Anna Karenina (Tập 1) - Phần 3 - Chương 12
29
Việc
thực hiện kế hoạch của Levin xem ra có nhiều khó khăn; song chàng dốc hết sức
ra làm, nên tuy chưa đạt kết quả mong muốn nhưng đã có thể vững tâm là công
việc thật bõ công. Một trong những khó khăn chủ yếu là công việc sản xuất đang
tiến hành, chàng không thể đình tất cả để khởi sự lại từ đầu: đành phải vừa để
cho bộ máy tiếp tục chạy vừa thay đổi dần vậy thôi. Tối hôm về tới nhà, lúc
chàng cho viên quản lý biết kế hoạch của mình, y vui thích ra mặt khi nghe đến
đoạn chàng chứng minh tất cả những việc đã làm từ trước đến nay đều vô lý và
không sinh lợi gì cả. Viên quản lý nói y vẫn thường nhận xét như vậy, nhưng
không ai thèm nghe. Nhưng đến khi Levin đề nghị cùng nông dân hợp tác tham gia
mọi mặt sản xuất, y liền tỏ vẻ rất bí và nói ngay đến sự cần thiết nội ngày mai
phải đem những đống lúa lõa mạch cuối cùng về nhà và bắt đầu cày lượt thứ hai.
Levin hiểu chàng đã không chọn đúng lúc để bàn chuyện. Khi nói cho nông dân
biết dự định mới của mình, Levin lại vấp phải một trở ngại khác: họ quá bận bịu
công việc hàng ngày nên không có thời giờ cân nhắc lợi hại của công cuộc này.
Một nông dân chất phác, gã chăn cừu Ivan, có vẻ hoàn toàn thông cảm Levin khi
chàng đề nghị gã cùng gia đình tham gia hưởng phần lãi của việc chăn nuôi gà vịt
và có cảm tình với dự định đó. Nhưng khi Levin kể ra một loạt lợi ích mai sau
của việc này, Ivan đâm hốt ra mặt và tỏ ý tiếc không thể nghe chuyện chàng đến
đầu đến đũa: gã lập tức nghĩ ra một công việc cần làm gấp; bỏ thêm cỏ khô vào
chuồng, đi lấy nước hoặc dọn phân.
Một trở
ngại nữa là tính hoài nghi không khắc phục nổi của nông dân: họ không thể tin
ông chủ lại có dự định nào khác ngoài việc cố bóp nặn họ đến cùng. Họ đinh ninh
rằng mục đích thực sự của chủ (dù muốn kể lể trời đất gì chăng nữa) vẫn bí mật
với họ. Bản thân họ, khi bày tỏ ý kiến, cũng không bao giờ lộ rõ mục đích thực
sự ra. Ngoài ra (Levin thấy lão điền chủ bẳn tính nói đúng thật), điều kiện
trước tiên nông dân đặt ra là không bị bó buộc phải tuân theo những phương pháp
canh tác mới và sử dụng máy móc mới. Họ thừa nhận cái cày cày tốt hơn, máy nhổ
cỏ làm việc rất tốt, nhưng họ lại tìm ra hàng nghìn lý do để không bao giờ dùng
đến cả cày lẫn máy nhổ cỏ, và tuy Levin tin rằng cần hạ thấp trình độ nông
nghiệp xuống, chàng vẫn luyến tiếc phải từ bỏ những cải cách mà lợi ích thật
quá rõ ràng. Mặc dầu gặp mọi khó khăn đó, chàng vẫn đạt mục đích và đến mùa thu
thì công cuộc cải cách đã bắt đầu. Hay ít nhất đó cũng là cảm tưởng của chàng.
Mới đầu, Levin định trao toàn bộ cơ sở sản xuất nguyên vẹn như thế vào tay nông
dân, thợ và quản lý, nhưng sau đó, chàng thấy ngay là không thể được và quyết
định phân chia sản nghiệp ra. Sân chăn nuôi, vườn cây, vườn rau, đồng cỏ và
ruộng đất (cả ruộng đất cũng được phân chia) hợp lại thành những khoảnh riêng.
