Chiếc Lồng Xương Thịt - Chương 117
Theo quy trình, lễ nhập hội bắt đầu lúc 5 giờ chiều và kéo dài khoảng hai tiếng.
Sau 7 giờ, một bữa tiệc tối sẽ được tổ chức tại nhà hàng khách sạn để chúc mừng thành viên mới gia nhập hội và cũng là buổi tiễn đưa các khách mời tham dự — mặc dù hội nghị Nhân Thạch Hội lần thứ 47 không diễn ra như dự kiến, nhưng đã đến rồi, cũng nên có một kết thúc hoàn chỉnh, có đầu có đuôi.
Lúc 4 giờ 45 phút, Trần Tông đến đại sảnh tiệc lớn đúng giờ.
Cửa sảnh đóng chặt, Mã Tu Viễn và Ngưu Thản Đồ ngồi cạnh nhau sau chiếc bàn nhỏ bên cạnh cửa, trước mặt là một cuốn sổ điểm danh bìa đỏ, và đã có bảy tám hội viên đến sớm xếp hàng chờ — nếu không vì không khí có chút trang nghiêm, trông chẳng khác nào một đám cưới nơi khách chờ để chúc mừng.
Mã Tu Viễn đứng dậy vẫy tay gọi Trần Tông, bảo anh ngồi vào chỗ mình, rồi nói nhỏ: “Cậu đến rồi, vậy có thể mở cửa cho mọi người vào. Đây là buổi của cậu, cậu phải đứng ở cửa đón từng người, thể hiện sự chào đón của cậu. Sau khi điểm danh xong, cậu sẽ là người cuối cùng vào, đó là cách mọi người chào đón cậu. Tôi thì phụ trách bên trong, gặp lại sau.”
Nói xong, anh nhìn sang Ngưu Thản Đồ: “Mã Tu Viễn, số hiệu 018, quà mừng 8888.”
Ngưu Thản Đồ gật đầu, viết số hiệu “018” ở cột đầu tiên của sổ điểm danh, bên dưới phần tiền quà ghi “8888.”
Có quà mừng sao?
Trần Tông ngạc nhiên.
Nhưng chẳng mấy chốc, lần lượt từng người đến điểm danh và đọc số tiền mừng, đều là những con số đẹp bốn chữ số, hầu như không ai dưới 6666, khiến Trần Tông dù cố giữ vẻ ngoài điềm tĩnh nhưng trong lòng lại cực kỳ vui sướng: một hội thú vị thế này, giá mà có thêm mười người như vậy nữa thì tốt biết mấy.
Trong niềm vui, anh cũng không quên quan sát kỹ từng người. Theo trực giác, anh cảm thấy kẻ muốn giết mình chắc chắn đã bị thương, có lẽ sẽ không lộ diện — điều này sẽ giúp việc điều tra dễ dàng hơn khi chỉ còn những hội viên chưa điểm danh.
Lúc 4 giờ 50 phút, Nhan Như Ngọc đến với một chiếc túi nhỏ trên vai. Ở cùng phòng với nhau nên anh ta chọn mừng 9999, điều này làm Trần Tông có chút áy náy vì sắp sửa gây ra một cú sốc tinh thần không hề nhỏ đối với anh ta.
Lúc 4 giờ 55 phút, Tam Lão lần lượt đến, mỗi người đều mừng mức 18888, ngoài ra còn có hai người khác mừng số tiền này, một là Lương Thế Long (cùng với con gái), và một là hội viên số hiệu 019, nhưng không có mặt, được Lương Thế Long thay mặt gửi quà.
Sau khi Lương Thế Long vào sảnh, Trần Tông lén hỏi Ngưu Thản Đồ: “019 là ai vậy?”
Ngưu Thản Đồ đáp: “Hoan bá, chắc cậu đã gặp rồi đấy, A Hoan, người chỉ thích rượu chứ chẳng cần mạng.”
Trần Tông nhớ lại, đúng là lúc Thọ Gia gặp nạn, người này đã uống say mèm, cùng với vị hội viên nhắm mắt dưỡng thần kia ở hiện trường, không ngờ lại hào phóng như vậy — bởi vị hội viên dưỡng thần kia chỉ mừng có 6666.
