Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict (Tập 3) - Chương 03
NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC SỰ LIÊN QUAN ĐẾN CHÍNH QUYỀN
Khoảng thời gian còn lại của
mùa đông trôi qua mà hầu chẳng có biến cố nào xảy ra: Sticky tổ chức bữa tiệc
sinh nhật trong nhà, để lỡ một đợt đi khám mắt và đo kính nữa, chuyên gia khám
phá Kate phát hiện ra nơi mà cô vẫn tin là những xó xỉnh mới (cô bé còn chưa
hoàn toàn biết chắc một xó xỉnh là thế nào); Reynie học một môn cờ mới và đang
cố rẽ một đường ngôi mới; còn Constance đã hoàn thành xong một bài sử thi về
nước dãi lợn. Nhưng chẳng có sự kiện nào trong số đó được cho là mới lạ cả,
đích xác là vậy, ít ra thì đó không phải là điều bọn trẻ sốt sắng chờ
Chẳng có tin tức gì về nơi ở
của lão Curtain, và dấu hiệu tiến triển trong quá trình điều tra của chính
quyền. Cũng chẳng có thay đổi nào phía trước căn nhà, bởi vì khi lũ trẻ báo cho
ngài Benedict về sự vắng mặt bất thường của ông Bane, ngài đã nói rằng chúng
băn khoăn về điều đó là đúng tuy nhiên không cần thiết phải bàn thêm về chuyện
đó. Vì vậy bọn trẻ không những lo lắng về ông Bane mà còn thắc mắc về thái độ
kỳ lạ của ngài Benedict đối với vấn đề đó nữa.
Thế nhưng, việc suy đoán cuối
cùng cũng trở nên mệt mỏi, và thậm chí những cuộc họp của Hội Benedict Thần Bí
cũng không còn hấp dẫn nữa khi chẳng có chuyện gì mới để thảo luận cả (đặc biệt
là vì các thành viên đã có quá nhiều thời gian bên nhau rồi). Vì vậy, đối với
lũ trẻ, thời gian trôi qua thật chậm chạp với những bài học mỗi ngày, với vô số
những ván cờ, ván bài và không được phép bước chân ra khỏi ngôi nhà. Cho đến
một ngày, khi mùa xuân ấm áp rực rỡ mới chạm nơi thềm cửa thì cũng có chuyện
xảy đến.
Ngày hôm đó cũng bắt đầu như
bao ngày khác, vẫn có tiết mục đọc báo sau bữa sáng. Như thường lệ, Sticky đọc
lướt qua tất cả các tờ báo, trong khi Reynie và Kate chỉ nghiên cứu các mục của
tờ Thời báo Thành phố Đá. Bất cứ khi nào hai đứa đọc xong một mục, chúng lại
đưa nó cho Constance, cô bé sẽ liếc nhìn tiêu
đề rồi vẽ râu và sừng ác quỷ cho những nhân vật trong ảnh. Lũ trẻ được phép nấn
ná đọc báo đến khi nào chúng muốn, nhưng hiếm khi chúng nấn ná lâu, bởi vì
người lớn trông chờ chúng học hành và luyện tập nhiều hơn (nghĩa là chúng không
nên quá rề rà), và cũng bởi vì Constance đã
hết ảnh để vẽ hươu vẽ vượn.
Sáng nay, Sticky hoàn thành
phần đọc còn nhanh hơn cả mọi ngày, sau đó lật đật đi tìm Số Hai, vì cô cho
phép nó sử dụng máy tính để truy cập vào mục lục tra cứu của Thư viện Thành phố
Đá. Cậu đang cố gắng ghi nhớ nó nên đã dành rất nhiều thời gian xem lướt lại
những ghi chép và hôm nay cậu mong mình sẽ hoàn thành. Đó là một công việc nhàm
chán, tuy nhiên nó sẽ hỗ trợ cho việc tìm kiếm của cậu sau này hiệu quả hơn rất
nhiều nên Sticky vô cùng hào hứng.