Gã chăn cừu Ivan có vẻ hiểu ý định Levin hơn mọi người, đã thành lập một hợp
tác xã gồm phần lớn là người trong gia đình gã và bắt đầu chăm lo đến sân chăn
nuôi. Một cánh đồng ở xa, bỏ hóa từ tám năm nay, được chia cho sáu gia đình
nông dân, với sự giúp đỡ của bác thợ mộc Rêzunôp, và gã mugich Suraiep đảm
nhiệm các vườn rau. Phần sản nghiệp còn lại vẫn khai thác theo lối cũ nhưng ba
khoảnh trên là xuất phát điểm của một tổ chức mới mẻ: nó thu hút tất cả sự chú
ý của Levin. Thực tình mà nói, sân chăn nuôi cũng không được chăm nom tốt hơn
gì trước kia, và Ivan khăng khăng không chịu cho bò cái ở ấm và làm bơ bằng
kem, viện cớ bò cái ở chuồng lạnh ăn đỡ tốn cỏ và làm bơ bằng sữa chua lợi hơn:
gã vẫn đòi trả tiền lương như thời cũ và hình như hoàn toàn không đếm xỉa tới
chuyện món tiền đó không phải là lương mà ứng trước phần lợi tức của gã.
Tổ hợp
tác của Fedor chỉ cày ruộng một lần (đáng lẽ phải hai lần như đã thỏa thuận)
vin cớ thời gian gấp rút quá. Mặc dầu đã nhận bắt đầu làm việc trên nguyên tắc
mới, nông dân ở nhóm này vẫn đinh ninh là họ làm ruộng rẽ đôi: đã nhiều lần,
với Rêzunôp đứng đầu, họ đề nghị trả tiền thuê ruộng cho Levin: “Như thế ông
yên tâm hơn mà chúng tôi cũng khỏi mang ơn”, họ nói với chàng. Vin vào nhiều
cớ, họ trì hoãn xây dựng chuồng bò lẫn kho thóc và dây dưa mãi tới mùa đông.
Suraiep
muốn chia nhỏ các vườn rau ra cho nông dân thuê lại. Bác ta như cố tình hiểu
lầm những điều kiện chủ đã giao đất đai cho bác.
Mỗi khi
Levin bàn bạc với mugich và trình bày tất cả những lợi ích của kế hoạch, chàng
đều cảm thấy họ chỉ lơ đãng nghe, lòng nhủ lòng quyết không mắc bẫy chàng. Cảm
tưởng đó rõ nhất khi chàng nói chuyện với người thông minh nhất trong bọn là
Rêzunôp, và nhìn thấy trong đôi mắt bác ta một ánh giễu cợt cùng cái vẻ tin
chắc nếu có ai bị mắc lừa, thì người đó sẽ không phải là bác ta, là Rêzunôp
đâu. Bất kể mọi cái đó, Levin vẫn nghĩ sự cải cách đã bắt đầu, và bằng cách
tính toán sít sao cùng lòng kiên trì, rồi ra chàng cũng sẽ chứng minh cho nông
dân thấy lợi ích của tổ chức này: sau đó, việc sản xuất tự khắc sẽ tiến hành
trôi chảy. Công việc đó, cộng với việc quản lý phần sản nghiệp còn lại và việc
tìm tòi nghiên cứu để viết quyển sách, làm Levin bận suốt mùa hạ và họa hoằn
chàng mới có dịp đi săn. Cuối tháng tám, một người đến trả cỗ yên ngựa, cho
chàng biết gia đình Oblonxki đã về Moxcva. Chàng thấy, do không trả lời thư của
Daria Alecxandrovna (chàng không khỏi đỏ mặt hổ thẹn khi nhớ tới sự thất lễ
đó), chàng đã cắt tuyệt đường lui tới và không bao giờ còn trở lại nhà họ được
nữa. Chàng cũng xử sự hệt như thế với gia đình Xvyajxki bằng cách ra về không
một lời từ biệt. Chàng không bao giờ có thể đến nhà họ nữa. Giờ đây, chàng
không chút bận tâm về điều đó. Sự cải cách sản xuất thu hút tất cả tâm trí
