay khéo léo khá ấn tượng
đấy, ông bạn ạ. Ông bạn hoàn toàn đánh lừa được gã. Nào, tiếp tục đi, kết liễu
gã luôn cho xong. Đừng có kiểu chỉ phủi bụi như thế.”
Milligan phớt lờ hắn. “Kate,
vào trong Salamander và đi thẳng tớí chỗ ta đã thỏa thuận trước đi. Con có thể
điều khiển được nó thôi. Nó ít nhiều giống chiếc máy kéo ấy mà.”
“Milligan, bọn con không để
bố lại đây đâu!”
“Dĩ nhiên là bọn mày sẽ làm
như lão nói!” McCracken nói to lên, không ngoái đầu nhìn lại. “Ông ta có súng
laser cơ mà. Ông sẽ ổn thỏa thôi.”
“Milligan!” Reynie gọi vọng
ra từ Salamander. “McCraken bảo mấy thứ đó chỉ bắn được một phát rồi phải sạc!”
“Mày nghe thấy rồi à?”
McCracken nói, vẻ bẽn lẽn, xấu hổ, như thể hắn bị bắt quả tang đang ăn cắp bánh
quy. Hắn nhún vai. “Bọn chúng tóm được tôi ở đó, ông bạn Milligan ạ. Tôi quả có
nói thế. Giờ thỏa thuận nhé. Tôi biết ông bạn chắc cũng muốn sai cô nàng Kate
kiếm vũ khí về cho mình. Nhưng nếu làm thế, tôi hứa với ông là một người trong
số bọn tôi sẽ làm cô ta bị thương nặng lắm đấy nhé. Thật xin lỗi, nhưng chuyện
nó lại phải như thế. Bọn tôi đâu thể để ông bạn hạ gục cả hai cơ chứ. Một thì
có thể, nhưng không phải cả hai đâu. Phải không hả Sharpe?”
“Theo lời anh cả, McCracken
ạ. Ý anh là hiệu lệnh mà.”
“Vậy hãy để mấy bạn nhỏ đi
thôi.” McCracken tiếp lời. “Thỏa thuận thế mới công bằng. Để chúng đi, rồi ba
chúng ta ở lại đây tán chuyện vui vẻ.”
Milligan không rời mắt khỏi
mấy Gã Số Mười. “Kate à, đi ngay đi. Bố ra lệnh đấy. Đừng sợ. Bạn của chúng ta
sẽ gặp các con ở đó.”
“Nhưng...”
“Đi ngay, Kate!”
Kate trèo vào trong
Salamander. Cô không nói chuyện với đám bạn - dẫu rằng tụi trẻ cũng đang im
thin thít - nhưng nước mắt lóng lánh dâng trào đôi mắt khi cô tìm cách cách sử
dụng cần số xe và các nút điều khiển. Không ai trong số tụi trẻ tin được vào
điều chúng đang định làm. Chúng sẽ để Milligan lại một mình, bị xích vào một xà
gỗ, bên cạnh hai Gã Số Mười. Và ông chỉ còn một phát súng để bắn.
Kate lùi chiếc Salamander qua
cánh cửa đã bị huých đổ, tiến ra con đường làng. Cô kéo cần số xe, chiếc
Salamander dừng khựng lại, động cơ vẫn rền rĩ. Kate đưa ánh nhìn đau đáu về
phía nhà trú ẩn.
“Chúng ta phải đi thôi,”
Constance thốt lên với giọng điệu áy náy. “Bố chị đã nói rồi mà, chị Kate - ta
phải quay lại khu rừng bên vịnh.”
“Ta sẽ không tới rừng ở vịnh
đâu,” Reynie thốt lên và đám trẻ ngoảnh nhìn cậu vẻ kinh ngạc. Nét mặt cậu
nghiêm nghị nhưng rất dứt khoát.
“Thế chúng ta định đi đâu?”
Constance hỏi.
“Đi cứu ngài Benedict. Giờ
chúng ta là cơ hội duy nhất của ông.”
“Nhưng thậm chí ta còn chẳng
biết đi đâu...”
“Ồ, có chứ, chúng ta biết
đấy,” Reynie đáp chắc nịch.