“Tớ đã nghĩ rằng ngài
Benedict có tất cả mọi cuốn sách trên đời này,” Kate nói khi lần đầu tiên
Sticky đề đạt kế hoạch của mình. “Cả nhà góc nào cũng nhét đầy sách.”
“Tớ biết,” Sticky nói với k
và đầy tán thưởng, “và tớ vẫn còn chưa đọc hết một nửa trong số chúng, nhưng
bất cứ khi nào...”
“Cậu đã đọc được một nửa rồi
ư?” Kate choáng váng, nhưng Sticky vẫn đang lấy hơi nói tiếp.
“... nhưng bất cứ khi nào có
một ấn phẩm liệt kê một quyển sách mà ngài Benedict không có, thì chẳng còn
cách nào khác ngoài việc đặt nó ở thư viện, đúng không? Và nếu như hệ thống thư
viện Thành phố Đá không có quyển đó, thì tớ phải hỏi mượn ở một hệ thống liên
thư viện, có nghĩa là điền vào một đơn khác. Vậy thử nghĩ xem sẽ nhanh như thế
nào nếu tớ có thể bỏ qua phần mục lục và đi thẳng đến mẫu đơn phù hợp! Tớ vẫn
sẽ phải đợi đến ngày làm việc vặt để lấy được sách, tất nhiên là thế, nhưng
điều đó quá là...”
“Đương nhiên,” Kate lơ đãng
nói. “Nhưng cậu nói rõ hơn cho tớ một chút được không? Cậu đã đọc một nửa đống
sách trong ngôi nhà này à? Cả ngôi nhà này ư?”
“Ừm, xấp xỉ một nửa.” Sticky
nói. “Nói chính xác ra thì tớ cho là tớ đã đọc được gần bằng đó” - mắt Sticky
thường nhướng lên khi cậu tính toán. “Ba phần bảy chăng? Phải rồi, ba phần
bảy.”
“Chỉ có ba phần bảy thôi à?”
Kate nói, giả vờ tỏ ra thất vọng. “Thế mà tớ đây đã chuẩn bị tinh thần để cảm
kích rồi cơ đấy.”
Sau khi Sticky ra ngoài, Kate
và Reynie thảo luận về những bài báo mà chúng đã đọc, đa phần nói về việc Thành
phố Đá đang rơi vào thời kỳ khó khăn. Chế độ quan liêu của chính quyền sở tại
đã thực sự trở nên rối ren, ngân quỹ gần như cạn kiệt. Đây là điều Kate và
Reynie biết mà hầu hết các độc giả thông thường không thể biết - bởi vì thông
tin vẫn được phân cấp - và Ledroptha Curtain là một trong những nguyên nhân
chính.
“Trước đây tớ từng nghĩ rằng
mục Khẩn Cấp đọc thật nhàm chán,” Kate nhận định. “Nhưng ít ra thì nó cũng có
chút kịch tính. Vấn đề này lại là một mớ hỗn độn đến khó chịu. Đôi khi tớ băn
khoăn không biết liệu có khi nào họ giải quyết được nó hay không.”
Bản thân Reynie cũng đã băn
khoăn về điều đó. Suy cho cùng, hơn một năm đã trôi qua kể từ lần cuối cùng Máy
Thì Thầm gửi thông điệp đến công chúng - không còn chuyện lão Curtain bí mật
tạo ra bầu không khí đáng sợ, gây hoang mang và tuyệt vọng có tên là Khẩn Cấp
nữa - và theo như ngài Benedict, tác động tâm lý của những thông điệp đó gần
như đã biến mất hoàn toàn. Tuy nhiên, người dân ở Thành phố Đá - một trong
những thành phố quan trọng nhất trên thế giới, vẫn đang phải chi trả các khoản
phí và dọn dẹp đường phố của mình. Ngài Benedict từng nói, hậu quả tâm lý là
một chuyện song hậu quả thực tế lại là chuyện khác.
Reynie nhún vai. “Ngài
Benedict nói phải mất rất nhiều thời gian. Ngài ấy còn nói thật khó để giải
quyết một vấn đề khi có quá ít người biết nguyên nhân của nó.”
