Câu Chuyện Phương Bắc - Chương 02

Cuộc rượu chè của sĩ quan kéo dài quá nửa đêm.

Lò sưởi cháy đều. Trong ánh lửa hắt ra đỏ sẫm, ngoài cửa sổ đêm càng xanh hơn. Thỉnh thoảng một bông tuyết nhỏ bám vào mặt kính bên ngoài, nếu nhìn cho kỹ có thể thấy rõ cấu trúc hết sức tinh vi từng tinh thể tuyết.

Họ uống rượu một cách không hào hứng mặc dù cả Kiselev và Merck đều vắng mặt. Hai người đó đang đi kiểm tra các trạm gác. Họ uống không vui đã từ lâu, từ ngày có những tin tức đầu tiên về vụ binh biến ở Petersburg.

Từ mặt bàn chơi bài, bụi phấn bốc lên, làm khé cổ. Những tay chơi vừa lặng lẽ vứt những con bài xuống, vừa rít những tẩu thuốc đã tàn. Các ngọn nến cháy bừng bừng giữa đêm khuya khoắt, người liên lạc bước vào. Cố để cho đôi ủng không khua thành tiếng, anh ta lại gần Bestuzhev và báo cáo ở phòng ngoài có một cô gái không rõ là ai đang đợi chàng. Vẻ mặt của người liên lạc ngây như đá. Các sĩ quan nhìn nhau và ai đó đã cười nhoẻn sau hàng ria mép. Trước đây, mỗi dịp như vậy sẽ làm nổ ra cả một chuỗi những câu đùa nghịch, những giả thiết tinh quái, nhưng lúc này không ai nghĩ đến chuyện bông đùa.

Bestuzhev nhanh nhẹn đứng dậy, bước ra. Anna đang đợi chàng ở phòng ngoài. Chàng nhìn bộ mặt tái nhợt của nàng với mái tóc ướt dính vào trán, hỏi nhanh bằng giọng thì thầm:

- Có chuyện gì vậy Anna?

Cô gái nghẹn thở.

- Anh Pavel[2], - Lần đầu tiên nàng gọi chàng bằng tên khi nói chuyện. - Bố em vừa ở nhà đèn về. Ở đấy người ta đã bắt giữ một sĩ quan người Nga. Ông ta định vượt qua vịnh sang Thụy Điển. Đó là một người tham gia cuộc nổi loạn. Phải làm gì đây, anh Pavel?

- Bình tĩnh đã nào, Anna. - Bestuzhev nói và cảm thấy tim mình lạnh toát, điều báo trước những quyết định mau chóng và không cần suy nghĩ. Chàng đã từng cảm thấy lạnh ngắt như thế trong trận Borodino và ở Petersburg khi chàng giật lại chiếc mũ ra khỏi tay đại hầu tước. - Vào đây em, ta phải cùng bàn bạc xem nên làm gì.

Chàng nắm tay nàng dắt qua gian phòng. Các sĩ quan nhìn thấy cô gái thì đứng cả dậy. Chỉ có những tay đang chơi bài, không nhận ra Anna vừa đến, vẫn tiếp tục hí hoáy ghi điểm bằng phấn và ném bài xuống bàn.

- Thưa các ngài. - Bestuzhev nói. - Một giờ trước đây trên đảo chúng ta đã xảy ra một sự cố phi thường, đòi hỏi chúng ta phải cùng bàn bạc.

Chuẩn úy Lobov trẻ tuổi và nóng nẩy nhảy bổ đến bên Bestuzhev.

- Có chuyện gì thì nói mau đi, khỏi phải mào đầu.

Tiếng giầy ủng và đinh thúc ngựa lạch cạch đã không cho Bestuzhev nói tiếp. Cánh cửa mở ra, Kiselev mình phủ đầy tuyết bước vào. Y quẳng chiếc áo mưa ướt át xuống ghế, đưa mắt nhìn các sĩ quan bằng một cái nhìn vui vẻ và láu lỉnh. Cái nhìn đó dường như nói rằng: “Đây, các ngài xem tôi đã mang về cho các ngài một món quà bất ngờ như thế nào!”

Merck xuất hiện kế sau Kiselev. Y còn nán lại ở phòng ngoài để chải hết tuyết bám vào giầy. Thoáng nhìn thấy Anna đứng bên cạnh Bestuzhev, y nói với một vẻ lịch sự khinh mạn:

- Chuẩn úy Bestuzhev, ông phải biết rằng tại các cuộc họp mặt của sĩ quan, chỉ có vợ, người nhà, vợ chưa cưới của các ngài sĩ quan mới được có mặt.

Bestuzhev bừng mặt.

- Đây là vợ chưa cưới của tôi. - Anh nói.

Anna nín lặng đứng ngây như chết.

Merck cúi đầu, chạm đinh thúc ngựa lạch cạch, không ai để ý đến trò hề của y. Mọi người nhìn viên trung đoàn trưởng đầy phấn khích.

- Các ngài sĩ quan. - Kiselev giơ tay lên như một diễn viên. - Mới vừa qua đi kiểm tra các trạm gác ở gần hải đăng Erasgrund, tôi và đại úy Merck đã bắt được một tên phiến loạn chạy trốn khỏi Petersburg theo mặt băng vịnh Bothnia định vượt qua Thụy Điển.

Một sự im lặng như tờ bao trùm tất cả, đến nỗi nghe rõ tiếng sàn gỗ cọt kẹt dưới chân ai đó.

- Xét theo quân phục, y là sĩ quan trung đoàn ngự lâm cận vệ, cùng bị bắt với y có một tên lính thủy thuộc hải đội cận vệ chống lại nhà vua. - Kiselev nhìn khắp lượt các sĩ quan, y muốn biết những lời lẽ của y đã gây ra ấn tượng như thế nào đối với mọi người.

Các sĩ quan lầm lì im lặng.

- Tên giết vua đã không chịu nói rõ tên họ của mình. Trong các ngài, có thể có người biết y vì chỗ quen biết hay vì đã cùng làm việc trước đây, nên tôi cho là cần phải đưa hắn ra đây cho các ngài nhận mặt.

