Chiến Tranh Tiền Tệ - Phần 2 - Chương 10

Chương 10

Trở về tương lai

CHỈ DẪN CHƯƠNG

Trở về tương lai là một bộ phim bom tấn khoa học viễn tưởng kể về cậu học sinh trung học Martin. Trong một lần chạy trốn, Martin tình cờ ngồi vào cỗ máy du hành thời gian do Giáo sư Brown thiết kế, bỗng chốc từ năm 1985 quay ngược về thời điểm 1955. Sau đó là một loạt những câu chuyện lạ lùng và li kì đã xảy ra.

Trong chương này, chúng ta cũng sẽ ngồi lên cỗ máy thời gian, từ năm 2009 để đến với năm 2024, tức là 14 năm sau, lúc này thế giới sẽ xuất hiện Ngân hàng Trung ương thế giới và một loại tiền tệ đơn nhất.

Ý thức về chủ quyền quốc gia và chủ nghĩa dân tộc luôn là kẻ thù nguy hiểm nhất của khái niệm “Chính phủ thế giới” và toàn bộ quan điểm cốt lõi của một loại tiền tệ duy nhất nằm ở việc bãi bỏ chủ quyền tiền tệ. Quyền phân phối tiền tệ hoàn toàn không phải là vấn đề lý thuyết đơn thuần, mà rõ ràng liên quan đến lợi ích. Nếu phát hành tiền tệ không phải là một loại quyền lực, vậy tôi không tưởng tượng nổi rốt cuộc nó còn điều gì đáng bàn.

Nếu nói rằng xu hướng đơn nhất tiền tệ của thế giới là không thể đảo ngược, thì chìa khóa của vấn đề nằm ở chỗ ai sẽ nắm quyền thống trị tiền tệ thế giới. Tiền tệ đồng nghĩa với quyền phân phối của cải xã hội. Đây là phần cốt lõi của bất kỳ quyền lực của quốc gia nào. Việc thực thi một hệ thống tiền tệ đơn nhất chắc chắn sẽ phải yêu cầu các quốc gia có chủ quyền trao nhượng lại quyền phân phối tài sản trong đất nước họ.

Trong cục diện của trò chơi đặt cược lợi ích giữa các tập đoàn quyền lực khổng lồ trên thế giới – nơi mà Trung Quốc vẫn chưa có vị thế như mong muốn, liệu có nên tham gia vào một trò chơi kiểm soát tiền tệ do kẻ khác làm chủ liên quan đến vận mệnh của Trung Quốc trong 50 năm tới? Của cải cũng như tài sản của 1,3 tỷ người dân Trung Quốc cũng có liên quan mật thiết tới vấn đề này. Đây chính là điều quan trọng nhất nhưng lại khó nhận thấy nhất trong tất cả các quyết sách chiến lược của Trung Quốc.

Chi phối hay là bị chi phối, đây chính là một câu hỏi!

NGÀY 1 THÁNG 1 NĂM 2024, LOẠI TIỀN TỆ DUY NHẤT TRÊN THẾ GIỚI CHÍNH THỨC LƯU HÀNH

Kiểm soát tiền tệ là một cuộc đấu tranh lớn giành quyền phân phối tiền nhằm kiểm soát sự giàu có, tài nguyên và toàn nhân loại151

Jack Weatherford, nhà nhân chủng học và sử học tiền tệ nổi tiếng người Mỹ

151 Jack Weatherford, The History of Money, Crown Publishers, 1997.

Vào ngày đầu năm mới 2024, thông tin về việc loại tiền tệ duy nhất trên thế giới đã được Ngân hàng Thế giới tại Basel, Thụy Sĩ chính thức phát hành đã lan tràn trên khắp các bản tin của các hãng thông tấn lớn trên thế giới, dẫn đến một màn “ném bom rải thảm” được tiến hành không bị gián đoạn suốt 24 giờ trên các phương tiện truyền thông đại chúng như internet, tivi, báo đài, tạp chí. Bài xã luận đầu năm mới trên tờ Financial Times của Anh với tiêu đề “Thế giới tiến lên sự thịnh vượng vĩnh cửu” không ngớt lời ca ngợi, “Người dân trên toàn cầu cuối cùng đã hiểu được những lợi ích của loại tiền tệ duy nhất trên thế giới. Theo yêu cầu của họ, chính phủ của các quốc gia chấp nhận từ bỏ chủ quyền tiền tệ đã thực thi từ hàng trăm năm nay. Đây là một khoảnh khắc vĩ đại trong lịch sử nhân loại, điều đó có nghĩa là xã hội loài người đã bước vào một giai đoạn mới của sự thịnh vượng vĩnh viễn.”