“Đó mới là chuyện bực mình,”
Kate nói. “Sự thật là thông tin đã được phân cấp. Ý tớ là, thậm chí hầu hết
những người trong chính quyền cũng không biết sự thật. Bố Milligan nói rằng một
số quan chức vẫn khăng khăng giữ bí mật chuyện đó.”
“Bởi vì họ xấu hổ ấy mà,” Constance xen vào mà không rời mắt khỏi công việc đang
làm (cô bé còn đang bận làm đôi mắt lá và bộ râu côn trùng tặng ngài thị
trưởng). “Họ không muốn người ta biết rằng họ cũng bị lão Curtain lừa bịp y như
những người khác.”
Reynie và Kate nhìn cô bé đầy
kinh ngạc. Constance hiếm khi chú ý đến những cuộc nói chuyện về báo chí như
thế này, và khi chú ý, cô bé thường phàn nàn rằng họ đã nói điều đó hàng ngàn
lần rồi (Nói thế cũng đúng, nhưng bọn trẻ thấy Constance
thật bất lịch sự khi làm thế.)
“Anh nghĩ có lẽ em nói đúng,”
Reynie nói. “Nhưng anh cũng nghĩ rằng đám tay sai của lão Curtain có lẽ dính
líu đến chuyện đó. Có thể họ đang làm gì đó để giữ thông tin không bị lộ...
nhưng đó chỉ là một dự đoán thôi. Anh không biết động cơ của họ là gì, hoặc họ
là ai, và ngài Benedict sẽ không bao giờ nói với chúng ta về điều đó.”
“Vậy tại sao lại thế, anh
Reynie?” Constance nói rồi chống cằm lên lòng
bàn tay, vẻ mặt tỏ ra đăm chiêu suy nghĩ.
Lúc này Reynie đã bắt đầu cảm
thấy nghi ngờ. Nhưng trước khi cậu kịp hỏi Constance
xem ý cô bé là gì, cô Perumal đã bước vào phòng và mang theo một tập tài liệu.
Cô và Rhonda là những giáo viên chính của bọn trẻ (mặc dù thỉnh thoảng tất cả
những người lớn cũng có hỗ trợ ít nhiều), và khi cô đến gần chiếc bàn, trông cô
có vẻ quả quyết và vui vẻ đến mức Reynie biết rằng chắc hẳn cô đến để làm việc
với Constance, hoặc cũng có thể nói là cố gắng làm việc. Ngày hôm qua là lượt
Rhonda, và ngày hôm kia là bà Washington,
và hai ngày trước đó là anh Moocho. Song chưa ai có chút may mắn nào cả. Constance có thể làm liên tục nhiều giờ để thực hiện những
nhiệm vụ mà cô bé thích, nhưng cô bé nhất định không chịu làm những việc mà
người khác giao cho cô.
“Oài, cháu sẽ làm những bài
tập đó sau, cô Perumal,” Constance nói trước
khi cô Perumal kịp mở miệng. “Bây giờ cháu đang thảo luận về bài báo với anh Reynie
và chị Kate.”
Reynie và Kate nhìn nhau đầy
ẩn ý. Chắc hẳn Constance đã biết trước rằng cô
Perumal đang xuống sảnh.
“Thế à?” Cô Perumal hỏi, cố
gắng tỏ ra bình thản. “Hay đấy, Constance ạ.
Nhưng tại sao chúng ta không làm những bài tập này ngay đi nhỉ? Ngài Benedict
đã thiết kế chúng cho riêng cháu mà.”
Constance cau mày. “Cháu không cần biết. Chúng làm cháu phát
ớn.”
“Nhưng cháu còn chưa xem qua
mà,” cô Perumal nói trong lúc đưa tay lên mái tóc đen bóng đẹp của mình như để
vuốt nó thẳng lại. Reynie biết đó là dấu hiệu của sự mất kiên nhẫn; cậu đã
chứng kiến cô làm việc đó nhiều lần khi cô bất đồng ý kiến với mẹ mình. “Cô
nghĩ là cháu sẽ rất ngạc nhiên đấy!...”