Kiselev gõ kiếm xuống sàn. Cửa mở, mấy người lính giải người sĩ quan trẻ tuổi để đầu trần vào phòng. Trên trán ông tím bầm một vệt máu đông. Ông lấy tay vuốt mái tóc rối bù, dính bết trên đầu và chăm chú nhìn quanh các sĩ quan. Cái nhìn buồn bã và điềm tĩnh, cái nhìn của một người sẵn sàng đón nhận cái chết đó làm mọi người ghi nhớ mãi suốt bao nhiêu năm về sau. Viên sĩ quan dừng lại ở bên bàn và vịn bàn tay nhỏ bé gầy guộc lên bàn.

- Tôi hỏi một lần nữa. - Kiselev hách dịch nói. - Ông phải khai rõ ông là ai, tên là gì?

- Tôi chỉ có thể nói lại điều tôi đã nói một lần nữa. - Người sĩ quan đáp. - Tôi là con của Tổ quốc bất hạnh của tôi. Vì hạnh phúc của Người, tôi nguyện hiến dâng đến giọt máu cuối cùng.

Ông lảo đảo, tay run rẩy cố bám vào mặt bàn. Bàn tay gầy guộc của ông tuột khỏi mặt bàn. Bestuzhev lao về phía người bị bắt, đẩy cho ông chiếc ghế.

Viên sĩ quan ngồi xuống, chống khuỷu tay lên bàn, bàn tay ôm lấy đầu. Ông đã kiệt sức đến mụ đi. Chiếc áo mưa của ông tuột khuy và các sĩ quan nhìn thấy cánh tay phải quấn lớp băng thô xù đã khô cứng. Mẩu bánh mì đen rơi khỏi vạt áo và lăn trên sàn nhà. Lobov vội nhặt lên và để cạnh người bị bắt.

Kiselev lại nhìn các sĩ quan của mình và chau mày lại. Y nhìn thấy những khuôn mặt tái đi, chăm chú nhìn vào những đôi mắt đầy lo âu và đồng cảm, bèn quyết định chấm dứt mau vở kịch của mình.

- Người ta bị thương. - Lobov nói to. - Thật là nhẫn tâm.

- Ai trong các ngài nhận ra tên bạo loạn này? - Kiselev hỏi, tuồng như không nghe thấy Lobov nói.

Các sĩ quan không trả lời.

Merck thốt lên một cách cay độc:

- Các ngài sĩ quan chắc là dùng rượu quá nhiều nên trí nhớ bị mụ đi rồi.

- Người ấy bị thương. - Lobov kêu lên. - Các ông không thấy sao?

Bestuzhev tiến lên một bước, nhìn thẳng vào đôi mắt nhợt nhạt đi vì tức giận của Kiselev, điềm đạm nói:

- Có những đạo luật tách biệt ta ra so với loài vật. Một trong những đạo luật đó là lòng nhân đạo đối với tù binh. Người sĩ quan này bị thương và đang đói. Những ngón tay của ông ta đã bị rộp vì lạnh. Sao ông lại có quyền bầy ra trước mặt chúng tôi một trò hề đê tiện và ngược đãi con người như vậy? Ông tìm sự đồng tình của chúng tôi vô ích, không có đâu.

Các sĩ quan nhích lại gần Bestuzhev và im lặng. Lưng người bị bắt rung lên và đầu ông đổ gục xuống bàn. Anna chạy lại gần ông ta, ôm lấy hai vai, vỗ về bằng tiếng Nga và tiếng Thụy Điển lẫn lộn.

- Lại còn ai thế này? - Kiselev hỏi và đẩy Anna ra khỏi người bị bắt. - Tống cổ ngay con đĩ này đi!

- Cô hãy đi đi. - Người bị bắt khẽ bảo Anna. - Kẻo rồi vì tôi mà cô phải chịu sự sự lăng mạ.

Anna chậm rãi đứng dậy và đi ra. Mặt cô bừng lên sắc đỏ nặng nề.

Bestuzhev lại gần Kiselev và thẳng tay tát vào mặt y.

Kiselev rút kiếm. Các sĩ quan bổ nhào lại giữ chặt tay y.

- Tôi yêu cầu. - Kiselev gào lên nhưng trong tiếng ồn ào chung quanh không ai nghe rõ lời y.

- Tôi sẵn sàng đấu súng bất cứ lúc nào ngài muốn. - Bestuzhev nói và đi ra.

Kiselev quên mất rằng là trung đoàn trưởng, y không có quyền đấu súng với cấp dưới.

Anna đang khóc đợi Bestuzhev ở ngoài hiên.

Merck gọi lính gác và ra lệnh giải người bị bắt đi. Các sĩ quan giải tán quên cả tắt nến, chúng cháy mãi đến tận sáng, làm căn phòng mù mịt muội khói.

Khi Anna và Bestuzhev bước xuống khỏi hiên nhà, gió nam ầm ĩ gầm thét nổi lên mỗi lúc một dữ dội. Tuyết đọng trên các trục buồm lạo xạo rơi xuống boong tàu. Những ngọn đèn nhấp nháy rồi tắt dần. Băng rạn vỡ trong vịnh như những loạt trọng pháo nổ từ xa, gió đang phá vỡ chúng.

Gió ấm và nặng nề, làm bật cả hơi thở, mang đến mùi tuyết tan.

Bestuzhev không nói với Anna một lời nào về điều xảy ra sau đó. Nàng chìa tay cho chàng, chàng nắm chặt chỗ gần khuỷu tay nàng. Qua tiếng gió rít và tiếng gầm của bão táp, chàng vẫn nghe thấy tiếng trái tim nàng đập liên hồi trong bàn tay ấm áp.

– Anna, - Bestuzhev nói, - em đã an ủi con người bất hạnh, không còn hy vọng được sống sót. Tình yêu của anh đối với em thật vô hạn, đến nỗi anh không có lời nào để diễn tả nổi.

Anna cúi thấp đầu và không trả lời.