***
Đêm dài trôi qua chậm chạp,
mặt trăng tròn không còn rọi bóng xuống giếng làng nữa - giờ không còn hình ảnh
mặt trăng sinh đôi ở đấy nữa - nhưng Reynie biết rằng, ngài Benedict hẳn tin
cậy vào khả năng giải đáp manh mối của tụi trẻ, bất chấp chuyện giờ giấc có thế
nào, cũng y như lúc ông tin tưởng khả năng của Kate có thể tìm được những thứ
ông để lại cho bọn trẻ. Và quả thực thì Kate chỉ mất có vài giây để liệng sợi
dây thừng của cô bé từ đỉnh hầm (chỗ Crawlings giam giữ Constance) rồi buộc một
đầu của nó chắc chắn vào một trong số cột trụ chống cái mái che giếng đã bị dỡ
mất. Tuột giày ra, cô bé leo xuống phía dưới tối đen như mực.
“Mình có nó rồi!” Kate gọi
với lên sau khi bì bà bì bõm có một lát. Cô bé nhanh chóng leo trở lên cùng với
chiếc bình thủy tinh được niêm phong kín mít. Cô kể nó được giữ chặt dưới đáy
nước bởi một sợi dây và một tảng đá nặng trịch. Và bên trong nó là tấm bản đồ.
Sau tất cả những rắc rối và
bí ẩn, chặng phiêu lưu cuối cùng của tụi trẻ dường như trôi chảy đến lạ kì. Tấm
bản đồ đơn giản và dễ hiểu, và trên đó có một dấu X in đậm, chỗ gần đỉnh ngọn
núi ở cực nam. Thậm chí còn không cần phải tìm kiếm đường đi, bọn trẻ chỉ việc
đi theo dấu vết chiếc Salamander băng qua đồng cỏ.
“Kiếm chỗ ngồi đi,” Kate nói
sau khi giúp mọi người vào trong xe. Cô bé ngồi sau tay lái. Phía trong chiếc
Salamander khá giống một con tàu du lịch thông thường, với những ngăn chứa đồ
được lót dưới mép thành và hai hàng ghế băng ngắn chẳng mấy tiện nghi. Reynie,
sau khi ngồi xuống hàng ghế đầu, đá vào cái gì đó trượt trên nền nhà. Thì ra là
cái giỏ của Kate.
Kate cầm lấy nó từ chỗ cậu,
không nói năng gì. Việc tìm được chiếc giỏ là niềm an ủi nhỏ nhoi, nhưng dường
như có nó đeo bên hông, cô bé đứng trông cao lớn hơn lên thì phải. Cô đưa ánh
nhìn cuối cùng về phía cánh cửa nhà trú ẩn đã bị phá hủy, phía bên kia, trong
ánh trăng lờ mờ, Milligan vẫn đang sa bẫy cạnh những Gã Số Mười. Cô bé nhăn mặt
rồi ngoảnh đi. Cô tóm lấy vô-lăng, vào số xe, chiếc Salamander nhào về phía
trước với cú lắc mạnh mẽ.
Reynie, Sticky và Constance
bị giật tung về phía sau ghế.
“Giữ chắc vào!” Kate hô vang,
túm tóc đuôi ngựa phất phơ tung tẩy.
Tiếng Salamander nổ rền vang
trên đường làng và lao vào cánh đồng cỏ, ánh đèn pha đã tìm ra dấu vết của hai
vệt bánh xe song song đổ rạp đám cỏ. Kate đánh tay lái bám theo những vệt bánh
xe. Cô bé chỉ đánh chệch tay lái mỗi một lần - để tránh mấy cái thân nằm sóng
soài của những kẻ Số Mười là Martina Crowe và Garrotte, bọn chúng nằm bất tỉnh
nhưng lại bình yên vô sự giữa cánh đồng, ngay chỗ Milligan đã phục kích trong
lúc bọn chúng đang trên đường về báo cáo cho lão Curtain. Mấy đứa trẻ còn lại
không thấy cảnh tượng Kate vừa chứng kiến. Ngay cả Kate cũng chẳng hé răng nói
cho chúng biết mình ao ước sẽ không lái chệch tẹo nào. Ấy thế mà cô bé vừa đánh
võng xong, và chiếc Salamander vẫn lao ầm ầm.
Bọn trẻ nhanh chóng leo lên
đoạn dốc ở chân núi. Đoạn đường ngày càng dốc hơn, và chẳng bao lâu sau, bọn
trẻ phải bịt mắt vào, khi đang ngồi trên mặt nền chiếc Salamander (chúng chẳng
thể xoay xở để ngồi trở lại trên ghế nữa rồi), không dám nhìn ra ngoài khi cảnh
trí toàn là trăng và trời. Cứ như thể không có mặt đất phía dưới chúng vậy.