Đúng 5 giờ, việc vào hội trường đã hoàn tất.
Trần Tông đứng ở cửa, hít một hơi sâu, rồi đẩy mạnh cánh cửa lớn.
Anh thoáng ngẩn người khi nhìn thấy khung cảnh trước mắt.
Lúc 5 giờ, trời vẫn chưa tối hẳn nhưng bên trong sảnh tiệc đã hoàn toàn chìm trong bóng tối: đèn không bật, rèm cửa lớn kéo kín, cửa sổ nhỏ và cửa thông gió trên cao cũng đều bị che chắn kỹ càng.
Trên sàn hội trường, một vòng tròn lớn đường kính hơn 5 mét được vẽ bằng phấn trắng, trên chu vi vòng tròn là khoảng mười ba chiếc đèn nến, và đây là nguồn sáng duy nhất trong phòng; giữa vòng tròn là một chiếc đệm bằng vải bông, có lẽ là dành cho anh.
Khoảng vài chục chiếc ghế gấp được sắp xếp bao quanh vòng tròn theo kiểu bậc thang, tạo thành ba khu vực: chính diện là ba chiếc ghế của ba vị cao niên, hai bên là các khu vực hình quạt dành cho những người tham dự, giữa mỗi khu đều chừa một lối đi.
Không một ai phát ra tiếng động, khiến cho bầu không khí trong phòng có chút kỳ lạ.
Phúc Bà vẫy tay gọi Trần Tông.
Trần Tông tiến về phía trước.
Khi bước vào vòng tròn lớn, anh mới nhận ra có tất cả 13 chiếc đèn nến, được bố trí chia đều thành 13 phần xung quanh vòng tròn.
Những chiếc đèn nến này khá giống với đèn cung đình cổ, đế đèn là những bức tượng nhỏ hướng mặt vào trong vòng tròn, tuy nhiên, chỉ có một bức tượng là hình người thật sự, còn 12 bức tượng còn lại đều mang những đặc điểm của các loài vật như móng ngựa, móng gà, râu chuột, vảy rồng, v.v. Ngoài ra, tất cả các tượng nhỏ này đều nhắm mắt nhưng lại có một con mắt mở ở giữa trán.
Trên đầu các bức tượng có gắn một cây cọc cao khoảng một mét, trên cùng là chiếc đèn lồng đỏ, bên trong có ngọn lửa, nhìn qua giống như ngọn lửa đang làm nóng một cái đĩa tròn lõm bên trên.
Trần Tông đoán rằng 13 chiếc đèn nến này có liên quan đến 13 hòm đá trấn hội.
Anh dừng lại trước mặt Phúc Bà.
Phúc Bà mỉm cười, giọng không to nhưng dịu dàng, tuy không phải nói cho tất cả nghe, nhưng ai trong phòng đều có thể nghe thấy.
“Trần Tông, chào mừng cậu gia nhập hội. Chắc cậu đã biết sau đây sẽ là lễ định thạch và lễ chọn đá. Trước đó, ta có vài điều muốn nhắc nhở cậu.”
“Trong hội ai cũng muốn nuôi đá, nhưng nếu không thành công cũng chẳng sao, không cần quá để tâm.”
Trần Tông muốn bật cười, cảm giác như nghe lời chào mừng của cô giáo dành cho học sinh mới vào lớp: học tập là quan trọng, nhưng nếu điểm không tốt cũng không sao, điều quan trọng là phát triển toàn diện.
“Từ xưa đến nay có ba dạng người thường đam mê nuôi đá và đá bổ, cũng là những người dễ đạt được hiệu quả kỳ diệu nhất, nhưng chúng ta không phải là những người như vậy và cũng không muốn trở thành người như vậy.”
Căn phòng vẫn im lặng tuyệt đối, Trần Tông cảm thấy tim mình khẽ thót.
“Dạng người thứ nhất là những người mắc bệnh nan y, hy vọng dùng đá bổ để cứu mạng. Thực ra, đá bổ có thể chữa được bệnh nhẹ, nhưng những căn bệnh lớn đến mức trời định là số phận, thì đá bổ cũng chưa chắc có tác dụng. Trừ khi tìm được một viên đá hoàn hảo nhất, thì may ra còn có hiệu quả.”