Gió ào ào thối trên thành phố, như muốn xóa sạch và cuốn lên miền Bắc cái đêm tối nặng nề mù mịt không thể chịu đựng được này với cả nước mắt, muội nến, sự tàn bạo và tình yêu con người. Gió cuốn bay những giọt lệ hiếm hoi trên mi mắt Anna. Gió đôi lúc trở nên dữ dội đến nỗi tưởng rằng nó sẽ thổi bay cả đêm tối ngay bây giờ và thay vào đó sẽ là bầu trời rạng đông hửng sáng với những đám mây nhẹ nhàng trôi.

Trong nhà Anna, cửa sổ thắp sáng, đám tuyết trước hiên có nhiều vết chân người dẫm. Ở phòng ngoài bốc mùi thuốc lá.

- Khách đến nhà em muộn quá vậy? - Bestuzhev bảo Anna.

- Đó là các cụ già đến tụ họp với bố em.

Bestuzhev đi vào phòng mình, nhưng chàng vừa kịp bỏ áo khoác ngoài và cởi thanh gươm ra, thì Anna đã gọi chàng phía ngoài cửa; chàng bước ra.

- Bố em mời anh ra có chuyện hệ trọng, – nàng nói. - Cụ có thể vào chỗ anh. Nhưng ở ngoài này ít nguy hiểm hơn. Các cửa sổ mở ngay ra vườn.

Bestuzhev hồi hộp đi theo Anna. Cụ già đợi chàng ở dưới bếp. Ông nặng nề đứng dậy đón chàng. Cùng với ông, có mấy người Thụy Điển râu bạc, dáng người vụng về cùng đứng dậy sau bàn. Bestuzhev nhận ra họ - đó là những thuyền trưởng của những chiếc tàu trú đông ở Mariehamn. Chỉ có một người khác hẳn những người kia. Ông ta đen, người thấp và mắt cười láu lỉnh. Đó là thuyền trưởng của chiếc tàu buồm Pháp, Jacques Piner cùng với con tàu bị mắc kẹt vì mùa đông ở Mariehamn và đang sốt ruột chờ xuân đến.

- Thưa các ngài, tôi có thể giúp ích gì cho các ngài, - Bestuzhev bối rối hỏi.

- Thú thực là chúng tôi định hỏi ngài câu đó đấy, - Piner đáp lại bằng tiếng Pháp. Chúng tôi có thể có ích gì cho ngài chăng?

Bestuzhev lơ mơ đoán được các viên thuyền trưởng gọi chàng ra để làm gì.

- Chúng tôi tin ngài, - bố Anna nói, - và chúng tôi sẽ vui sướng nếu mình không nhầm. Gió đang phá vỡ băng đấy.

Ông già nín lặng nhay nhay đôi môi khô.

- Cứ hai ngày gió như thế này nữa, - ông nói thêm, - thì biển sẽ thông đến tận Xtốc-khôm.

- Các ông tướng của ngài đã phạm phải một sai lầm lớn, - người thuyền trưởng đi đôi ủng vàng, cổ đen bóng gập lên, nói với Bestuzhev. – Họ không để ở Mariehamn một chiếc tàu chiến Nga nào.

- Chiếc tàu chiến đã khởi hành rời Abo từ lâu, nhưng nó bị mắc kẹt vì băng, người thuyền trưởng có chòm râu đen trả lời bằng tiếng Thụy Điền, Bestuzhev hiểu họ một cách khó khăn. Bestuzhev dò hỏi nhìn Anna và nàng khẽ dịch lại cuộc nói chuyện chậm rãi của họ.

- Chiếc tàu "Valkyrie" của tôi, - người thuyền trưởng đi ủng vàng nói, - loại tàu chiến nhẹ nhất cũng không thể theo kịp. Nhưng may mắn là nó không có đây.

- Thưa các bạn, - Bestuzhev nói. - Chúng ta sẽ không chần chừ nữa. Ai là người sẵn sàng ra biển đầu tiên?

- Ai cũng sẵn sàng, - Piner vừa rút chiếc tẩu ra khỏi miệng vừa nói. - Nhưng tôi làm điều đó dễ dàng hơn tất cả. Tàu tôi chạy dưới ngọn cờ của quốc vương Pháp không bị theo dõi.

- Để cho ông ấy đi, chúng ta nhường cho ông bạn người Pháp, - người thuyền trưởng già nhất nói và mọi người đều im lặng. - Nhưng hãy để ngài sĩ quân Nga đừng hiểu nhầm rằng chúng tôi nhường nhau một cách thích thú đâu. Không. Mỗi người chúng tôi đều muốn giải thoát cho người đồng bào của ông khỏi giá treo cổ. Mỗi chúng tôi đều hiểu rằng, một khi có người nào chiến đấu cho tự do, người đó chiến đấu cho cả chúng tôi nữa. Chúng tôi là người Thụy Điển, Phần Lan, Pháp. Chúng tôi kính trọng ông ấy. Mỗi chúng tôi đều biết im lặng. Còn nói đến cái sợ... - Ông già cười khẩy... - nói đến cái sợ thì tốt hơn chúng ta để đến lần khác, sau những vại bia. Đã bao lần cái chết bám vào thành tầu của chúng tôi nhe răng ra hăm dọa, thậm chí chúng tôi không đếm hết được.

- Nhiệm vụ khó khăn nhất đặt lên vai ngài. - Piner quay về phía Bestuzhev nói. - Ngài phải giải thoát viên sĩ quan và người lính thủy khỏi bọn lính canh và kín đáo đưa họ lên con tàu của tôi. Nếu gió không ngừng thổi thì cùng nhất là ngày kia, tôi sẽ nhổ neo vào ban đêm.

- Được, - Bestuzhev trả lời. - Tôi xin cảm ơn sự tin cậy của các ngài.

Các ông già đứng dậy, rít tẩu thuốc. Bestuzhev xiết chặt tay họ và khoác áo mưa lên người. Cố để ủng bước không thành tiếng, ho rẽ đi theo lối cửa mở ra vườn.