Kate ngồi sau tay lái, răng
nghiến ken két và cơ bắp gồng lên. Cô có một vị thế quan sát tốt hơn cả, và
đang căng mình để đưa chiếc Salamander vào đúng đường đi, công việc trở nên khó
khăn gấp nhiều lần khi từ cánh đồng cỏ đã chuyển sang con đường đá. Kate cũng
cẩn trọng tập trung tư tưởng để điều khiển thành thạo chiếc xe. Động cơ chiếc
Salamander đang hoạt động hết công suất, tuy thế họ vẫn leo lên dốc chậm chạp
và bánh xe bắt đầu trôi trượt. Khi đoạn đường càng dốc đứng hơn, Salamander nhích
chậm như thể bò lê bò lết, Kate tắt máy động cơ. Chúng đã lên đến gần tới đỉnh
núi rồi. Từ chỗ này đi bộ lên có khi còn nhanh hơn.
Bọn trẻ mở mắt ra và thấy
bụng dạ lộn tùng phèo. Tụi trẻ cứ như đang bị treo lơ lửng giữa trời. Kate đang
nghiền ngẫm tấm bản đồ bằng đèn pin. “Cái hang đấy không còn xa nữa đâu. Ta đi
thôi.”
Bước ra khỏi Salamander, bọn
trẻ phát hiện ra con đường mòn của đàn dê núi, đi lối này sẽ dễ leo hơn. Bầu
không khí mát lạnh, cây cối lưa thưa. Vài bông hoa cỏ dại chòi lên từ những khe
nứt của núi đá, và vài cái cây cong queo cằn cỗi mọc trên mấy mô đất cát, thế
nhưng quanh đây chủ yếu toàn đá. Reynie đang băn khoăn liệu một loài cây mong
manh như cỏ đêm sao có thể sống được ở chốn này thì Kate làm gián đoạn luồng
suy nghĩ của cậu.
“Ta tới nơi rồi,” cô thầm thì
và chỉ tay.
Chiếc hang ở đó không lầm lẫn
vào đâu được. Ánh sáng chói lòa tỏa ra từ lối vào hang cũng như từ lỗ hổng nhỏ
hơn trong đá phía trên hang, tạo ấn tượng như thể một tảng đá khổng lồ lập lòe ma
trơi xuất hiện, chứa một ngọn nến bên trong. Thậm chí ánh sáng còn có vẻ lung
linh rập rờn như ánh nến vậy. Mất một lúc thì Reynie nhận ra hình ảnh ánh sáng
rung rinh đó là do có người đang đi đi lại lại đầu nguồn sáng, ở phía bên trong
chiếc hang.
Reynie bất chợt rùng mình.
Cậu từng hy vọng không bao giờ phải gặp mặt lão Curtain nữa. Thế mà bây giờ,
sau mười hai tháng ròng và cách xa hàng ngàn dặm đường, thời khắc ấy lại đến.
***
Bấy giờ, trên hòn đảo, trong
nhà trú bão của ngôi làng bị bỏ hoang, một cuộc đàm phán vô cùng khó chịu đang
đi tới hồi kết.
Khi bọn trẻ đang chạy trốn
trên chiếc Salamander, chúng đã nghĩ tụi nó vừa bỏ rơi Milligan bị xích vào xà
gỗ, cô đơn trong bóng tối mịt mùng cùng hai Gã Số Mười. Tuy nhiên, bọn trẻ
không hoàn toàn đúng, trong lúc Kate đang leo xuống giếng để lấy tấm bản đồ, Gã
Số Mười được gọi với cái tên Crawlings dần hồi tỉnh. Gã nằm trên mặt đất ngay
dưới chân Milligan mắt chớp chớp điên đảo và giàn giụa nước mắt, đang cố nhìn
ngó xung quanh mình. Nhà trú ẩn tối om, ánh trăng chiếu ánh sáng lờ mờ qua cánh
cửa ra vào bị phá hỏng. Crawlings đã nhận ra tiếng McCracken đang nói chuyện.
Rồi gã nghe thấy tiếng chiếc Salamander nổ máy rầm rầm lao ra đường làng. Vừa
rên rỉ, gã vừa gượng người dậy, quỳ trên đầu gối, dụi dụi mắt - và thấy
Milligan đang cầm khẩu laser. Khẩu laser của hắn. Crawlings bật đứng dậy, điên
cuồng nhìn ngó xung quanh.