Tạp chí The Economist của Anh thì bình luận từ góc độ chuyên môn: “Cùng với việc sử dụng một loại tiền tệ duy nhất trên thế giới, thị trường sẽ không còn phải trao đổi tiền tệ một cách rườm rà hay đối phó với biến động tỷ giá bằng những biện pháp đắt đỏ. Nguy cơ đầu cơ tiền tệ, thất bại tiền tệ và mất cân đối thu - chi sẽ hoàn toàn biến mất. Đồng tiền này sẽ càng trở nên hiệu quả hơn trong việc trao đổi giá trị thực tế, bởi nó không cần xét đến xu hướng chính trị.”

Tạp chí Phố Wall thể hiện “thiện chí” của Hoa Kỳ: “Hoa Kỳ không thể ngăn chặn xu hướng phát triển không thể tránh khỏi của lịch sử. Trên thực tế, việc từ bỏ đồng đô-la và ủng hộ loại tiền tệ duy nhất của thế giới không xóa bỏ lợi ích hợp pháp của Hoa Kỳ, nhưng sẽ làm nổi bật quyền lực và sự tham gia với vai trò chủ đạo của Hoa Kỳ. Đặc biệt, điều quan trọng nhất là sự tối đa hóa lợi ích của Hoa Kỳ lại nằm ở việc loại bỏ đặc quyền tiền tệ và trở về với sự cạnh tranh công bằng. Chỉ như vậy, chúng ta mới có thể phá giải một cách cơ bản lời nguyền ma quái của Triffin152 về số phận trầm luân của đồng đô-la. Với những lợi thế độc nhất của mình, Hoa Kỳ sẽ khôi phục thực lực mạnh mẽ của nền kinh tế trên thị trường, tiếp tục duy trì vị thế là một cường quốc cốt lõi trong trật tự chính trị và kinh tế thế giới và dẫn dắt xu hướng tiến bộ của nhân loại.”

152 Triffin là một nhà kinh tế người Mỹ gốc Bỉ, nổi tiếng với bài phê bình về hệ thống tỷ giá hối đoái cố định của Bretton Woods. (ND)

Trang mạng Sina của Trung Quốc công bố những lời phát biểu đầy hứng khởi của một số nhà kinh tế chính thống: “Với nỗ lực chung của tất cả các quốc gia trên thế giới, cuối cùng chúng ta đã bắt đầu một mùa xuân mới của toàn cầu hóa. Trung Quốc sẽ là quốc gia hưởng lợi lớn nhất trong trật tự tài chính thế giới. Mặc dù, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc phải chịu tổn thất và sự không chắc chắn do đồng đô-la rút khỏi lưu thông, đây là cái giá mà Trung Quốc phải trả để hòa nhập vào xã hội chính thống quốc tế. Về lâu về dài, Trung Quốc vẫn là người chiến thắng trong quá trình toàn cầu hóa.”

Trái ngược hoàn toàn với thái độ ủng hộ một chiều của truyền thông quốc tế, Hoa Kỳ đã có các cuộc biểu tình thị uy chống toàn cầu hóa nghiêm trọng nhất kể từ thế kỷ XXI. Dưới tác động của suy thoái kinh tế dài hạn, tỷ lệ thất nghiệp ở Hoa Kỳ đã lên tới 15%. Một lượng lớn người Mỹ bị mất tất cả tài sản và trợ cấp y tế. Họ bừng bừng nổi giận. Sự bất mãn với Chính phủ đã đạt đến đỉnh điểm. Ở New York và Philadelphia diễn ra các cuộc biểu tình rầm rộ, hàng triệu người phản đối chấm dứt lưu thông đồng đô-la. Họ mặc nhiều loại trang phục, hóa trang thành đồng đô-la và tụ tập quanh Chuông Tự do – đại diện cho tinh thần cách mạng của Mỹ. Hàng trăm ngàn người đồng thanh hát bài The Stars and Stripes Forever153. Những người biểu tình liên tục đọc Tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp Hoa Kỳ. Họ quyết tâm thề chết bảo vệ đồng đô-la và phản đối việc Ngân hàng Thế giới có quyền đứng trên và ra lệnh cho Quốc hội Hoa Kỳ.