Bestuzhev trao đổi thêm mấy phút với Piner. Phải xem trước những trở ngại trong việc chạy trốn để tìm cách khắc phục. Ra về, Piner nháy mắt với Bestuzhev và vỗ vào tay áo anh.

- Con tàu của tôi lớn đấy. Có đủ chỗ cho mọi người. Tôi vui sướng nhận thêm một sĩ quán nữa và nếu đôi mắt thuyền trưởng của tôi không nhầm, cả cô gái tuyệt vời, vợ chưa cưới của ông ta nữa. Có phải thể không? Tôi tin những người đang yêu: họ rất độ lượng. Đừng cho là tôi nói đùa. Tôi đã sống qua cuộc đời đầy những sự bất ngờ và phản trắc. Vì vậy tôi dám khuyên ngài: Hãy trốn khỏi nơi đây thôi.

- Ta chưa nên nói đến chuyện ấy bây giờ. Tôi còn phải suy nghĩ đã.

Người Pháp chia tay và ra về.

Bestuzhev quay về phòng riêng, châm nến và ngồi vào bàn. Hai tay chàng ôm lấy đầu suy nghĩ: còn cuộc đầu súng sẽ thế nào?

Nếu ngày mai chàng chết trong cuộc quyết đấu, cuộc chạy trốn sẽ không thực hiện được, viên sĩ quan bị bắt và người thủy thủ sẽ bị giải ngay về Petersburg khi có cơ hội đầu tiên và sẽ bị treo cổ ở đó. Điều đó không được để xảy ra.

Nếu từ chối đấu súng, chàng sẽ bị mọi người coi là một kẻ hèn nhát. - Kiselev sẽ đưa chàng ra tòa án binh vì tội xúc phạm nặng nề trung đoàn trưởng, cuộc chạy trốn cũng bị lỡ dở, nỗi ô phục sẽ trút lên đầu Bestuzhev và dầu độc cả quãng đời còn lại của chàng.

Chỉ còn lại một cách: hoãn cuộc đấu tới sau khi cuộc chạy trốn đã được hoàn thành. Nhưng điều đó có nghĩa là mọi ý nghĩ bí mật về cuộc ra đi cùng với Anna và cuộc sống tràn đầy niềm vui và phiêu bạt cũng sẽ tan vỡ.

Sau cuộc nói chuyện với Piner, chàng đã thấy mình cùng Anna đứng trên boong của chiếc tàu buồm lướt đi trước những dải bờ biển phương nam mọc đầy những vườn quả. Trong những đồng bằng ven bờ và những vùng cao rải rác các rừng bưởi, các xóm làng và các lâu đài.

Nước sôi sục sau đuôi đầu. Các thủy thủ mỉm cười nhìn người thiếu nữ trẻ tuổi, nhường đường cho nàng đi. Nàng thận trọng dìu trên mặt boong người sĩ quan cánh tay phải quấn băng, ông đã trả lại cho cuộc sống bởi sự cố gắng chung của họ. Những thành phố cổ xưa nhô trên mặt nước, làm xao xuyến lòng người. Những mái nhà của thành phố lấp lánh dưới ánh mặt trời. Tiếng hát của những người chài lưới vẳng lại từ sau làn sương sớm.

Bestuzhev quyết định hoãn cuộc quyết đấu đến khi viên sĩ quan và người thủy thủ được cứu thoát. Ý nghĩ về hai con người được cứu sống sẽ sống trong trái tim của Anna và làm cho họ hạnh phúc.

Bestuzhev tư lự. Chàng không nghe thấy tiếng nói của cụ già và Anna sau bức tường và tiếng chân của Anna đang lại gần cửa.

- Pavel, - nàng nói. - Bố vừa gọi em và nói là muốn cho em và anh được hạnh phúc. Bố nói anh sẽ là người chồng xứng đáng.

Bestuzhev đứng dậy.

- Chúng ta chịu ơn người tù binh hạnh phúc này. - Anna nói tiếp. - Chúng ta sẽ cứu họ bằng bất cứ giá nào, phải không anh Pavel?

- Anh xin thề! – Bestuzhev đáp lại.

Ánh dương xanh nhạt bí ẩn rọi vào căn phòng và Anna nom nhợt nhạt hẳn đi trong ánh sáng ấy. Nàng mỉm cười. Bestuzhev bước lại phía nàng một bước, giữa lúc đó, tiếng trống bất ngờ khua vang ngoài cửa sổ. Tiếng trống khua vội vã, liên tiếp, nhưng không át được tiếng người kêu vọng lại từ xa. Bestuzhev dừng lại.

- Chuyện gì thế? – Anna kêu lên, chạy bổ lại với Bestuzhev.

Nàng khiếp hãi nhìn ra ngoài cửa sổ. Ngoài đó gió đang thổi, những lớp khối đen từ ống khói tỏa ra và trong không khi biếc xanh, tiếng trống càng nổi lên thôi thúc hơn.

- Đây là bọn phạt đòn - Bestuzhev tại mặt đi trả lời. Anna từ từ quỵ xuống sàn: nàng bất tỉnh.

Semyon Tikhonov bị đánh thức dậy lúc sáng sớm. Viên hạ sĩ để ngỏ gian phòng của lính gác. Gió ẩm ướt quét trên mặt sàn làm những mớ rơm kêu xào xạc. Những người lính thiếu ngủ đứng chen chúc ngoài hiên, súng lịch kịch và ngáp dài.

Tikhonov nhổm dậy, vội vã đi ủng.

Anh nhanh nhẹn mặc quần áo và đứng vào hàng. Viên hạ sĩ xoay người anh như con bù nhìn nhìn bốn phía và bảo:

- Ôi, Ivan đau khổ, cầm lấy súng chứ?

Tikhonov không hiểu mang súng theo để làm gì nếu người ta đưa anh đến chỗ phạt đòn, nhưng cũng cầm lấy khẩu sáng.

Chúng giải anh đi. Tuyết lạo xạo rắc xuống mái nhà. Những con quạ kêu lên như trước cơn mưa. Khói từ các ống khói xả xuống mặt đất.