chàng. Chàng đọc sách do Xvyajxki đưa cho, tìm thêm những quyển khác, rồi đọc
những tác phẩm kinh tế - chính trị và xã hội học về vấn đề đang quan tâm; đúng
như dự đoán, chàng không tìm ra điều gì liên quan tới công cuộc chàng đang tiến
hành. Trong những tác phẩm kinh tế chính trị học, chẳng hạn như Mill mà chàng
hăm hở đọc ngấu nghiến trước tiên, với hi vọng tìm được lời giải đáp cho những
vấn đề mình quan tâm, chàng đã thấy một bài thuyết trình về quy luật rút ra từ
hoàn cảnh kinh tế nông thôn ở châu Âu; nhưng chàng tuyệt nhiên không hiểu tại sao
những quy luật đó, không thể áp dụng ở Nga, mà lại gọi là có tính chất phổ
biến. Đối với những sách xã hội học cũng vậy: hoặc là những điều không tưởng
đẹp đẽ không thể thực hiện được hoặc là những sửa đổi áp dụng cho hoàn cảnh
châu Âu vốn không có gì giống nước Nga. Khoa kinh tế chính trị học khẳng định
rằng những quy luật đã và đang chi phối sự phồn thịnh của châu Âu, là những quy
luật phổ biến và tuyệt đối. Khoa xã hội học lại dạy rằng một cuộc tiến triển
tuân theo quy luật đó chỉ dẫn tới phá sản. Và cả hai chẳng những không đưa ra
lời giải đáp nào, mà còn không hề đả động tí gì đến cách thức mà chàng, Levin,
tất cả những mugich và địa chủ Nga phải vận dụng để khai thác nhân công và màu
đất, góp phần nâng cao đời sống chung. Giờ đây, khi đã bắt tay làm nhiệm vụ ấy,
chàng thận trọng đọc tất cả những gì có liên quan và dự định mùa thu sau sẽ ra
nước ngoài để nghiên cứu thêm vấn đề tại chỗ và để khỏi mắc lại cái điều thường
xảy đến với chàng trong những vấn đề khác. Mỗi khi chàng bắt đầu hiểu được tư
tưởng người tiếp chuyện và trình bày tư tưởng của mình thì đột nhiên họ lại
nói: “Thế còn Kôfman? Jôn? Đuyboa? Misơli? Ông chưa đọc họ à. Vậy ông hãy đọc
đi: họ đã nghiên cứu kĩ vấn đề này rồi.” Giờ đây, chàng thấy rõ Kôfman và
Misơli không dạy được chàng gì cả. Chàng đã biết mình mong muốn cái gì. Chàng
thấy nước Nga có những ruộng đất tuyệt diệu cùng những người thợ ưu tú và trong
một số trường hợp, như ở nhà ông già mugich chàng đã ghé lại dọc đường, ruộng
đất và người làm mướn đã sinh lợi rất nhiều, trong khi sử dụng tư bản như ở
châu Âu, thì thường thường lại sinh lợi ít. Đơn giản là vì, chỉ có theo cách
thức của họ, người thợ mới muốn làm việc và thực sự làm việc tốt. Sự đối lập đó
với những phương pháp mới không phải là ngẫu nhiên mà là thường xuyên và nó có
gốc rễ ở ngay trong đầu óc dân chúng. Chàng nghĩ nhân dân Nga có thiên hướng sử
dụng và trồng trọt những vùng đất đai mênh mông đến nay còn hoang vắng, họ vẫn
luôn bám vào tập quán cần thiết đó tới khi nào tất cả đất đai đều đã sử dụng,
và tập quán đó không hề xấu như người ta thường nghĩ. Chàng muốn chứng minh
điều đó bằng lý thuyết trong quyển sách chàng viết và bằng thực tế trong việc
sản xuất của mình.