Constance phát ra âm thanh như sắp ọe.
Cô Perumal bặm môi. “Cô nghĩ
là sau khi cháu làm bài tập xong, cô sẽ chỉ cho cháu cách làm một món đồ thủ
công nào đó, như làm lều tuyết từ các viên đường chẳng hạn.”
Constance liếc mắt nhìn cô. “Cô làm lều tuyếtviên đường á?”
“Sao lại không, có thể lắm
chứ,” cô Perumal nói như thật. “Và chúng ta dùng kem để làm keo gắn. Cháu không
được ăn miếng nào đâu, tất nhiên là thế rồi - chỉ để chơi thôi”.
“Không... không, cháu không
ăn đâu,”
Constance vừa nói vừa cố nén nụ cười.
“Hối lộ đấy,” Reynie đảo mắt,
thì thầm với Kate.
“Chà, nghe hay đấy!” Constance nói và trèo ra khỏi ghế. “Làm lều tuyết trước
thôi!”
Cô Perumal quả quyết lắc đầu.
“Không được đâu Constance, làm bài tập trước,
rồi...”
“Được mà! Đến giờ làm lều
tuyết rồi, cô Peramal ạ! Sẽ rất vui cho mà xem!” Cô bé chạy ra cửa, hét to để
không nghe thấy lời phản đối của cô Perumal. “Cháu sẽ đi lấy những viên đường -
cháu biết chỗ anh Moocho giấu chúng ở đâu rồi!” Và rồi cô bé biến mất, để lại
cô Perumal đứng nhìn theo cô bé đầy chán nản.
“Cách hay đấy, mẹ thân yêu,”
Reynie nói và cười toe toét, còn Kate cười phá lên rồi vỗ vỗ vào tay cô Perumal
ra vẻ cảm thông.
“Cô đã rất hy vọng là cách
này sẽ thành công,” cô Perumal thở dài trong lúc lơ đãng vuốt lại cổ áo cho
Reynie. “Cô thừa nhận rằng đó là một mánh khóe liều lĩnh.” Cô cười gượng rồi đi
ra phía cửa. “Bà Washington
sẽ vào làm việc với hai con sớm thôi. Sáng nay Rhonda sẽ phụ tá cho ngài
Benedict, còn cô sẽ làm việc cùng Constance
đến giờ ăn trưa.”
“Trưa nay ăn gì, cô Peramal,
cô có biết không?” Kate hỏi.
“Cô mong đó là món thuốc đau
đầu,” cô Perumal đáp rồi bước
Bữa trưa thường khá phung
phí, một phần vì Moocho Brazos rất vui sướng khi được nấu những bữa ăn thịnh
soạn, một phần vì bữa trưa và bữa tối là khoảng thời gian duy nhất hội tụ đầy
đủ các thành viên trong ngôi nhà. Thậm chí ngay cả vào lúc đó ngài Benedict cũng
thường vắng mặt, bởi vì công việc của ngài không cho phép sự gián đoạn, và ngài
cùng với Số Hai sẽ chỉ ghé qua một chút, lấy thức ăn vào đĩa rồi mang đi. Tuy
nhiên, hôm nay, tất cả mọi người đều có mặt trừ chú Milligan, và như thường lệ,
“tiếng líu lo và lách cách” và “kể cả những cuộc nói chuyện tẻ nhạt về các vấn
đề” lại rôm rả vang lên như trong bài thơ mà Constance
sáng tác.
Vấn đề thực sự ngày hôm nay
liên quan đến bản thân Constance, nhưng cho
đến khi bát đĩa đã dọn sạch gần hết, chuyện đó mới được đem ra thảo luận. Và
Constance (sau khi cằn nhằn để trốn việc dọn dẹp không thành) đã phải ì ạch lê
bước theo sau cô Perumal và anh Moocho.
“Dù sao con bé mới chỉ có bốn
tuổi,” ngài Benedict nói, “việc con bé không hào hứng với những bài tập đó cũng
hoàn toàn bình thường. Constance có quyền chơi
đùa, và tôi nghĩ rằng tốt nhất là không nên ép buộc nó. Tuy nhiên, điều quan
trọng là phải quan tâm đến sự phát triển tài năng của cô bé để có biện pháp
hướng dẫn phù hợp.”