153 Một bài ca yêu nước do nhạc sĩ John Philip Sousa sáng tác. Theo một đạo luật năm 1987 được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua, bài hát này được coi là quốc ca thứ hai của Hoa Kỳ. (ND)

Trên bãi cỏ rộng lớn của Đài tưởng niệm Washington, 500.000 người biểu tình từ khu vực phía đông liên tục thét lớn khẩu hiệu “Nhà Trắng phản bội Hoa Kỳ”, cùng những băng rôn “Hãy chấm dứt sự phản bội”, “Treo cổ tất cả những kẻ phản bội”, “Ném tiền tệ thế giới xuống địa ngục đi”, “Bảo vệ Hiến pháp” bao kín khu phố số 7 đến số 14 của Đại lộ Pennsylvania. Trên đồi Capitol Hill, màn tranh cãi dữ dội của các nhà lập pháp vẫn đang tiếp diễn, một cuộc xung đột xảy ra giữa lực lượng cảnh sát và những người biểu tình trước Đài tưởng niệm Lincoln, đã có thương vong. Giao thông trên đường Vành đai 495 hoàn toàn tê liệt và con đường 8 làn xe này trở thành đại bản doanh của những người biểu tình. Tòa nhà của Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế bị uy hiếp bằng lựu đạn. Các tổ chức cánh hữu như Hiệp hội Súng trường Quốc gia (NRA) của Mỹ bí mật kết hợp với nhau, lên kế hoạch cho một cuộc vũ trang nổi dậy nhằm lật đổ Chính phủ phản bội Hoa Kỳ. Các tướng lĩnh quân đội đã tập hợp trong bí mật và vạch ra kế hoạch hành động cho một cuộc đảo chính.

Paris, Pháp rơi vào tình trạng vô chính phủ, các ngân hàng bị đập phá, các cửa hàng bị cướp bóc, hàng loạt xe hơi bị đốt cháy, giao thông công cộng tê liệt và các cuộc đình công quy mô lớn khiến chính quyền Paris phải tuyên bố sử dụng thiết quân luật. Các cuộc biểu tình ở London dần phát triển thành bạo loạn. Thành phố tài chính của Vương quốc Anh gần như là một thành phố chết, các tổ chức tài chính lớn lần lượt tuyên bố cho tất cả nhân viên nghỉ phép không lương, và quân đội đã tiến vào thành phố để duy trì trật tự. Các thành phố như Berlin, Frankfurt, Rome, Vienna, Moscow, Tokyo và Seoul cũng bị ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau.

Những người theo chủ nghĩa quốc tế rõ ràng đã đánh giá thấp quyết tâm và sức mạnh của các phần tử theo chủ nghĩa dân tộc. Sự trỗi dậy của Internet đã phá vỡ thế độc tôn của các kênh thông tin truyền thông và chính thống. Ngày càng có nhiều người trong cộng đồng bắt đầu nhận ra sự mất quyền phân phối tiền tệ của đất nước đồng nghĩa với việc họ sẽ trở thành nô lệ. Theo hệ thống dân chủ, tổng tuyển cử là một trong những phương tiện hữu hiệu để công chúng tạo ra sức ảnh hưởng đối với các nhà lãnh đạo chính trị. Ở bình diện quốc gia, quyền phân phối các loại tiền tệ có chủ quyền vẫn có liên quan đến cử tri. Tuy nhiên, nếu mọi loại tiền tệ chủ quyền bị bãi bỏ, Ngân hàng Thế giới sẽ trở thành một con siêu quái vật tài chính, đứng trên tất thảy các chính phủ được bầu. Nó độc lập với chính phủ, không bị giám sát, không được bầu và không có thủ tục dân chủ nào có thể hạn chế một cách hiệu quả.

Việc phát hành một loại tiền tệ duy nhất trên thế giới sẽ là một dấu mốc lịch sử nhân loại, trong đó quyền lực tài chính đạt đến đỉnh cao chói lọi. Đây không phải là sự “tình cờ” hay “ngẫu nhiên”. Nó thậm chí còn có một thời gian biểu chính xác. Một tổ chức có tên gọi “Hiệp hội Tiền tệ Đơn nhất cho Thế giới” đã lên kế hoạch như sau:

“Lịch trình đến năm 2024. Theo chiến lược của chủ nghĩa hiện thực, đảm bảo tiến độ phát hành loại tiền tệ duy nhất trên thế giới năm 2024. Khi Giáo sư Richard Cooper đề xuất xây dựng một liên minh tiền tệ giữa các quốc gia công nghiệp hóa vào năm 1984, ông đã thiết kế một thời gian biểu kéo dài 25 năm, và thời gian biểu này sẽ đưa chúng ta đến năm 2009.”154