30
Vào
cuối tháng chín, gỗ được chở tới để xây dựng chuồng bò trên khoảnh đất đã trao
cho hợp tác xã, bơ đem bán và lợi tức được chia theo như quy ước. Việc làm thực
tế đã đạt kết quả tốt, ít nhất cũng là theo ý nghĩ Levin. Nhưng muốn cho hoạt
động của mình được giải thích bằng lý luận và muốn hoàn thành tác phẩm, mà theo
Levin mơ ước không những nó phải dẫn tới cách mạng trong kinh tế chính trị học
mà còn tiêu diệt môn khoa học đó và đặt nền móng cho một khoa học mới về quan
hệ giữa ruộng đất và nông dân, chàng còn phải ra ngoại quốc và nghiên cứu tại
chỗ tất cả những gì đã làm theo phương hướng đó và tìm những lý lẽ chứng minh
rằng tất cả những điều đã thực hiện ở nơi ấy đều vô ích. Levin chỉ chờ bán xong
lúa kiều mạch là đi. Nhưng trời bắt đầu mưa: không kịp thu hoạch cả lúa mì lẫn
khoai tây còn lại ngoài ruộng: điều đó làm ngừng trệ mọi việc kể cả việc gieo
lúa kiều mạch. Đường sá không đi lại được, hai cối xay lúa bị nước lũ cuốn trôi
và thời tiết ngày càng xấu. Sáng ngày 30 tháng chín, mặt trời ló ra và Levin
lại hi vọng, bắt đầu chuẩn bị lên đường. Chàng sai đổ lúa mì vào bao, phái quản
gia đến nhà lái buôn nhận tiền và thân hành đi thăm trại ấp để dặn dò lần cuối
những điều cần thiết trước khi đi. Xong việc, Levin phấn khởi trở lại nhà,
người ướt sũng và mặc dầu mặc áo da vẫn bị nước mưa rỉ vào cổ và ủng. Về chiều,
mưa rào càng to hơn: những tia nước mưa quật vun vút xuống con ngựa của Levin
đến nỗi nó phải đi né nghiêng, tai và cổ run bần bật. Nhưng Levin lại rất thoải
mái dưới chiếc mũ trùm đầu và vui vẻ đưa mắt khi nhìn dòng nước đục ngầu chảy
trong rãnh bánh xe, khi nhìn những giọt mưa lơ lửng trên cành cây trơ trụi, lúc
nhìn một bông tuyết trăng trắng chưa tan còn sót lại trên ván cầu, hoặc nhìn
đống lá dâu da còn tươi phủ một lớp dày quanh thân cây trơ trụi. Mặc dầu cảnh
vật buồn bã xung quanh, chàng vẫn thấy mình ở trong tâm trạng đặc biệt hào hứng.
Những chuyện chàng trao đổi với đám mugich ở một làng xa xôi, chứng tỏ họ bắt
đầu làm quen với phương pháp lao động mới. Ông gác già mà chàng vào nhà để hơ
khô quần áo, rõ ràng tán thành kế hoạch của Levin và tự động xin gia nhập tập
đoàn để mua gia súc. “Chỉ cần kiên trì theo đuổi mục đích và mình sẽ thắng,
Levin nghĩ. ít nhất, mình cũng làm việc cho một cái gì. Đó không phải vì sự an
lạc của riêng mình mà vì hạnh phúc chung. Tất cả nền nông nghiệp và nhất là
hoàn cảnh sống của dân chúng phải được thay đổi về căn bản. Thay vào cảnh lầm
than, khắp nơi sẽ giàu có và sung túc. Thay vào chống đối, là sự hòa hợp và
thống nhất quyền lợi. Tóm lại, một cuộc cách mạng không đổ máu, nhưng là một
trong những cuộc cách mạng vĩ đại nhất, phát sinh từ cái xó bé nhỏ của quận ta
để lan khắp tỉnh, khắp nước Nga, toàn thế giới. Bởi vì một tư tưởng đúng đắn
không thể không đơm hoa kết quả. Phải, đó là một mục đích xứng đáng, bõ công
theo đuổi. Và dù mình vẫn chỉ là gã Conxtantin Levin từng thắt cà vạt đen để đi
khiêu vũ, đã bị Kitti Tsecbatxkaia cự tuyệt, luôn tự xét mình là thảm hại và vô
vị, điều đó cũng chẳng sao. Mình tin chắc Franklin, khi tự xét về mọi phương
diện, hẳn cũng cảm thấy khổ sở và tự ngờ vực như mình thôi. Điều đó không có ý
nghĩa gì. Chắc hẳn ông ta cũng có một bà vú Agafia Mikhailovna để tâm sự những
ý nghĩ thầm kín của mình.”
Miên
man với những ý nghĩ đó, Levin mãi tối mịt mới về tới nhà.