“Ngài nói cũng đúng,” bà Washington nói. Bà quay
sang phía chồng. “Không phải là chúng ta thường ước rằng mình đã hiểu rõ hơn về
tài năng của Sticky hồi thằng bé chừng đó tuổi ư?”
Ông Washington gật đầu, hành động mà ông nghĩ ẩn
chứa câu trả lời đầy đủ vì ông là người khá trầm lặng. Với dáng người mảnh
khảnh và cặp kính cận, trông ông Washington như một phiên bản cao lớn hơn của
con trai mình - thậm chí thời gian gần đây còn giống hơn, vì ông đã bắt đầu cạo
tóc luôn cho mình mỗi lần ông cạo đầu cho Sticky, kiểu như một việc bắt buộc
phải làm. (Có rất nhiều dự án cải tạo mà ông có thể thực hiện với rất nhiều
người trong ngôi nhà này, và ông Washington
- một thợ mộc lành nghề hay lam hay làm, rất tận tâm với công việc của mình.)
“Nếu như chúng ta từng luyện
tập như thế với,” bà Washington
nói tiếp, giọng đột nhiên pha chút hối hận, “có lẽ chúng ta đã mắc ít sai sót
hơn. Anh có nghĩ thế không, anh yêu?”
Ông Washington cân nhắc điều này, rồi gật đầu.
“Tuy nhiên, chúng ta có thể
rút ra kinh nghiệm từ những sai sót mà mình mắc phải,” Rhonda nhẹ nhàng nói.
“Và Sticky đã thể hiện cực kỳ tuyệt vời, đúng không nào?”
Khuôn mặt bà Washington bừng sáng. “Ồ
đúng thế! Tất nhiên là thế rồi!” Bà khóc (trong khi ông Washington gật đầu), và cả hai người liếc
mắt nhìn con đầy âu yếm.
Con trai họ, trong lúc đó,
lại cựa quậy vẻ khó chịu trên ghế. Mấy ngày nay, bất cứ điều gì bố mẹ Sticky
nói về cậu cũng làm cậu xấu hổ. Chỉ riêng việc họ nói “Sticky thích cho muối
vào khoai tây” cũng khiến cậu thấy ngượng ngùng, nên việc thể hiện tình yêu
thương trước mặt mọi người còn kỳ cục hơn nữa. Đó là tất cả những điều cậu có
thể làm để không đưa tay lên chỗ cặp kính.
“Chúng ta không phải là người
miễn nhiễm với sai sót,” ngài Benedict nói. “Tôi lại càng không. Cũng chẳng lâu
la gì, mọi người hẳn còn nhớ lần tôi không nhận ra âm mưu của em trai mình ấy,
vì thế mới dẫn đến sự thiệt thòi cho mọi người ở đây. Tôi đã quá chú tâm bảo vệ
Máy Thì Thầm đến mức không hề tính đến khả năng Ledroptha bắt tôi để trao đổi
cỗ máy đó. Thực là một sai lầm ngu ngốc, và tôi...”
“Ngài Benedict!” Số Hai xen
ngang trong lúc đang bóc vỏ cam (cô luôn luôn ăn nhẹ thêm sau bữa trưa), cô đập
nó xuống bàn mạnh đến mức nước cam bắn hết ra bàn bay thẳng vào mắt Reynie.
“Xin lỗi, xin lỗi,” cô Perumal vừa nói vừa đưa một tờ khăn giấy ướt cho Reynie,
“nhưng con không thể chịu được khi nghe những điều như vậy.”
Chỉ thẳng tay vào mặt ngài
Benedict ra vẻ buộc tội, cô Số Hai nói, “Bố dành quá ít thời gian để nghĩ cho
bản thân mình, đó mới là lỗi rành rành nhất. Bố không thể đổ lỗi cho mình vì sự
bội bạc của em trai bố được!”