"Chẳng lẽ đang là mùa xuân ư?" - Tikhonov thầm nghĩ khi bước trên đám bùn nhão do tuyết đang tan hòa lẫn với nước. Trong các căn nhà vẫn tối om.

"Ít ra cũng phải một trăm đón không ít hơn - Tikhonov nghĩ. - Trung đoàn trưởng nóng nảy quá. Ba trăm đòn ai mà chịu nổi! Nếu thế lấy đá đeo và cổ rồi nhảy xuống hố băng còn hơn.''

Đám người đi ra bài tập. Hai hàng linh xếp sẵn, đứng quay mặt vào nhau, tay cầm gậy. Những lính đánh trống xếp hàng một bên. Merck vừa hút tẩu, vừa đi đi lại lại bên cạnh họ. Thỉnh thoảng hắn lại lấy mũi giày khẽ đá vào chân người đánh trống này hay người kia - cho thẳng hàng.

Tikhonov bị dẫn lại gần Merck.

- Cởi quân phục ra, người anh em. - Merck nói, chăm chú nhìn Tikhonov run rẩy chậm chạp cởi những chiếc khuy và cởi bỏ bộ quân phục. - Chà, đồ ăn hại, áo lót rách rưới thế kia há? Thôi, chịu đòn cho giỏi nhé.

- Thưa ngài, tôi xin cố gắng - Tikhonov kêu lên bằng giọng nói cứng như gỗ và cởi chiếc áo sơ mi.

- Toàn đội, nghe lệnh! - Merck quát lên và quay gót giầy.

Những người lính thắng người ra và lặng đi. Những người lính đánh trống giơ đùi trên mặt trống bọc da xám. Chỉ có chỗ giữa mặt trống mới thâm lại vì dùi gõ vào. 

Viên hạ sĩ và một người lính ria mép màu hung buộc tay Tikhonov vào báng khẩu súng của anh, nắm lấy nòng, kéo Tikhonov đến gần hàng quân. Tikhonov bước đi chậm chạp như người mất hồn.

- Toàn đội nghe lệnh! - Merck quát lên một lần nữa. Theo lệnh trung đoàn trưởng dẫn tên lính Tikhonov qua hàng quân. Đánh ba trăm gậy. Bắt đầu!

- Lạy quan lớn! – Tikhonov kêu lên và ngã quỵ xuống tuyết ướt.

- Bắt đầu! - Merck vung chiếc găng.

Tiếng trống vang lên loạn xạ. Viên hạ sĩ và người linh râu nâu cần nòng súng kéo Tikhonov. Tikhonov ngã xuống, bò đi vài bước trên tuyết, đứng dậy, lảo đảo đi vào giữa hai hàng quân chật hẹp. Tiếng gậy vụt đầu tiên rít lên.

- Một! – viên hạ sĩ khàn khàn đếm.

Lại một đòn nữa kêu vút.

- Hai! – Tên lính ria nâu vui vẻ kêu lên.

Khi đó Tikhonov quay bộ mặt đẫm máu đáng sợ về phía Merck kêu lên như xé giọng.

- Sự thật không che lấp được! Không giam giữ được, anh em ạ! Bọn bất nhân khát máu sẽ đến ngày tận số!

Anh đứng chững lại. Máu chảy thành dòng trên lưng. Tiếng trống vẫn vang lên rền rĩ. Môi những người lính run lập bập.

Đến ngọn đòn thứ năm mươi. Tikhonov ngã xuống. Người ta xốc anh lên. Những nắm tuyết đẫm máu dính vào lưng.

Thêm mấy gậy nha, anh lại ngã xuống. Anh bị kéo lê trên tuyết, thở phì phò. Những người lính dạ gậy xuống không cần có lệnh. Những tay lính đánh trống cũng dừng lại.

- Không ai đánh kẻ đã gục. - Merck nói lắp bắp và lại gần Tikhonov.

Viên hạ sĩ và tay lính ria nâu lật Tikhonov ngửa mặt lên. Merck cúi xuống. Tikhonov mở đôi mắt mờ đục không còn sự sống nhìn bầu trời. Sau đó anh hướng cái nhìn sang Merck, gắng gượng nhổm dậy, hàm anh trệu trạo như đang nhai một miếng bánh cứng

- Xin quan lớn tránh ra, - viên hạ sĩ nói, - kẻo không có chuyện chẳng hay.

Merck nhanh nhấu đứng thẳng người dậy. Tikhonov muốn nhổ vào mặt y, nhưng nước bọt lẫn máu chảy xuống cằm và đọng lại trong đám râu không cạo.

- Mang nó đi - Merck nói, quay mặt chậm rãi bỏ đi.

Những người lính nhanh nhẹn kiêng Tikhonov đặt lên tấm áo khoác và đưa vào bệnh xá trung đoàn.

Buổi sáng, các giám thị của Kiselev đến gặp Bestuzhev. Họ thấy cánh tay phải của anh quấn băng.

- Tôi xin phép các ngài hoãn cuộc đấu súng lại hai ngày, - Bestuzhev nói. - Đêm hôm qua trong khi đi về nhà, tôi bị ngã nên cánh tay bị thương. Xin hãy tin là việc trì hoãn này làm cho tôi rất khó chịu, nhưng lý do hoàn toàn chính đáng. Tôi không bắn được. Tôi sẽ cố gắng hết sức để chữa khỏi cánh tay trong một thời gian ngắn nhất.

- Chúng tôi sẽ thỏa thuận với ngài Kiselev sau, - một giám thị, thiếu úy hồi hưu người Thụy Điển, hiện sống ở mũi đất gần Mariehamn trả lời. - Và sẽ báo quyết định của ông ta qua các giám thị của ngài. Xin cho tôi được biết tên của họ.

Bestuzhev nêu tên Lobov và viên bác sĩ trung đoàn. Buổi sáng chàng đã kịp gửi một mẩu giấy báo tin cho họ.

- Có thể cử bác sĩ riêng của tôi đến thăm ngài chăng? - Chia tay, người Thụy Điển nhã nhặn đề nghị.