Viên
quản lý trở về mang theo một phần số tiền bán lúa. Việc giao ước với ông lão
gác cũng làm xong và dọc đường, viên quản lý được biết là khắp mọi nơi lúa vẫn
còn đầy đồng, cho nên một trăm sáu mươi đống lúa chưa kịp thu hoạch về, thật
không thấm vào đâu so với số mất mát của người khác. Sau bữa ăn tối, Levin theo
thường lệ cầm sách ngồi vào ghế bành, vừa đọc, vừa tiếp tục suy nghĩ về cuộc
hành trình sắp tới. Giờ đây, chàng thấy rõ tất cả tầm quan trọng của việc mình
làm và từng đoạn văn dài hình thành trong đầu, diễn đạt nội dung cơ bản của tư
tưởng chàng. “Phải ghi lại, chàng tự nhủ. Nó sẽ thành bài tựa ngắn mà trước đây
mình vẫn cho là vô ích.” Chàng đứng dậy để tới bàn giấy. Con chó Laxca nằm dưới
chân, cũng rướn mình nhổm dậy và nhìn chàng như muốn hỏi xem phải đi đâu. Nhưng
chàng không kịp ghi những điều đó, vì các toán trưởng đã tới và Levin ra cửa
tiếp họ. Sau khi phân phối công việc cho ngày mai và tiếp tất cả những mugich
có việc cần gặp chàng, Levin trở về phòng giấy và ngồi xuống làm việc. Laxca
nằm dưới gầm bàn; Agafia Mikhailovna cầm bít tất, lại ngồi vào chỗ quen thuộc
của bà. Viết được một lát, chàng bỗng lại nhớ Kitti da diết, nhớ đến việc nàng
cự tuyệt, nhớ cuộc gặp gỡ cuối cùng của hai người. Chàng liền đứng dậy và bắt
đầu đi đi lại lại trong phòng.
- Việc
gì cậu cứ phải lo buồn thế, - Agafia Mikhailovna nói. - Tại sao cậu cứ ở nhà
mãi làm gì? Nếu cậu định đi nghỉ ở suối nước nóng thì phải đi đi thôi.
- Thì
ngày kia tôi đi mà, Agafia Mikhailovna ạ. Tôi còn có việc phải làm cho xong.
- Việc
gì kia chứ? Cậu đã lo cho nông dân khá đủ rồi! Cậu có biết họ nói gì không?
“Ông chủ của bà sắp được Nga hoàng ban khen đấy.” Mà tại sao cậu cứ phải lo
lắng cho họ nhiều thế?
- Không
phải tôi lo cho họ đâu, tôi làm cho tôi thôi.
Agafia
Mikhailovna biết rõ kế hoạch Levin đến từng chi tiết. Chàng hay trình bày cho
bà biết những ý định của mình và thường thường họ không đồng ý với nhau. Nhưng
lần này, bà ta hiểu hoàn toàn khác hẳn lời chàng nói.
- Tất
nhiên, trước tiên phải nghĩ tới linh hồn mình đã, - bà thở dài nói. - Hãy cứ
xem Pacten Đênixych đấy: anh ta không biết đọc biết viết, thế nhưng anh ta chết
thật êm đẹp. Anh ta chịu lễ ban thánh thể và được rửa tội lúc lâm chung.
- Tôi
có muốn nói thế đâu, - chàng nói. - Tôi muốn nói là tôi làm như vậy chỉ vì
quyền lợi của riêng tôi thôi. Tôi sẽ có lợi nếu mugich làm việc tốt hơn.
- Chà,
tha hồ cho cậu làm thế nào thì làm, những đứa lười bao giờ cũng chỉ tìm cách
sao cho nhẹ thân nhất thôi. Ai có lương tâm thì làm việc; ai không có thì chẳng
làm gì cả.
- Thế
nhưng chính u cũng nói Ivan chăm nom gia súc khá hơn đấy thôi.