154 Cooper Richard N., “Is there a Need for Reform?”, Speech at a Federal Reserve Bank of Boston conference, May 1984.

2009

Thành viên mới của Eurozone: Slovakia

Năm quốc gia trong khu vực tiền tệ Tây Phi: Ghana, Nigeria, Sierra Leone, Gambia, Guinea, sử dụng tiền tệ chung: ECO

2010

Kế hoạch quốc gia của Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh (GCC) ra mắt một loại tiền tệ chung mới với các thành viên bao gồm: Barings, Kuwait, Oman, Qatar, Ả Rập Xê Út, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất

2011

Bài viết của Mundell “Lý thuyết khu vực tiền tệ tối ưu” trong Lễ kỷ niệm 50 năm của Tuần báo kinh tế Mỹ

2012

Thành viên mới của Eurozone: Estonia tham gia

• Năm quốc gia Đông Phi phát hành loại tiền tệ chung: Burundi, Kenya, Uganda, Tanzania, Rwanda

• Hội nghị quốc tế về sự chuẩn bị của Liên minh Tiền tệ Toàn cầu

2013

• Thành viên mới của Eurozone: Latvia, Litva, Bulgaria

• Thành viên mới của Eurozone: Cộng hòa Séc, Ba Lan

2014

Thành viên mới của Eurozone: Hungary

2015

Thành viên mới của Eurozone: Romania

2016

Hình thành liên minh tiền tệ của 14 quốc gia Nam Phi (SADC) bao gồm: Angola, Botswana, Congo, Lesentine, Madagascar, Malawi, Mauritius, Mozambique, Namibia, Nam Phi, Swiszeland, Tanzania, Zambia và Zimbabwe

2017

Bình chọn tên của loại tiền tệ toàn cầu trên toàn thế giới (đồng euro được đặt tên vào năm 1995 và thực thi bốn năm sau đó)

2018

Các nhà kinh tế học dự đoán việc thực hiện đơn nhất hóa tiền tệ thế giới, ít nhất là ở hầu hết các quốc gia công nghiệp. Năm 1988, các nhà kinh tế học dự đoán loại tiền tệ duy nhất của thế giới sẽ được thực hiện sau 30 năm.

2020

Ngày 1 tháng 6: thành lập Ngân hàng Trung ương Thế giới, áp dụng một phần hoặc toàn bộ mô hình của Quỹ Tiền tệ Quốc tế hoặc Ngân hàng Thế giới.

2021

Ngày 1 tháng 1: Tiền tệ thế giới mới đã sẵn sàng cho giao dịch điện tử

• Liên minh châu Phi, thành lập năm 2021, đặt mục tiêu thành lập một liên minh tiền tệ châu Phi.

2024

Ngày 1 tháng 1: Xử lý giao dịch trên toàn thế giới thông qua một loại tiền tệ thế giới mới

• Ngày 1 tháng 5: Tất cả các loại tiền tệ cũ sẽ không còn hiệu lực, tuy nhiên vẫn có thể đổi thành loại tiền tệ thế giới mới tại ngân hàng được chỉ định của quốc gia thành viên. Rủi ro tiền tệ kết thúc và giá trị tài sản tiếp tục tăng.

ĐƠN VỊ TIỀN TỆ: KẺ HỦY DIỆT LỊCH SỬ

Chúng ta mong muốn rằng tại thời điểm khủng hoảng như hiện nay, sẽ có một chính sách có thể thúc đẩy tiền tệ thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại là thời cơ duy nhất có thể giúp chúng ta làm được điều đó, bởi vì chỉ khi xảy ra khủng hoảng, bạn mới có thể làm những việc như thế này155

Mundell – Cha đẻ của đồng Euro ngày 13 tháng 11 năm 2008

Nền kinh tế toàn cầu cần một loại tiền tệ toàn cầu156

Paul Volcker – cựu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang

Kiểm soát tiền và tín dụng có thể đánh thẳng vào trái tim của chủ quyền quốc gia157

Alden W. Clausen – Chủ tịch Ngân hàng Hoa Kỳ, Chủ tịch Ngân hàng Thế giới

Một khi hệ thống tiền tệ và tín dụng của một quốc gia bị kiểm soát một phần, thì không thể biết ai là người đang thiết lập nên hệ thống pháp luật của quốc gia đó158

W. L. Mackenzie King – cựu Thủ tướng Canada

155 “Mundell: Vấn đề thúc đẩy tiền tệ thế giới chỉ có thể được thực hiện trong thời kỳ khủng hoảng”, Nhật báo tài chính số 1.