Trần Tông liếm môi khô, hy vọng Tiêu Giới Tử không thuộc loại này.
“Dạng người thứ hai là những người bị tật nguyền, không thể đi lại bình thường. Những người như vậy, đặc biệt khát khao có thể tự do đi lại, nếu dương gian không làm được, thì có thể đến âm gian, cũng là một niềm an ủi lớn.”
Tiêu Giới Tử vốn khỏe mạnh, không giống loại này, Trần Tông có phần yên tâm hơn nhưng lại cảm thấy hồi hộp hơn.
“Dạng thứ ba, cậu có thể không ngờ đến, là những người đẹp nhưng bị hủy dung. Những ai từng xinh đẹp thì không thể chấp nhận gương mặt biến dạng xấu xí của mình, ở dương gian không có cái đẹp, thậm chí không có hình dáng con người, vì thế họ càng khao khát âm gian, vì nơi đó không còn áp lực về dung nhan hay lo âu gì cả.”
Phúc Bà mỉm cười: “Cậu thấy đấy, cậu trời sinh đã không thể sánh với những người này, nhưng không sánh được cũng là phúc, không cần quá bận tâm. Thôi nào, cậu vào ngồi xuống đi.”
Đầu óc Trần Tông hơi rối bời, nhưng anh vẫn ngoan ngoãn bước đến ngồi xuống tấm đệm, ngồi xếp bằng.
Khi ngồi xuống, anh không hiểu tại sao lại thở dài một tiếng, dừng lại một chút, rồi nhìn quanh một cách mơ hồ.
Anh thấy một vài người đứng lên, lần lượt đổ bột mịn như cát đá vào đĩa nến. Có người khác thì cắm nhang vào tay của tượng đá nhỏ. Loại nhang này không biết được làm từ gì, ngắn thôi, nhưng mỗi cây đều to bằng ngón tay út, hương thơm dịu nhẹ, khói bay nhẹ nhàng và đậm, quẩn quanh tỏa ra bốn phía, chủ yếu trôi về phía trung tâm vòng tròn.
Anh thấy người mù kia, cũng chính là Bế Mục Dưỡng Thần Quân, từ chỗ ngồi đứng dậy, bước vào vòng tròn, tay trái cầm một khối đá chấn bằng dây đỏ, tay phải cầm một thứ... trông giống ống lông vũ?
Anh bất ngờ đoán được, đó là chiếc chuông đá Tứ Tân Phù Thanh – theo truyền thuyết thời thượng cổ, Đại Vũ trong sách Vũ Cống đã chia thiên hạ thành chín châu và liệt kê các loại cống phẩm của từng châu, trong đó có nhắc đến loại đá Tứ Tân Phù Thanh ở Từ Châu. Tương truyền loại đá này nổi trên mặt nước, phát ra âm thanh kim loại, thanh âm thuần khiết và trong trẻo, có độ xuyên thấu cực mạnh. Trong sách Thập Di Ký có ghi: “Đá nổi trên mặt nước, nhẹ tựa bèo cỏ... Chỉ cần lông vũ quét qua là âm vang khắp trăm dặm”.
Anh chưa từng thấy, nhưng "Nhân Thạch Hội" vốn là nơi trưng bày nhiều loại đá kỳ lạ, cất giữ được một chiếc chuông đá Tứ Tân Phù Thanh hiếm có cũng không phải điều kỳ lạ.
Anh nhìn thấy Lương Thiền ngồi giữa đám đông, gương mặt rạng rỡ ánh lên sắc đỏ từ ánh nến, khi bốn mắt chạm nhau, cô mỉm cười và làm động tác cổ vũ cho anh.
Mã Tư Viễn cúi người đi đến, nhét vào tay anh một thứ và nói: “Nắm chặt viên đầu tiên, lát nữa nghe lệnh, họ bảo làm gì thì làm nấy.”