Bestuzhev đỏ mặt.

- Cảm ơn ngài, – chàng nói giọng dứt khoát. - Tôi còn đi lại được, nếu cần, có thể tự đến bệnh xá trung đoàn.

Những người giám thị cúi chào rồi ra đi.

Khoảng một giờ sau, bác sĩ trung đoàn Traube, một người mắt cặp kèm, má phủ đầy lông hồng, đeo mắt kính to, đi trên một chiếc xe trượt do con ngựa còm chở nước kéo đến.

Bàn tay mũm mĩm của ông âu yếm nắm tay Bestuzhev, và nói rằng Kiselev – một tay chuyên gây gổ, hay đấu súng, đòi hỏi cuộc đấu phải diễn ra chậm nhất là sáng mai, đồng thời hai đấu thủ đều bắn bằng tay trái.

Trái tim Bestuzhev như hẫng xuống. Chàng đồng ý. Traube định xem cánh tay phải của Bestuzhev, nhưng chàng gạt đi.

Traube tháo kính và lau hồi lâu bằng chiếc khăn tay đỏ, hấp háy hai hàng mi trắng che gần hết cả đôi mắt. Mặt người bác sĩ cau lại, khóe mép run run.

- Pavel Aleksevich – ông cúi mặt xuống nói, - Thế này là thế nào? Chẳng hóa ra đúng như các cụ già nói: bắt đầu đến những ngày đen tối rồi chăng?

- Vâng, một thời kỳ đen tối.

- Biết bao sự kiện đau buồn. Ban đêm người ta đưa đến chỗ tôi hai người bị bắt.

- Sao lại đưa đến bệnh xá?

- Người sĩ quan, như anh có thể đã nhận thấy, có một vết thương đã lâu ngày trên cánh tay, cần được cứu chữa. Ông ta đã kiệt sức. Người lính thủy chân bị rộp vì lạnh.

- Bác sĩ ơi, - Bestuzhev nói. - Chữa cho họ làm gì nếu để sau đó họ lại bị đem treo cổ.

Viên bác sĩ đánh rơi chiếc khăn tay.

- Chẳng lẽ anh cho rằng tôi phải khước từ việc chữa chạy cho họ ư?

- Như thế thì cao thượng hơn. Giữ sức khỏe cho người ta làm gì nếu cái chết không tránh khỏi sẽ đến với họ?

- Có thể hoàng đế tha tội cho họ chăng?

- Không bao giờ!

- Tôi chữa cho họ vì hy vọng rằng cuộc sống sẽ được trả lại cho họ.

- Bởi ai?

Viên bác sĩ lại tháo cặp kính ra và run rẩy lau chùi.

- Bởi ai cơ chứ? - Bestuzhev nhắc lại. - Họ làm sao chạy thoát nếu không có ai giúp đỡ.

- Thật là điên rồ! - Ông thầy thuốc thốt lên. - Các cửa ra vào và cửa sổ đều có lính gác. - Khi đó Bestuzhev ghé sát vào tai người thầy thuốc và nói khẽ:

- Nếu bác sĩ còn một chút lòng nhân ái và danh dự, nếu lương tâm không cho phép bác sĩ trở thành đồng lõa của cuộc hành hình mà bác sĩ đang đóng vai thì xin hãy nghe tôi...

Viên bác sĩ kinh hãi nhìn ra cửa sổ, rồi nhích lại gần Bestuzhev. Họ chuyện trò với nhau hồi lâu. Bestuzhev vừa đứng lên vừa nói:

- Tối nay tôi sẽ đến thăm bác sĩ ở bệnh xá. Tôi cần được biết vị trí nơi đó và nhân thể thăm anh lính Tikhonov trung đội tôi. Hôm nay cậu ấy vừa bị phạt đòn.

- Nếu vậy phải đến mau lên, viên bác sĩ nói, - cậu ta chẳng còn sống được mấy chốc đâu. Mất máu nhiều quá!

Viên bác sĩ tạm biệt rồi ra về. Con ngựa gầy chở nước từ từ kẻo chiếc xe đưa ông về bệnh xá.

Bestuzhev lại gần cửa sổ, áp trán vào mặt kính lạnh lẽo.

- Máu... - Anh buồn bã nói. – Máu đọng trong trái tim.

Buổi tối Anna cùng Bestuzhev ra khỏi nhà. Anna lo lắng suốt cả ngày. Nàng đã thấy các sĩ quan đến tìm Bestuzhev, cả viên bác sĩ, nhưng không hề hỏi han điều gì. Nàng nghĩ là những điều đó có liên quan đến việc chuẩn bị cho việc cứu tù nhân.

Từ sáng đến xẩm tối, nàng ngồi bên lò sưởi rực lửa cuộn mình trong tấm khăn choàng, bỏ cả bữa trưa, thậm chí cả tách cà phê. Mỗi tiếng động lại làm nàng giật bắn người lên. Nàng luôn tơ tưởng thấy tiếng trống khua.

Trong một ngày mà nàng sút hẳn đi, một nếp nhăn nhỏ hiện lên giữa hai hàng lông mày luôn động đây và dướn lên. Đôi mắt mỗi lần nhìn Bestuzhev lại hiện rõ vẻ lo buồn của người mẹ.

Bestuzhev không chịu được cái nhìn của nàng, đưa mắt lảng sang chỗ khác. Chàng cảm thấy hết sức bối rối vì phải giấu kín cuộc đấu súng.

Chàng không ngừng nghĩ đến Anna. Cảm thấy rất đỗi khổ tâm vì tình yêu đã đến với họ sao quá muộn màng và không may đến vậy, đúng vào những ngày lộn xộn đen tối này. Vậy mà chỉ cách đây không lâu thôi, nó còn nở hoa đầy quyến rũ, giữa cảnh trời đông dịu dàng tươi mát, còn làm cho trái tim nóng hổi phải thổn thức dồn dập dưới tiếng nến cháy tí tách, tiếng cười như trẻ thơ của các cụ già hiền hậu, dưới tiếng chuông đồng hồ cổ xưa của ông cha.