156 Morrison Bonpasse, The Single Global Currency, Single Global Currency Association, 2006.

157 Alden W. Clausen, “International Banking”, an interview with the Freeman Digest, 1979.

158 Mackenzie King, William Lyon, in a radio address, August 2, 1935. Quote printed in Walter Stewart’s book, Bank Heist.

Trên thế giới luôn có một số người thông minh nhìn thấu quy luật của trò chơi kim tiền. Kiyosaki – tác giả của cuốn Cha giàu, cha nghèo là một trong số đó. Ngay khi cơn sóng thần tài chính bùng phát năm 2008, ông đã đề cập trong một bài báo vào ngày 24 tháng 11 như sau: “Năm 1910, bảy người đã tổ chức một cuộc họp bí mật trên đảo Jekyll gần bờ biển Georgia. Người ta ước tính rằng họ sở hữu tới 1/6 tổng tài sản của thế giới. Sáu người trong số họ đại diện cho Morgan, Rockefeller và Chính phủ Hoa Kỳ. Người còn lại đến từ châu Âu, đại diện cho Rothschild và Warburg. Năm 1913, Cục Dự trữ Liên bang được thành lập là kết quả trực tiếp của cuộc họp bí mật này. Điều thú vị là, Cục Dự trữ Liên bang không trực thuộc liên bang, không có dự trữ, cũng chẳng phải là ngân hàng. FED kiểm soát hệ thống ngân hàng và cung ứng tiền tệ của Hoa Kỳ. Năm 1944 hệ thống Bretton Woods thúc đẩy việc thành lập Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới để kiểm soát hệ thống ngân hàng và cung ứng tiền tệ trên thế giới, giống như Cục Dự trữ Liên bang làm với Hoa Kỳ. Năm 1971, Tổng thống Nixon tuyên bố rằng ông sẽ dỡ bỏ mối liên kết giữa đồng đô-la và vàng, điều đó có nghĩa là bước đầu tiên trong việc kiểm soát hệ thống tài chính thế giới đã hoàn tất. Năm 2008, nền kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng, những người giàu càng trở nên giàu hơn, nhưng hầu hết người nghèo sẽ ngày càng nghèo hơn. Sự xuất hiện của cuộc khủng hoảng này bắt nguồn trực tiếp từ cuộc họp bí mật diễn ra vài thập kỷ trước đó. Nói cách khác, một phần rất lớn của khủng hoảng tài chính đã được lên kế hoạch từ lâu.”159

159 Kiyosaki Robert, How the Financial Crisis Was Built Into the System, Yahoo Finance, November 24, 2008.

Liệu thế giới có cần đến một ngân hàng trung ương toàn cầu? Nếu muốn có một hệ thống tiền tệ thế giới duy nhất, nó sẽ cần đến một chính sách tiền tệ có quy mô vô tiền khoáng hậu để trang bị cho hệ thống tài chính quốc tế. Về bản chất, một loại tiền tệ toàn cầu duy nhất sẽ khiến cho quyền lực của một ngân hàng vượt qua mọi quốc gia, chủng tộc và ngôn ngữ. Năm 1994, cựu Nghị sĩ Canada – Paul Hellyer nhận xét về đồng tiền chung của thế giới: “Trong một hệ thống tiền tệ, ngân hàng mang tính toàn cầu như vậy, lợi ích của công dân và các quốc gia riêng lẻ chỉ có thể đi theo lợi ích của hệ thống tài chính quốc tế... Các quốc gia sẽ không còn có thể xây dựng bất kỳ chính sách độc lập nào.”160 Hệ thống tài chính hùng mạnh nhất và đứng trên tất cả các quốc gia có chủ quyền này sẽ được vận hành bởi một tập đoàn quyền lực mang tầm thế giới – những người không cần phải chịu trách nhiệm với bất kỳ ai.

160 Hellyer, Paul, Funny Money, Chimo Media, 1994.

Để thực hiện kế hoạch lớn như vậy không thể chỉ trong ngày một ngày hai. Nó cần có sự chuẩn bị, tích lũy, lập kế hoạch và nghiên cứu lý luận dài hạn, sau đó chờ đợi thời điểm thích hợp để khởi động. Việc lựa chọn thời điểm chín muồi là quan trọng nhất, đề xuất quá sớm hay quá muộn đều sẽ gây ra những hậu quả khó lường. Các cuộc thảo luận lý thuyết về hệ thống tiền tệ duy nhất của thế giới bước vào giai đoạn chuyên sâu vào đầu những năm 60 của thế kỷ XX. Trong số đó, một số nhận xét quan trọng về loại tiền tệ duy nhất trên thế giới có mối tương quan rõ ràng với nhau.