- Tôi
chỉ nói có một điều thôi, - Agafia Mikhailovna trả lời với tinh thần triệt để
giữ vững ý kiến của mình: - là cậu phải lấy vợ đi, có thế thôi. - Lời nói đụng
tới điều chàng vừa suy nghĩ, làm Levin buồn rầu và phật ý. Chàng cau mày và
không trả lời ngồi xuống trước bàn giấy, thầm nhắc đi nhắc lại những suy nghĩ
về tầm quan trọng của việc mình làm. Thỉnh thoảng, chàng lắng nghe trong im
lặng tiếng kim khâu tí tách của Agafia Mikhailovna, và chợt nhớ tới điều chàng
muốn gạt khỏi ký ức, chàng lại cau mày.
Đến
chín giờ, có tiếng nhạc ngựa và tiếng xe ì ọp lăn bánh trên nền đất lầy lội.
- Có
khách đến đấy, cậu không còn phải buồn nữa nhé, - Agafia Mikhailovna nói, đứng
dậy và ra cửa. Nhưng Levin đã ra trước bà ta. Chàng không làm việc được nên vui
lòng tiếp khách, bất kể ai.
31
Levin
xuống tới lưng chừng cầu thang thì nghe thấy tiếng ho quen thuộc trong phòng
chờ, nhưng không rõ lắm, vì bị lẫn vào tiếng chân chàng, và chàng hi vọng mình
lầm; lát sau chàng trông thấy cái bóng dáng xương xẩu dài lêu đêu rất quen
thuộc với chàng. Xem ra không còn nghi ngờ gì nữa. Tuy nhiên, chàng vẫn tiếp
tục hi vọng rằng mình lầm, rằng cái gã sếu vườn cao kều đang vừa ho vừa cởi áo
khoác kia, không phải là ông anh Nicolai. Levin yêu anh nhưng bao giờ cũng thấy
khổ sở khi phải chung đụng với anh. Và giữa lúc này, tâm trạng đang bối rối vì
tác động của những kỉ niệm cũ trở lại trong đầu và vì câu nói của Agafia
Mikhailovna, chàng càng đặc biệt khổ tâm phải đối diện với anh. Đáng lẽ là một
ông khách vui vẻ, khỏe mạnh, không hề biết nỗi bối rối của chàng và có thể làm
chàng khuây khỏa, thì đằng này, Levin lại phải chịu đựng sự có mặt của ông anh
vốn hiểu chàng đến chân tơ kẽ tóc và có thể khiến chàng bộc lộ những tư tưởng
thầm kín nhất. Mà chàng lại không muốn thế. Bất bình vì thứ tình cảm đê tiện
như vậy, Levin vội chạy xuống phòng chờ; khi nhìn gần ông anh, nỗi thất vọng
của chàng lập tức biến mất, nhường chỗ cho lòng thương xót. Trước kia vẻ gầy
còm và bề ngoài ốm yếu của Nicolai đã đáng sợ là thế, nhưng nay ông còn hom hem
hơn và hầu như kiệt sức. Chỉ còn da bọc xương. Ông ta đứng ở cửa ra vào và lắc
lắc cái cổ run rẩy để cởi khăn quàng ra. Ông mỉm một nụ cười kỳ lạ và thiểu
não. Nhìn thấy nụ cười nhẫn nhục và phục tùng đó, Levin thấy cổ họng se
lại.
- Thế
là tôi về đến đây rồi, - Nicolai nói, giọng câm đặc, mắt không rời khuôn mặt em
một giây. - Đã từ lâu tôi muốn về đây nhưng lần nào cũng không đi được. Bây
giờ, tôi hồi phục rồi, - ông nói và đưa bàn tay dài xương xẩu lên vuốt râu.
- Vâng,
vâng! - Levin trả lời. Và chàng càng thêm khiếp hãi khi đặt môi hôn đôi má gầy
rộc và khi nhìn sát vào đôi mắt to long lanh một ánh kỳ lạ. Vài tuần lễ trước,
Levin có viết thư cho anh là sau khi bán một phần nhỏ số động sản chưa phân
chia của họ, ông sẽ nhận được khoảng hai nghìn rúp. Nicolai nói mình sẽ về lĩnh
tiền và nhất là lưu lại quê hương một thời gian ngắn, đặt chân lên đất mẹ đẻ,
như các anh hùng trong thần thoại, thu hết sức lực trước khi hành động. Mặc dầu
vai gù, vẻ gầy gò dễ sợ với vóc người cao lớn, cử chỉ ông vẫn đột ngột và nhanh
nhẹn như thường. Levin dẫn anh vào phòng làm việc.