Anna và Bestuzhev đi ra ngoại ô thành phố, tới sát bờ biển. Chân ngập trong tuyết.

Trên bờ biển, Anna kéo cánh tay Bestuzhev và chỉ ra mặt biển. Sau một vệt hẹp lớp băng dầy nứt ra, biển đã rì rào những lớp sóng đen ngầu bọt và gió phả bụi nước vào mặt.

Những chiếc tàu hiện lên không xa. Chúng rung rinh trước những cơn sóng vỗ. Những dây xích khi thì chìm xuống mặt nước đen ngòm, khi thì loảng xoảng chồm lên, bọt nước chảy xuống ồn ào.

Gió nam thồi về. Tuyết ướt lác đác rơi. Nó tan ra ngay trên mặt vịnh và phủ lớp bụi mù dữ dội. Các con tàu đã thắp đèn, ánh sáng mờ mờ của chúng càng làm cho người ta thấy khó chịu và không cần thiết.

Anna và Bestuzhev thong thả đi về thành phố. Gần bệnh xá họ chia tay nhau. Bestuzhev muốn vào bệnh xá.

- Sao anh buồn vậy, anh Pavel? - Anna hỏi khi chia tay nhau và mãi không muốn buông bàn tay Bestuzhev ra.

- Có người lính sắp chết trong bệnh xá, - Bestuzhev nói lảng. - Em cũng biết đấy.

- Thực không có gì khác làm anh lo lắng đấy chứ, anh thân yêu?

- Không đâu, Anna.

Bestuzhev sợ ngước mắt lên. Anna thở dài.

- Thôi được, anh về thật mau nhé, em sẽ đợi. Không có anh, em thấy sợ và cảm thấy trên đảo chẳng có một ai. Anh về ngay nhé!

Bestuzhev gật đầu, quay đi, nhanh nhẹn đi vào bệnh xá. Anna nhìn theo theo anh.

Bestuzhev bước vào căn phòng giá lạnh. Tikhonov nằm úp sấp trên một chiếc giường sắt. Nhìn thấy Bestuzhev, anh thều thào và cựa mình. Tấm lưng bịt băng của anh không đắp chăn: chăn nặng làm Tikhonov đau đớn không chịu được.

Người lính phục vụ tại bệnh xá khoác tấm áo choàng bẩn, lập cập lê đôi ủng đi ra ngoài.

Bestuzhev lại gần Tikhonov và quỳ xuống bên giường để nhìn rõ mặt anh. Nhưng anh không nhìn thấy cả mặt mà chỉ nhìn thấy một bên má sưng húp, và con mắt đen mệt mỏi. 

- Xin ngài đứng lên, ở đây rác rưởi bẩn lắm, Tikhonov thều thào. - Tôi sẽ quay mặt ra.

- Nằm yên, nằm yên, bạn thân yêu ơi, – Bestuzhev nói khẽ và đặt bàn tay lên mái đầu ram ráp của Tikhonov.

- Thưa ngài ... - Tikhonov nói và khóc òa: - Vì lẽ gì mà chúng hành hạ tôi thế này?

- Đừng khóc nữa, Tikhonov ơi, Bestuzhev nhăn mặt và quay đi, nhìn ra cửa sổ tối đen. - Cầu trời cho hai chúng mình được sống sót, hết hạn lính, ta sẽ sống đời tự do.

- Tự do nào ? - Tikhonov nói gần như không nghe rõ. - Ai tự do cứ tự do, con ai khổ cứ khổ. Vợ tôi chết rồi. Chỉ còn có bà mẹ già và đứa con trai. Tên cháu là Petrushka. Xin ngài lưu tâm hãy báo cho mẹ tôi biết về cái chết của tôi. Cứ viết là con trai bà đã chết vì bệnh sốt và mong bà sống lâu.

- Viết đi đâu cơ?

- Tỉnh Novgorod, huyện Belozersky, làng Megra trên sông Kovzha, bà Avdotya Tikhonova, - Tikhonov thì thầm và lặng đi hồi lâu.

Nghe thấy rõ tiếng chân lính gác ngoài cửa sổ và ai đó đang thở dồn ở bên kia bức tường.

- Thôi, vĩnh biệt Tikhonov! - Bestuzhev nói.

Anh lính rút khỏi chăn bàn tay lạnh lẽo mềm nhũn như sáp ong, nắm lấy bàn tay Bestuzhev, rồi lại nín lặng. Tưởng chừng anh đã ngủ thiếp đi. Bestuzhev chờ đợi.

– Vĩnh biệt! - Cuối cùng Tikhonov nói thật khẽ.

Bestuzhev thận trọng ra ngoài.

Bestuzhev trở về nhà lúc trời đã khuya. Anna chờ đợi trằn trọc mãi đã ngủ thiếp đi. Bestuzhev dừng lại bên cánh cửa mở ngỏ vào phòng nàng.

- Gì thế, anh Pavel? - Anna lo âu hỏi trong giấc mơ rồi yên lặng.

Bestuzhev lắng chờ một lát, nghe rõ hơi thở của nàng, chàng bước vào phòng - cảm thấy tim mình lạnh ngắt.

Chàng châm nến ngồi xuống bên bàn, nhìn đồng hồ - đã hai giờ đêm rồi. Cuộc quyết đấu được định đoạt vào sáu giờ sáng trong khoảng rừng thông bên bờ vịnh biển.

- Chỉ còn bốn tiếng đồng hồ, - Bestuzhev nói và tư lự một lát, chàng mài mài chiếc ngòi bút lông ngỗng.

Chàng lấy từ ngăn bàn ra trang giấy vàng, dầy và bắt đầu viết nhanh những hàng chữ nghiêng rây đầy mực.