Tất cả mọi người tán thành
nhận định của cô Số Hai, nhưng ngài Benedict lại chỉ đáp lại với cái nghiêng
đầu đầy biết ơn và khăng khăng nói: “Tuy nhiên, tôi không thể lúc nào cũng nói
về việc tôi hối hận đến thế nào khi đẩy các bạn vào tình cảnh này. Tôi cảm thấy
chuyện đó...” Nói đến đây, giọng ngài trở nên ngập ngừng, và hai hàng nước mắt
rưng rưng. (Kate dè dặt cầm lấy cốc trà của ngài, sẵn sàng bỏ nó xuống trong
trường hợp ngài Benedict đổ gục về phía trước.)
“Nhưng ngài đã nói điều đó
nhiều lần rồi đấy, ngài Benedict!” Bà Perumal nói với giọng hơi xẵng khác hẳn
với cung cách thường ngày. “Và nếu ngài cứ suy nghĩ theo kiểu đó, tôi e rằng
chúng tôi bắt buộc phải rút ngắn chuyến thăm của mình. Chắc chắn là có nhiều
nơi khác sẵn sàng đón nhận một đội quân đến ở nhờ như chúng tôi - ở không biết
đến bao giờ mà không có bất kỳ sự chi trả nào - và không cảm thấy bắt buộc phải
nghe lời xin lỗi cho chuyện đó.”
Ngay lập tức Reynie hiểu rằng
bà cậu chỉ đang đùa thôi; song cũng khiến tất cả mọi người chìm vào sự yên lặng
đột ngột. Sau đó ngài Benedict phá lên cười sảng khoái (tiếng cười kỳ lạ, quen
thuộc y như tiếng cá voi vậy), và rồi cả bàn lập tức cười hùa theo. Mọi người
cười đến chảy cả nước mắt, nhất là sau khi bà Perumal - người đã làm cho không
khí trở nên căng thẳng - cuối cùng cũng phải phá lên cười khúc khích. Lúc
trước, ngài Benedict phải cố gắng lắm mới không ngủ gật vì hối hận, lúc này lại
suýt ngủ gật vì vui vẻ.
Cuối cùng trận cười cũng ngớt
dần, và ngài Benedict tháo kính ra, dùng giấy ăn dụi mắt rồi nói, “Cảm ơn bà
Perumal, vì đã khuấy động bầu không khí. Tôi chắc chắn tất cả chúng ta đều cần
điều đó.” Đặt lại kính lên mũi, ngài lôi chiếc đồng hồ quả quýt ra, cau mày rồi
lại quay trở về dáng vẻ bận rộn và tháo vát hàng ngày.
“Tôi đang chờ khách đến,” ngài
Benedict nói, “nhưng trước khi họ đến, tôi phải quay trở lại vấn đề của Constance. Như tôi đã nói, tôi cảm thấy rất khó chịu khi
phải ép buộc con bé, và nói về điều này, tôi muốn đưa cả Reynie, Sticky và Kate
tham gia vào một cuộc thí nghiệm. Tất nhiên là nếu các cháu sẵn lòng,” ngài nói
với lũ trẻ, “và chỉ khi có sự cho phép của người nhà các cháu.”
Khi cô Perumal được mời đến
(cô vội vã đi từ bếp vào, tay vẫn đang đeo đôi găng đầy bọt nước và vẻ mặt nhẹ
nhõm), ngài Benedict bắt đầu giải thích ý tưởng của mình. Sau một cuộc hội ý
ngắn, các bậc phụ huynh đều tán thành, - hơi lưỡng lự một chút - cũng đồng ý
giúp đỡ.
“Cháu sẽ phải hỏi bố Milligan
khi ông trở về,” Kate nói, bố cô bé đã bị gọi đi thực hiện một nhiệm vụ đặc
biệt ngày hôm qua.
“Thực ra, ta có thể đảm bảo
về sự đồng ý của ông ấy,” ngài Benedict nói, “nhưng lát nữa cháu có thể thảo
luận với bố nếu cháu muốn. Ông ấy vừa mới về đấy.”
“Bố cháu về rồi ạ?” Kate nhảy
dựng lên gào lớn.