Ông anh
thay quần áo rất cẩn thận, một điều khác thường ở ông, chải mớ tóc thưa và cứng
rồi mỉm cười đi lên gác.
Ông ta
đang trong một tâm trạng vui vẻ và niềm nở, như Levin từng biết hồi ông còn
nhỏ. Ông nhắc cả đến Xergei Ivanovitr, không chút hằn học. Thấy Agafia
Mikhailovna, ông còn pha trò và hỏi thăm bà tin tức những người ở cũ. Nghe tin
Pacten Đênixych chết, ông rất buồn. Nỗi sợ hãi hiện trên vẻ mặt, nhưng ông trấn
tĩnh ngay được.
- Bác
ta cũng già rồi, - ông nói và bàn sang chuyện khác. - Phải, tôi định ở lại một
hai tháng tại nhà chú, rồi sẽ quay về Moxcva. Chú biết không, Myagkôp dành cho
tôi một chỗ, tôi sẽ vào làm tại công sở. Bây giờ tôi sẽ sống khác hắn. Nhân thể
nói cho chú biết là tôi bỏ mụ ấy rồi.
- Maria
Nicolaiepna ấy à? Thế nào? Tại sao vậy?
- Ồ! Nó
là một con đê tiện! Nó gây cho tôi không biết bao nhiêu chuyện bực mình! -
nhưng ông không nói chuyện bực mình đó là chuyện gì. Ông không thể nói ông đuổi
Maria Nicolaiepna đi chỉ vì bà ta pha trà nhạt quá và nhất là vì bà ta săn sóc
ông như một người ốm. - Tóm lại, tôi muốn thay đổi hoàn toàn lối sống. Tất
nhiên, tôi đã làm những chuyện bậy bạ, như tất cả mọi người, nhưng của cải là
cái tầm thường nhất, tôi chẳng tiếc gì nó. Điều quan trọng, đó là sức khỏe, và
đội ơn Chúa, thế là tôi bình phục rồi.
Levin
lắng nghe anh và cố tìm chuyện để nói nhưng không nghĩ ra. Nicolai chắc cũng có
cảm giác như vậy; ông bèn hỏi thăm công việc của em; Levin vui lòng kể chuyện
mình vì chàng có thể nói mà không phải màu mè. Chàng kể cho anh nghe những kế
hoạch và dự định cải cách của mình.
Ông
nghe chàng nói, nhưng rõ ràng việc đó không làm ông quan tâm.
Hai con
người này thân thuộc, gần gũi đến nỗi có thể hiểu nhau qua mỗi cử chỉ, mỗi cách
uốn giọng hơn là qua mọi lời lẽ dài dòng.
Lúc
này, cả hai đều có chung ý nghĩ: bệnh tật và cái chết sắp tới của Nicolai, nó
trùm lên mọi ý nghĩ khác. Cả hai đều không dám nhắc tới chuyện đó, cho nên mọi
lời họ nói ra đều giả dối, vì không diễn đạt điều họ bận tâm. Chưa bao giờ
Levin hài lòng vì thấy đêm đã khuya và đến giờ đi ngủ, bằng lúc nãy. Kể cả
những lần tiếp khách xa lạ hoặc đi thăm long trọng, cũng chưa bao giờ chàng
gượng gạo và vờ vĩnh như lúc này. Biết thế và áy náy vì thái độ đó, chàng càng
đờ đẫn thêm. Chàng muốn khóc ông anh sắp chết nhưng lại phải nghe ông ta nói về
cuộc đời định sống và tiếp chuyện ông.
Vì nhà
ẩm và chỉ có một buồng có lò sưởi, Levin liền để anh nghỉ ở sau tấm bình phong
ngăn đôi phòng ngủ của chàng.