"Anna, - chàng viết, - anh đã phạm một tội lớn với em là đã không nói một lời nào về cuộc đấu súng sắp tới. Tình yêu của chúng ta không có chuyện đó cũng đã trải qua khá nhiều thử thách. Anh chợt hiều ra là chúng ta yêu nhau khi các sự việc nặng nề đầy căm phẫn đã dồn dập ập vào cuộc đời của chúng ta. Những sự việc ấy đã gây cho chúng ta lòng căm giận và sự lo âu, khiến cho e phải nhỏ lệ, đã cuốn hút toàn bộ sự sống, tất cả trí tuệ của anh mà giờ phút này chỉ bận tâm vào một suy nghĩ - làm sao cứu thoát những con người cao cả đang cầm chắc cái chết trên giá treo cổ.

Niềm an ủi duy nhất của chúng ta là, trái với sự vô tâm của những kẻ đang yêu, ta có thể hiến dâng tất cả cho nỗi bất hạnh của người khác. Chúng ta không thể sống chỉ bằng tình yêu lứa đôi, không thể đối mặt với sự bất công và những nỗi đau khổ của người dân.

Anh nói những lời đó hoàn toàn chính đáng vì trái chết của anh lính Tikhonov, việc bắt giữ những người tham gia cuộc khởi nghĩa Petersburg chỉ là những trường hợp riêng lẻ của nỗi đau khổ mêng mang của dân chúng. Tổ quốc của anh đã phải gánh chịu trăm đắng ngàn cay một cách oan trái.

Những ước mơ của chúng ta về cuộc chạy trốn đã bị tan vỡ vì cuộc đấu súng. Anh vừa mới ghé thăm Piner trên chiếc tàu của ông ta. Đêm ngày kia tàu sẽ nhổ neo. Ông không thể đi ngay bây giờ vì buồm chưa chuẩn bị kịp. Cả đội thủy thủ đang sửa chữa cánh buồm không ngừng tay và anh cho rằng các thủy thủ dũng cảm đã hay biết đôi điều về kế hoạch của chúng ta.

Cuộc chạy trốn xảy ra sau một ngày đêm, còn cuộc đấu súng - sau bốn giờ nữa. Nếu anh còn sống, số phận của những kẻ bị bắt sẽ trở thành số phận của chúng ta và cứu thoát họ, chúng ta sẽ phải cùng ra đi với họ. Nếu anh bị chết hay bị thương thì em, Anna, sẽ thay anh.

Đêm ngày kia, Lobov sẽ chỉ huy phiên gác ở bệnh xá. Anh đã chuẩn bị mệnh lệnh giả của trung đoàn trưởng đòi chuyển tù nhân về pháo đài Segby đang xây dở. Bác sĩ ở bên phía chúng ta. Các binh sĩ đang phấn khích và sẵn sàng theo tiếng gọi đầu tiên; quay súng vào những tên chỉ huy ngày hôm qua Trung đoàn đang xáo động.

Nếu Lobov (có sẵn mệnh lệnh giả đề phòng trường hợp chạm trán với Merck hay một sĩ quan nào đó trung thành với trung đoàn trưởng) giải thoát được những người bị bắt thì chiếc xuồng từ tàu biển cử tới sẽ đón họ sau mũi đất có rừng mọc đầu tiên trên đường tới Segby. Lobov sẽ ra đi cùng những người tù trốn.

Anh tin ở Piner và kinh nghiệm hàng hải của ông, nhưng anh muốn em ra tàu từ xẩm tối và chỉ cho Piner rõ quãng bờ biển phải gửi xuồng tới đón những người chạy trốn. Em biết những nơi này như ngôi nhà của mình. Piner vẫn lo rằng trong bóng đêm các thủy thủ sẽ bị lạc và chính ông không xác định được chính xác vị trí vì không am hiểu vùng bờ biển này.

Đáp lại lời hứa hẹn của anh là em sẽ có mặt ở trên tàu, ông nói rằng không cần một người dẫn đường nào tốt hơn Anna.

Những người lính có thể trốn chạy, nhưng chưa chắc họ đã làm như vậy. Cuộc sống của họ an toàn vì họ đã làm theo mệnh lệnh trực tiếp của cấp trên.

Anh e rằng những dẫn giải chính xác của anh sẽ bị em xem như sự hờ hững với em. Chẳng lẽ em sẽ bảo: Sao anh ấy có thể viết một cách bình tĩnh và tỉnh táo như vậy một khi biết rằng sẽ không bao giờ thấy mình nữa?!

Anna. tình yêu của anh với em là vô hạn. Anh sợ nghĩ tới em những phút này. Anh xua đuổi mọi ký ức và sợ nghe thấy tiếng nói của em. Nếu em bước vào đây lúc này anh sẽ không chịu đựng nỗi, sẽ quên đi hết thảy và chắc sẽ quỳ xuống van xin em chỉ một điều - chạy trốn để giải thoát. Vì vậy, anh về muộn gặp lúc em đã ngủ.

Anh biết - và em phải biết chắc điều này cùng anh - sẽ đến ngày trả hận vĩ đại. Những đau khổ và cái chết của chúng ta sẽ dội vào bao trái tình niềm xúc động mãnh liệt. Sự khinh miệt hạnh phúc của người dân sẽ bị coi là một tội ác ghê tởm nhất. Tất cả những gì hèn hạ sẽ bị đập tan thành tro bụi và hạnh phúc của người dân sẽ trở thành mục tiêu cao cả nhất của những lãnh đạo quần chúng, của các lãnh tụ và các trướng soái.

Anh nghĩ đến ngày đó và thầm ghen với những người phụ nữ xinh đẹp, những người đàn ông quả cảm mà tình yêu của họ sẽ nở hoa dưới bầu trời của một đất nước sung sướng và tự do. Anh ghen và âm thầm kêu lên trong lòng mình như những người tù nhân kêu lên trong ngục tối: đừng quên chúng tôi, hỡi những người hạnh phúc!

Vĩnh biệt em! Hãy tha lỗi cho anh vì một tình yêu trắc trở và những nỗi đau khổ không ngờ trước. Thư đề tên bà Avdotya Tikhonova em gửi về làng, Megra, huyện Belozersky, tỉnh Novgorod.''

Bestuzhev không đọc lại bức thư, dán phong bì lại và viết lên "gửi Anna".

Báo cáo nội dung xấu