Khi cầm vào, Trần Tông bỗng giật mình, đó là một sợi dây tết từ tóc, và không phải tóc của một người, mà là rất nhiều người. Chỉ cần nhìn sơ qua, anh cũng nhận ra có tóc bạc, tóc đen, tóc lốm đốm hoa râm và cả tóc vàng của trẻ nhỏ.
Mã Tư Viễn nhìn ra vẻ kinh hãi của anh, mỉm cười và nói: “Dây tóc nghìn người, giống như áo vá trăm mảnh vậy. Đây là tóc của các thành viên Nhân Thạch Hội từ ngày thành lập đến nay góp lại, Nhân Thạch Hội mà, tóc nghìn người, đá trăm loại.”
Thì ra, sợi dây tóc này được tết thành từng đoạn, mỗi đoạn lại bọc lấy một viên ngọc. Anh lần theo sợi dây tóc và nắm viên đầu tiên, đó là viên pha lê trong suốt.
Dọc theo dây tóc này, viên đá được tết nối thành một chuỗi dài như thân rắn bò trên đất. Dưới ánh nến, từng viên ngọc lấp lánh những tia sáng dịu nhẹ, có khi sáng ngời màu ngọc trai, có khi ánh lên màu đỏ rực.
Một người bắt đầu hát một điệu nhạc cổ, giọng khàn đục, âm vang dài lâu, khói nhang từ thấp dần dâng lên, lướt qua bề mặt những viên đá.
Tiếng chuông đá vang lên lần đầu, ánh nến bỗng chốc vụt tắt.
Giọng của Phúc Bà vang lên từ trong bóng tối, xuyên qua tiếng nhạc cổ dài đằng đẵng: “Trần Tông, nắm chặt viên đá, nhắm mắt lại.”
Trần Tông làm theo lời.
Viên pha lê trong tay anh mang đến cảm giác mát lạnh, dần dần cảm giác ấy trở thành ấm áp.
Hương nhang và âm điệu cổ xưa như đang làm tê liệt khứu giác và thính giác của anh. Anh không rõ là nhờ môi trường hay nhang có tính an thần, dần dần anh rơi vào trạng thái nửa tỉnh nửa mê.
Mơ hồ, anh nghe thấy tiếng động khe khẽ, như có người đến gần và hỏi anh: “Buồn ngủ chưa?”
Trần Tông lơ mơ đáp: “Buồn ngủ rồi.”
“Ngủ chưa?”
“Chưa.”
Lời vừa dứt, giữa trán anh bị đánh một cái mạnh khiến anh giật mình tỉnh giấc toát mồ hôi lạnh, suy nghĩ đầu tiên hiện lên là: Hỏng rồi, trúng kế rồi! Những người này đã dụ anh vào bẫy, định bao vây tấn công anh!
Anh muốn đứng dậy, nhưng lạ thay, mọi cơ bắp căng cứng không thể cử động. Giây tiếp theo, ý thức của anh như rơi xuống từ vách núi ngàn trượng, sóng nước bủa vây bốn bề.
Lúc này, giọng của Phúc Bà lại vang lên, dường như đến từ cõi xa xôi.
“Giờ có thấy màu gì không?”
Không có màu sắc gì, nến đã tắt, mí mắt phủ xuống, tất cả đều tối đen. Trần Tông mơ màng đáp: “Không có, màu đen.”
Bà Phúc nói: “Kéo dây, đổi viên tiếp theo.”
Lời vừa dứt, tiếng chuông đá lại vang lên, như báo rằng viên đá trên tay vừa rồi đã không có tác dụng.
Trần Tông lần theo sợi dây, kéo dây tóc về phía mình, nhanh chóng chạm đến viên thứ hai, lần này, anh cũng không thấy là loại đá gì, chỉ cảm giác rằng nó vẫn lạnh – đá nào cũng lạnh, chẳng trách người ta nói, lòng người như đá, làm sao sưởi cũng không ấm lên.
Một lúc sau, giọng của Bà Phúc lại vang lên: “Giờ thì sao? Có thấy màu sắc nào khác không?”
Trần Tông lắc đầu: “Không có.”
Vẫn là màu đen, chẳng có gì khác.
“Đổi tiếp, lần lượt sang viên tiếp theo nhé.”