Ông anh
đã nằm vào giường. Không biết có ngủ hay không, nhưng ông trở mình, ho hắng như
người ốm và lúc nào không khạc đờm ra được, ông lại càu nhàu một mình. Đôi lúc,
ông thở dài thườn thượt và kêu: “Ôi! Trời ơi!” Lúc khác, khi nghẹt thở, ông lại
tức bực kêu lên: “Ma bắt nó đi!” Levin lắng nghe, hồi lâu không ngủ được. Chàng
nghĩ ngợi rất lan man nhưng rút lại chỉ quy vào một mối: cái chết. Cái chết, sự
kết liễu không tránh khỏi của mọi sinh vật, lần đầu tiên hiện ra trước mắt
chàng với một sức mạnh không cưỡng nổi. Và cái chết đó ở kia, trong người ông
anh thân yêu đang rên rỉ trong giấc ngủ và quen miệng kêu gọi lung tung, lúc
kêu trời, lúc gọi ma, chàng thấy cái chết đó như gần hơn nhiều so với trước. Nó
cũng ở ngay trong người chàng, chàng cảm thấy thế. Nếu không phải hôm nay thì
ngày mai, nếu không phải ngày mai thì sẽ là ba mươi năm nữa; trước sau cũng thế
thôi! Và cái chết tất yếu đó là thế nào, không những chàng không biết, không
những chàng không bao giờ nghĩ tới, mà chàng không thể và không dám nghĩ tới.
“Mình
làm việc, mình muốn làm cái gì đó và mình quên rằng tất cả đều kết thúc bằng
cái chết.”
Chàng
ngồi trên giường, trong bóng tối, co quắp người lại, đôi tay bó gối, cố nén hơi
thở gấp vì căng thẳng và suy nghĩ. Nhưng càng tập trung tư tưởng, chàng càng
thấy sự thể đúng là như thế, không nghi ngờ gì nữa, và chàng đã quên không chú
ý tới chi tiết nhỏ mọn đó. Cái chết sẽ đến, mọi cái đều kết liễu, chẳng vạ chi
mất công làm bất cứ việc gì và không ai thay đổi được gì hết. Thật khủng khiếp,
nhưng đúng như vậy. “Nhưng mình vẫn đang sống kia mà. Phải làm gì, làm gì bây
giờ?”, chàng thất vọng nghĩ thầm. Chàng thắp nến, thận trọng đứng dậy, đến ngồi
trước gương và ngắm nghía khuôn mặt cùng mái tóc mình. Đây này ở hai bên thái
dương, đã có vài sợi tóc bạc. Chàng há miệng. Những răng bên trong bắt đầu
hỏng. Chàng xắn áo để lộ đôi cánh tay cuồn cuộn bắp thịt. Chàng rất khỏe. Nhưng
Nicolai đang thở với phần phổi còn lại, trước kia cũng có một tấm thân cường tráng đấy thôi. Và
bỗng nhiên, chàng nhớ lại hồi còn nhỏ, hai đứa thường bị ốp về giường ngủ cùng
một lúc và chỉ chờ Fedor Bôgđanich ra khỏi phòng là ném gối vào đầu nhau cười
khanh khách, ngay cả nỗi sợ Fedor Bôgđanich cũng không thể dẹp được niềm vui
sống tràn trề và rờ rỡ đó... “Thế mà bây giò anh ấy chỉ còn cái lồng ngực rỗng
và lép kia... còn mình, không hiểu rồi đây mình sẽ ra sao...”
-
Khoạc! Khoạc! Ma bắt nó đi! Chú làm gì mà lục đục thế, sao không ngủ đi? - anh
trai chàng kêu lên.
- Em
cũng không biết nữa. Có lẽ là chứng mất ngủ.
- Tôi
thì ngủ ngon lắm, tôi không đổ mồ hôi trộm nữa. Chú thử lại sờ vào áo sơ mi của
tôi xem có ướt không?
Levin
sờ vào sơ mi của anh, đi ra sau bình phong, tắt nến, nhưng còn thức hồi lâu.
Chàng chưa giải quyết xong vấn đề cuộc sống của mình, thì một vấn đề mới mẻ,
nan giải khác đã hiện ra trước mắt: cái chết.
“Phải, anh ấy sắp chết, anh ấy sẽ chết
vào mùa xuân này. Mình phải làm cách nào để giúp anh ấy đây? Mình biết nói gì
với anh ấy? Mình thì biết gì về chuyện đó nhỉ? Thậm chí, mình còn quên bẵng là
trên đời có cái đó nữa.”