“Đứng im,” Milligan quát, gã
Crawlings bất động.
“Chào mừng mày quay lại,
Crawlings,” tiếng McCracken vang lên sau lưng gã.
“Cái... cái gì xảy ra thế hả?”
Crawlings hỏi, không rời mắt khỏi Milligan.
“Để xem nào,” McCracken trả
lời. “Mày để bản thân bị đánh gục, dâng vũ khí cho đối thủ khi giao đấu, còn
Sharpe và tao bị buộc phải đứng đây trong khi bọn nhóc trốn thoát trên chiếc
Salamander. Tao sẽ phải kể như thế đấy, Crawlings ạ, nhưng ông Curtain sẽ chẳng
hài lòng đâu.”
“Tao cũng cho rằng ông chẳng
dễ chịu đâu,” Sharpe đế thêm vào.
Crawlings nhổ toẹt xuống nền
nhà. Gã giờ đã hoàn toàn tỉnh táo và giận điên lên vì bị làm bẽ mặt. “Chậc, thế
sao bọn ta cứ đứng đây mãi thế? Ta có ba người cơ mà? Khẩu laser lại chỉ bắn
được một phát.”
“Chúng ta cũng vừa thảo luận
về điều đó,” McCracken đáp. “Tao vừa giải thích cho ông bạn Milligan rằng khẩu
laser này rất đỗi rắc rối, một loại vũ khí laser gốc hóa học mà ngài Curtain đã
thiết kế cho bọn ta, và có lẽ ngài đã suy nghĩ kĩ lưỡng về mục đích sử dụng nó.
Chẳng hạn như liệu ngài có nhắm nó đúng cách không? Và ngài không muốn tự bắn
phải mình?”
“Mày quên rằng tao đã sưu tập
được vài cái như thế này rồi à,” Milligan đáp.
“Ồ, đúng thế,” McCracken trả
lời kèm theo nụ cười sảng khoái. “Tao vừa quên béng mất. Vào lúc định bóp cò,
mày sẽ phải thật thận trọng. Mày không muốn bắn trượt và làm một trong đống xà
gỗ này bốc cháy - hay cả mái nhà chứ. Hãy xem mày đang bị xiềng xích thế nào,
sẽ chẳng dễ chịu nếu có hỏa hoạn đâu.”
“Tao sẽ ghi nhớ điều đó,”
Milligan đáp trả.
“Vấn đề ở đây là thế quái nào
hả?” Crawlings cáu kỉnh hỏi. “Hắn không thể ngăn tất cả bọn ta và hắn hiểu thế
mà.”
“Hắn muốn bọn trẻ con thoát
trước,” McCracken đáp. “Nhưng khẩu laser của Crawlings lại dễ lấy quá, phải thế
không Milligan? Giờ thì quả thực là thế. Mày đang lãng phí thời giờ của mọi
người đấy. Kéo dài chuyện không thể tránh né được này để làm quái gì hả?”
“Có lẽ là tao khoái như thế,”
Milligan đáp. Ông nhắm khẩu laser thẳng vào McCracken. “Nhưng nếu mày đang khá
sốt sắng giải quyết tình cảnh này, vậy đi trước đi và dẹp ra một bên.”
McCracken nhăn nhó mặt mày. “Ôi,
nhưng Milligan ơi là Milligan, hãy điều gì sẽ xảy ra! Mày sẽ bắn phát duy nhất
mày có, và có thể - rất có thể - mày có đủ may mắn để loại một trong số chúng
tao. Nhưng vẫn còn có hai người đối phó mày, và rồi... chà chà, bọn tao sẽ giải
quyết mày, Milligan ạ. Chúng ta sẽ giải quyết hắn luôn chứ các cậu?”
“Rất sẵn lòng,” Crawlings
đáp, đầu vẫn đau như búa bổ từ cái lúc Milligan xoay xở thế nào đó để hạ gục
gã.
Sharpe cười khúc kha khúc
khích. “Ổ, quả là thế. Bọn ta là những người giỏi đối phó mà!”