Chuyên gia kinh tế cao cấp, phát biểu tại hội nghị thường niên của Ngân hàng Thế giới:

1969: “Hãy để tôi chuyển từ những lời phản đối theo kiểu ‘bới lông tìm vết’ sang thành một số thảo luận tích cực hơn. Ngoài ra, xin bắt đầu với việc đánh giá những điều tốt nhất và tệ nhất của một hệ thống tiền tệ quốc tế. Theo đánh giá của tôi, hệ thống tiền tệ tốt nhất sở hữu loại tiền tệ duy nhất có quyền lực tài chính trên thế giới.”161

Charles P. Kindleberger – Giáo sư kinh tế Viện Công nghệ Massachusetts, phát biểu tại cuộc họp Cục Dự trữ Liên bang tại Boston

161 Kindleberger Charles P., speaking at a Federal Reserve conference. The International Adjustment Mechanism, Federal Reserve Bank of Boston, 1969, Conference Series 2.

1984: “Tôi đề xuất một giải pháp thay thế triệt để cho thế kỷ tới: Tất cả các nền dân chủ công nghiệp đều thiết lập một loại tiền tệ duy nhất dựa trên chính sách tiền tệ chung và thành lập ngân hàng phát hành tiền tệ chung để xác định chính sách tiền tệ... Trong ngắn hạn, đề xuất này thực sự quá cực đoan, nhưng nó có thể cung cấp một tầm nhìn hay mục tiêu hướng dẫn các bước đi trong tương lai...”

Richard Cooper – Giáo sư tại Đại học Harvard, phát biểu tại cuộc họp của Cục Dự trữ Liên bang tại Boston

1998: “Tốc độ chuyển đổi sang một loại tiền tệ duy nhất trên thế giới có thể khiến nhiều người kinh ngạc. Thế giới có thể tiến hóa từ hơn 200 loại tiền tệ ngày nay thành chỉ một loại tiền tệ trong vòng 10 năm (2008), ngoài ra 25 năm nữa kể từ hôm nay (2023), các nhà sử học sẽ tự hỏi tại sao phải mất quá nhiều thời gian để xóa hệ thống tiền tệ đã tồn tại trong suốt 20 thế kỷ.”162

Bryan Taylor – Chuyên gia kinh tế Công ty Dữ liệu Tài chính Toàn cầu

162 Morrison Bonpasse, The Single Global Currency, Single Global Currency Association, 2006.

(Nói ra điều này cách đây hơn một thập kỷ, cho thấy trình độ của Bryan Taylor rất đáng nể. Nếu nói rằng ông là một nhà tiên tri, chi bằng gọi ông là một người lập kế hoạch thì chính xác hơn.)

2001: “25 năm trước, khi thành lập VISA, những người sáng lập đã nhìn thế giới như một hệ thống cần đến một loại tiền tệ duy nhất để trao đổi. Mọi thứ chúng tôi làm đều dựa trên tầm nhìn toàn cầu, chúng tôi đã và đang nỗ lực để từng bước đạt được khát vọng mang tính toàn cầu của mình.”

Sarah Perry – Trưởng phòng Hoạch định Chiến lược, VISA

2004: “Nếu trong những thập kỷ tới, nền kinh tế thị trường toàn cầu có những bước phát triển bùng nổ, vậy thì sự xuất hiện của một loại tiền tệ mang tính toàn cầu có vẻ rất logic.”163