Quả đúng như vậy, tất cả mọi
người đều nghe thấy tiếng Milligan huýt sáo ở tiền sảnh (ông huýt sáo tuyệt
hay), và sau đó ông lao vào phòng ăn, giang rộng hai cánh tay chào mọi người.
Kate chạy như bay về phía bố đầy sung sướng - cô bé thật nhẹ nhõm khi bố trở về
nhà an toàn - và ông cười to khi Kate ôm chầm lấy mình rồi lùi lại đằng sau để
đỡ lực đẩy từ con gái. Ông hô thật to câu “Chào cả nhà, chào cả nhà!” với tất
cả mọi người.
Milligan trở về hình dạng ban
đầu của mình - không ngụy trang, băng cứu thương hay diễn kịch - và cùng với cô
con gái, vẻ rạng rỡ, sôi nổi của ông khiến mọi người trong phòng đều vui vẻ. Là
một người đàn ông cao to với mái tóc màu nâu vàng, đôi mắt màu xanh nước biển
(giống màu mắt Kate), Milligan đi đôi bốt, áo khoác và mũ đã sờn khiến người
ngoài không thể biết ông là một điệp viên mật cấp cao. Tuy nhiên vì là một điệp
viên, ngay sau khi chào hỏi mọi người xong, ông đã kéo ngài Benedict, Rhonda và
Số Hai ra một chỗ bàn việc riêng.
Reynie tình cờ nghe được mấy
từ “y như chúng ta nghĩ” và “sớm hơn dự kiến,” và chú ý đến vẻ mặt ngài
Benedict đang rất chú tâm, điềm tĩnh tuy hơi có phần lo âu - cậu nhận thấy rằng
ở đây, ít nhất cũng đã có biến chuyển quan trọng. Nhưng dù có là biến chuyển gì
thì đó cũng có vẻ là điều không như mong muốn.
“Xin lỗi mọi người,” ngài
Benedict nói và xoay người lại nói với cả bàn, “khách của tôi đã đến. Bây giờ
ông Bane đang đưa họ lên. Không, không,” ngài nói khi những người khác đang lục
tục đứng dậy, “hãy cứ ở lại đến khi nào các bạn muốn. Đây là vấn đề thuộc về
chính quyền và phải được giải quyết trong phòng làm việc của tôi.” Ngài đi ra
ngoài, theo sau là Rhonda, Milligan.
Bà Perumal thì thầm điều gì
đó với bà Washington,
bà liếc nhìn về phía chồng tỏ vẻ đầy thắc mắc. Rõ ràng Reynie không phải là
người duy nhất có cảm giác “vấn đề chính quyền” này rất quan trọng.
“Các cháu có nửa tiếng trước
khi bài học buổi chiều bắt đầu,” bà Washington
nói. “Ba cháu có muốn ra ngoài chơi không?”
“Thực ra,” Kate nói trong lúc
đi ra phía cửa, “cháu cần sự giúp đỡ của mấy cậu con trai ạ. Không có gì đâu ạ,
chúng cháu sẽ không làm phiền ai đâu ạ.” Cô bé vẫy tay về phía Reynie và
Sticky, hai cậu hấp tấp chạy theo cô bé hào hứng đến mức dễ khiến người lớn
nghi ngờ, may mà lát nữa họ còn phải tham gia thảo luận, nên không mấy ai để ý.
Bọn con trai theo sau Kate
xuống hành lang rồi đi qua phòng làm việc của ngài Benedict bởi chúng nghĩ rằng
họ sẽ lên tầng để thảo luận. Nhưng thật ngạc nhiên, cô bé rẽ ở chỗ cầu thang
rồi đâm xuống một lối đi ít khi được sử dụng mà theo như Reynie được biết, nó
chẳng dẫn đến đâu ngoại trừ một phòng giặt đồ và một tủ chứa đồ.
“Này, có phải cậu thực sự
muốn bọn này giúp gì không đấy?” Sticky hỏi khi hai đứa con trai hớt hơ hớt hải
chạy theo. “Tớ tưởng là cậu muốn nói về những vị khách bí mật này.”