Tiếng chuông đá lại vang lên.
Trần Tông cảm thấy mình như một cỗ máy, ngón tay cứ máy móc lần lượt sờ đến từng viên đá trên sợi dây, không được, lại chuyển sang viên tiếp theo. Lúc đầu, anh còn đếm thầm trong đầu để biết mình đã bỏ qua bao nhiêu viên, nhưng về sau thì đầu óc rối loạn và tê dại, đến mức bất chợt nảy ra một ý nghĩ kỳ quặc: loại đá phù hợp nhất với anh, chẳng lẽ là loại đá mà loài người vẫn chưa tìm ra? Vậy thì dù có lần đến hết sợi dây này, cũng sẽ chẳng có kết quả.
Không biết đã đổi qua bao nhiêu viên, đến cả giọng của bà Phúc cũng có phần mệt mỏi, bỗng Trần Tông khẽ kêu lên một tiếng “Ơ”.
Anh nói: “Trời sắp sáng rồi phải không?”
Phúc Bà không trả lời ngay, một lúc sau mới cẩn trọng hỏi lại: “Giờ màu sắc thế nào, nói thử xem.”
Trần Tông cũng không đáp ngay, cố gắng lựa lời cẩn thận: “Hình như là mặt trời mọc, nhưng không chói mắt lắm, màu vàng nhạt như lòng đỏ trứng... cũng không hẳn. Nói chung, màu sắc rất đậm, rất dịu dàng.”
Phúc Bà không nói gì thêm. Trần Tông siết viên đá trong tay, hơi hoang mang, không hiểu sao bà ấy lại không đưa thêm chỉ dẫn. Đang ngơ ngác thì bất chợt nghe một tiếng “đoong” vang lên, ngay sau đó đèn bừng sáng.
Đó là một tiếng chiêng đồng chuẩn mực, âm thanh vang dội và mạnh mẽ, như sóng âm nổ tung, lập tức tràn ngập khắp căn phòng.
Dù có mơ mơ màng màng đến đâu, Trần Tông cũng bị âm thanh ấy làm cho bừng tỉnh, mắt mở ra nhưng lại bị ánh sáng chói lóa làm phải nheo lại, thoáng thấy phía sau khu vực lễ đài là một khung gỗ lớn sơn đỏ, hình dạng giống khung cửa, tạo thành chữ “冂”, dưới thanh ngang treo một chiếc chiêng đồng to. Chiếc chiêng này rất cũ, nhìn rõ là đồ cổ, giữa chiêng còn sơn đỏ, nổi bật vô cùng.
Sau đó, có người dẫn đầu vỗ tay, tiếng vỗ tay vang lên ầm ầm, hòa lẫn tiếng trò chuyện với đủ thứ giọng khác nhau, tạo thành sự tương phản rõ rệt với sự yên lặng lúc trước.
Mọi người chen chúc tiến về trung tâm, có người đi về phía anh, có người chen lấn để xem mười ba ngọn nến trên giá.
Trần Tông đứng dậy, có chút bối rối, Thọ Gia mỉm cười tiến tới, chỉ vào viên ngọc quý trong tay anh: “Đây là viên đá của cậu, nhớ cho kỹ, đây là ngọc Hoàng Ngọc. Thật trùng hợp, cậu tên là Trần Tông. Càn khôn lễ thiên, hoàng tông lễ địa. Hoàng tông, chính là ngọc vàng quý.”
Hoàng Ngọc, là một trong bốn loại ngọc chính của ngọc Hòa Điền.
Trần Tông còn chưa kịp đáp thì bên một ngọn nến, có người cao giọng hô lên: “Ồ, là sách Nữ Oa! Bao nhiêu đời rồi không xuất hiện sách Nữ Oa, có ai cược được cái này không?”
Bà Phúc cũng đứng ở bên ấy, vẫy tay gọi Trần Tông.
Trên đường bước qua, anh không quên liếc nhìn các mâm nến khác: trước đó, anh thấy có người đổ vụn đá vào giữa mâm, các mảnh vụn đá tụ thành một khối nhỏ, rồi được đốt nóng bởi ngọn lửa bên dưới.