Martin Wolf – Nhà bình luận kinh tế Financial Times

163 Wolf Martin, Financial Times, August 3, 2004.

Ngày 5 tháng 1 năm 2007, Ben Steyr – Giám đốc Sở Kinh tế Quốc tế Hiệp hội Đối ngoại Hoa Kỳ, đã viết bài báo “Khiếm khuyết của hệ thống vàng và tiền tệ kỹ thuật số” trên tờ Financial Times, so sánh những mặt lợi - hại của tỷ giá hối đoái thả nổi và cố định. Ông nhiều lần nhấn mạnh rằng hệ thống tiền tệ thế giới ngày nay là mắt xích yếu nhất trong quá trình toàn cầu hóa. Cách giải quyết là một lần nữa tiến hành tiền tệ hóa đối với vàng, sử dụng “vàng điện tử” làm phương tiện thanh toán trong điều kiện công nghệ hiện đại. Kết luận của ông là: “Hệ thống tiền tệ vàng kỹ thuật số nghe có vẻ cực đoan và rất khó đạt được, nhưng việc tiến hành điện tử hóa với hệ thống tiền tệ bằng vàng mà con người sử dụng trong thực tiễn suốt 2500 năm. Cuối cùng sẽ chứng minh rằng hệ thống tiền tệ này có tính bền vững hơn hẳn so với những loại tiền tệ chủ quyền mới trải qua 35 năm ngắn ngủi của giai đoạn thử nghiệm.”164

164 Steil Benn, “Digital gold and a flawed global order,” Financial Times, January 5, 2007.

Ngày 9 tháng 5 năm 2007, Tạp chí Foreign Affairs – cơ quan truyền thông của Hiệp hội Đối ngoại Hoa Kỳ đã đăng bài viết của Ben Steyr, “Sự kết thúc của những loại tiền tệ chủ quyền quốc gia”. Steyr đã chỉ ra rằng: “Để thực hiện quá trình toàn cầu hóa một cách an toàn, các quốc gia nên từ bỏ chủ nghĩa tiền tệ quốc gia và xóa bỏ các loại tiền tệ không cần thiết, bởi vì chúng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến nhiều bất ổn hiện nay.” Theo quan điểm của Steyr, nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng hỗn loạn tài chính thế giới hiện nay là sự phiền hà của các loại “tiền tệ có chủ quyền”. Ông nói: “Tại sao các cuộc khủng hoảng tiền tệ lại trở nên nghiêm trọng trong những thập kỷ gần đây? Từ năm 1971, Tổng thống Nixon chính thức tách đồng đô-la ra khỏi vàng, và dòng tiền tệ chảy trên thế giới không còn quyền đòi hỏi với bất cứ sản phẩm thực chất nào. Các loại tiền tệ trên thế giới hiện giờ chỉ là những biểu tượng chủ quyền thuần túy, tạo ra từ những chính sách ma thuật của chính phủ... Cái giá của câu chuyện thần thoại liên kết tiền tệ với chủ quyền là rất lớn, thậm chí đôi khi còn nguy hiểm. Chủ nghĩa tiền tệ quốc gia với quá trình toàn cầu hóa không thể tồn tại chung với nhau, xung khắc như lửa và nước.” Có thể khẳng định rằng, Steyr sẽ giới thiệu khái niệm về loại tiền tệ duy nhất trên thế giới, vì vậy các loại tiền tệ có chủ quyền phải bị loại bỏ. Steyr chỉ ra thêm: “Không còn nghi ngờ gì nữa, trong vài thập kỷ qua, đồng đô-la đã trở thành một loại tiền tệ toàn cầu. Các quốc gia trên thế giới nắm giữ đồng đô-la để giao dịch ở nhiều thị trường khác nhau, đặc biệt là dầu mỏ. Vị thế đặc quyền của đồng đô-la ngày nay không phải do Chúa ban tặng, ban đầu nó cũng được hỗ trợ bởi một loại tiền tệ đáng tin cậy khác (vàng). Người khác sẵn sàng chấp nhận đồng đô-la vì họ tin rằng những gì họ mua trong quá khứ có thể đổi lấy hàng hóa tương đương trong tương lai. Điều đó gây ra một gánh nặng rất lớn cho Chính phủ Mỹ để đảm bảo cho sự ‘đáng tin cậy’. Thật không may, các tổ chức tiền tệ không thể gánh vác được trọng trách này. Chính sách tài khóa thiếu thận trọng của Mỹ đang làm suy yếu địa vị tiền tệ toàn cầu của đồng đô-la.”165