“Nhưng tao có ý này mà mày sẽ
thích đấy, Milligan ạ,” McCracken khơi chuyện. “Nếu mày quăng khẩu laser đi,
bọn tao sẽ bỏ qua mọi hiểu lầm và đơn giản chỉ dẫn mày tới chỗ ngài Curtain. Ai
mà biết được nhỉ? Có lẽ mày sẽ gặp may - biết đâu ông ấy sẽ có tin bổ ích cho
mày. Dù sao đi nữa đó là cơ hội tốt nhất để mày sống sót. Tin tao đi, chuyện
chẳng đơn giản với bọn tao tẹo nào. Bọn tao phải hy sinh khá nhiều để không
trừng trị mày vì tội thiếu lịch sự với bọn tao đấy.”
“Sự hy sinh to tát đấy nhỉ,”
Crawlings lầu bà lầu bầu.
“Vĩ đại ấy chứ,” Sharpe hưởng
ứng.
“Nhưng nếu mày không ném khẩu
laser đi...” McCracken nhún vai nói tiếp. “Chà chà, chuyện sẽ chẳng hay ho gì
đâu.”
“Không, sẽ tồi tệ lắm, đúng
thế,” Sharpe đế vào.
“Vô cùng tồi tệ,” Crawlings
bồi thêm.
“Chính xác thì tồi tệ thế nào
cơ?” Milligan hỏi, như thể ông nghĩ đó là câu hỏi đầy mê hoặc. “Cũng tồi tệ như
bọn mày ư?”
Crawlings quắc mắt giận dữ,
lông mày xếch ngược lên. Gã siết chặt nắm đấm và liếc mắt trông đợi về phía
chiếc vali của gã.
McCracken bật cười khanh
khách. “Thậm chí còn tồi tệ hơn cả Crawlings, tao đoan chắc với mày đấy,
Milligan! Và tao e rằng đã đến lúc mày ra quyết định đi. Tao sẽ đếm đến ba, và
tất cả chúng ta cùng hành động. Mày có thể quăng khẩu laser đi hoặc dùng nó nếu
thấy đáng. Lựa chọn là do mày. Mày sẵn sàng chưa hả? Ta đi nào. Một... hai...”
“Tao quyết định rồi,”
Milligan đáp.
“Tao cũng nghĩ thế,” McCracken
nháy mắt nhún nhường. Hắn chìa ra bàn tay to tướng của mình. “Làm ơn quăng nhẹ
nhàng thôi. Mấy thứ đó đắt đỏ lắm.”
Nhưng Milligan không hề quăng
khẩu laser đi. Đáp lại cái nháy mắt của McCracken, ông xoay người ra sau và bắn
vào sợi xích - cắt nó gọn ghẽ.
“Đồ láu cá!” McCracken la
toáng lên, vừa kịp với tới chiếc vali của gã. Hai Gã Số Mười kia qua cơn kinh
ngạc, bắt đầu lắc lắc vũ khí của chúng, chìa ra những đồng hồ đeo tay bạc. “Láu
cá nhưng vô nghĩa thôi. Bọn tao ở giữa mày và cửa ra vào.”
Milligan không định cố trốn
thoát. Tuy nhiên ông giả bộ về một hướng, rồi lại nhảy băng qua nhà trú ẩn và
chộp lấy khẩu súng gây mê của ông.
“Một chuyển động táo bạo đấy!”
Giọng McCracken vang lên ngay khi Milligan cúi mình sau một xà gỗ. Không khí
thoảng mùi hăng hắc từ những chiếc đồng hồ của bọn Số Mười. “Nhưng mày đáng lẽ
ra nên đầu hàng đi. Có tới ba chọi một cơ, mày biết thế mà!”
“Không còn lâu nữa đâu,”
Milligan gầm gừ, và ông nhảy ra ngoài từ sau xà gỗ.
Thế là nổ ra cuộc ẩu đả dữ
dội và kì quặc nhất trong những trận chiến từng diễn ra, một cuộc chiến đấu mắc
míu tới mọi trang thiết bị văn phòng, trang phục và phụ kiện lịch lãm, và không
thiếu những mánh khóe lừa lọc và giễu cợt. Đó là một trận chiến kéo dài hàng
vài tiếng đồng hồ, và khi đến hồi kết, nó để lại ngôi làng bỏ hoang này quang
cảnh hoàn toàn bị phá hủy tanh bành, và chỉ còn duy nhất một người đứng quan
sát cảnh đổ vỡ. Đó cũng là trận chiến đẩy những thành viên trẻ tuổi của Hội
Benedict Thần Bí vào hiểm nguy hơn trước kia - vì chao ôi người duy nhất còn
đứng đó không phải là Milligan.