“Chúng ta sẽ nói chuyện sau,”
Kate nói. Cô bé mở cái giỏ của mình và đưa cho mỗi người một cốc uống nước bằng
thủy tinh mà cô bé đã lén lấy ra từ phòng ăn. “Bây giờ bọn mình sẽ nghe trước.”
“Ý cậu là nghe lén á?” Reynie
nói, mày nhướng lên. Cậu biết trò này - bằng cách ghé sát tai vào cốc thủy tinh
và đặt cốc vào cạnh tường, đôi khi bạn có thể nghe được điều người khác đang
nói ở phòng bên cạnh. Cậu thấy tim mình đập rộn lên.
“Nhưng bọn mình sẽ bị phát
hiện mất, Sticky lo lắng phản đối. “Nghe trộm một cuộc họp quan trọng không
phải là ý hay, các cậu biết rồi đấy.”
“Be bé cái mồm đi,” Kate nói
trong lúc xuống lối đi. Cô bé lôi hai cậu con trai vào tủ chứa đồ rồi đóng cửa
lại. “Nghe này,” cô thì thầm trong lúc lần mò công tắc điện, “cuộc họp này rõ
ràng là bất thường. Ý tớ là, ngài Benedict có hằng hà sa số các cuộc họp, nhưng
các cậu biết cuộc họp này lại khác, đúng không?”
Điện sáng lên. Hai cậu con
trai nheo mắt lại và gật đầu.
“Và cả việc chúng ta không
được kể lại tí gì về chuyện đó nữa, đúng không nào? Như thế là vì sự an toàn
của chính chúng ta thôi, họ sẽ nói vậy - và có thể điều đó là đúng - nhưng các
cậu không tò mò sao? Các cậu không muốn biết à?”
“Tất nhiên là có rồi,” Reynie
nói. “Tớ chỉ băn khoăn không biết cậu sẽ làm thế nào thôi.”
Kate nhìn Sticky, lúc này cậu
bé đang cố không ngọ ngoạy để tránh va vào một cái chổi hay cây lau sàn. Hai
thứ đó được xếp khá gần nhau. Rất cẩn trọng, cậu gật đầu. “Đúng thế đấy, nhưng
chúng ta làm chuyện đó như thế nào?”
“Như thế này nhé,” Kate nói,
miệng cười toe toét. Cô kéo cái xô lau nhà sang một bên để lộ ra một ô cửa trên
tường. Rất nhanh chóng, Kate tháo các đinh vít ra và nói, “Ngôi nhà cũ kỹ này
đã thay đổi không biết bao nhiêu lần trong nhiều năm qua. Đại loại như tường bị
đập đi và thay đổi vị trí, đường ống nước bị thay thế, ổ điện được mắc lại
đường dây. Có rất nhiều thứ mà các cậu gọi là... sự lập dị. Bây giờ bọn mình
đi.”
Cô bé hạ cánh cửa xuống sàn,
để lộ ra một mớ lộn xộn những dây rợ cách điện sáng màu chắn trước một khoảng
tối trống rỗng - kiểu như một dàn nho treo trước lối vào một hang động vậy,
Reynie nghĩ, hoặc như một rèm cửa bằng hạt cườm che trước cửa ra vào ấy. Kate
lấy đèn pin ra và để xô trên sàn nhà gần đó. “Vừa như in,” Kate giải thích. Kéo
đống dây rợ sang một bên, cô bé chiếu đèn pin vào bóng tối, sau đó quay lại
nhìn hai bạn qua vai. “Đừng sợ mấy sợi dây, chúng không có điện đâu. Giờ thì
nghe này, chúng mình cần phải im lặng như chuột. Không, cần phải im lặng hơn
thế cơ. Im lặng như... như...”
“Chuột chết á?” Reynie hỏi
ướm.
“Chuẩn đấy,” Kate nói và gật
đầu hưởng ứng. “Im lặng như chuột chết.”
Và với sự yên lặng đó, hai
cậu bé theo sau Kate tiến sâu vào bức tường.