165 Benn Steil, “The End of National Currency”, Foreign Affairs, May/June 2007.

Giải pháp được đề xuất bởi ông Steyr là gì? Đó là việc tiền tệ hóa đối với vàng, và sử dụng một loại tiền tệ duy nhất trên thế giới. Ông nói: “Các ngân hàng vàng tư nhân đã tồn tại, để chủ tài khoản có thể sử dụng vàng miếng như một loại cổ phiếu thanh toán quốc tế. Mặc dù, hiện tại ngân hàng vàng vẫn chỉ là một loại hình kinh doanh nhỏ, nhưng sự suy yếu của đồng đô-la, trong những năm gần đây, nó đã phát triển đáng kể. Nếu bạn nói về một hệ thống tiền tệ quốc tế mới dựa trên vàng, chắc chắn nghe có vẻ kỳ quặc. Nhưng vào năm 1900, một hệ thống tiền tệ không có vàng cũng giống như vậy. Công nghệ hiện đại đã khiến cho việc khôi phục tiền vàng thông qua các ngân hàng vàng tư nhân trở nên khả thi, chúng ta hoàn toàn có thể khôi phục lại tiền vàng, ngay cả khi không có sự hỗ trợ của chính phủ.” Đoạn này chính là phần “vẽ rồng điểm mắt” và cũng là trọng tâm của bài viết. Nói cách khác, ngay cả khi không có sự hỗ trợ của các chính phủ, chúng ta vẫn phải loại bỏ các loại tiền tệ có chủ quyền và thực hiện một loại tiền tệ duy nhất trên thế giới với vàng là trung tâm!

Có thể thấy rõ rằng, giá trị quan của Steyr, Greenspan đối với tiền vàng là hết sức nhất quán, bắt nguồn từ rất nhiều gia tộc ngân hàng ở lục địa già châu Âu. Đặc biệt là khái niệm tài chính của gia tộc Rothschild lại hoàn toàn trái ngược với quan điểm tiền tệ của tập đoàn quyền lực mới nổi Mỹ. Thủ đoạn chính mà gia tộc Rothschild dùng để đánh bại đối thủ trong 200 năm qua là “thiết lập sẵn những điều kiện để đối thủ không thể thắng”. Có hai tập đoàn quyền lực lớn nhất trong lĩnh vực tài chính thế giới ngày nay, là tập đoàn quyền lực theo “phe bảo vệ môi trường vàng” có gia tộc Rothschild là nòng cốt và tập đoàn quyền lực theo phe “chiến tranh dầu mỏ” với Rockefeller là thủ lĩnh. Hai bên đều có cùng một chiến lược, đó là kiểm soát tiền tệ duy nhất của thế giới trong tương lai, nhưng họ lại có sự khác biệt lớn về mức độ lợi ích và khái niệm tiền tệ.

“Phe bảo vệ môi trường vàng” chú ý nhiều hơn đến các thuộc tính đạo đức của tiền tệ, nhấn mạnh sự công bằng, hợp lý vốn có của nó và đề cao đạo đức. Họ tin rằng hệ thống tiền tệ thế giới trong tương lai phải bao gồm hai yếu tố cơ bản là vàng và môi trường có tính trung thực và linh hoạt. “Phe chiến tranh dầu mỏ” thì coi trọng các yếu tố bạo lực đằng sau tiền tệ. Họ tin rằng miễn là họ kiểm soát nguồn cung dầu ở Trung Đông, thì họ không sợ các thế lực khác không chịu cúi đầu. Cùng với lực lượng quân đội mạnh mẽ và khả năng răn đe chiến tranh, trên thế giới này sẽ chẳng ai dám tùy tiện từ chối đồng đô-la Mỹ.

Ngay cả khi đồng đô-la bị bãi bỏ và các khoản nợ bằng đồng đô-la bị “xù” mất, tiền tệ thế giới mới cũng sẽ là một loại “tín dụng” có thể bị thao túng tùy ý dưới lưỡi lê bén sắc. Màn tỉ thí giữa hai tập đoàn quyền lực khổng lồ này phản ánh qua màn tỉ thí ở cấp độ quốc tế giữa Hoa Kỳ và các quốc gia thuộc lục địa già châu Âu, hay cuộc đối đầu giữa đồng đô-la và đồng euro. Trong hoạt động chính trị đối nội của Hoa Kỳ, nó lại được phản ánh qua sự giằng co giữa Đảng Dân chủ (chủ trương bảo vệ môi trường) và Đảng Cộng hòa (chủ trương chiến tranh dầu mỏ).

Làm thế nào để lợi dụng màn đấu đá giữa hai phe, để từ đó tối đa hóa lợi ích chiến lược của Trung Quốc? Đây sẽ là một câu hỏi lớn đối với trí tuệ ngoại giao của quốc gia này.

Ngày 7 tháng 1 năm 2008, tờ Financial Times của Anh đã đăng tải bài viết “Vàng là một loại tiền tệ toàn cầu mới” của một nhà bình luận. Đây là bài viết thẳng thắn nhất kêu gọi tiến hành tiền tệ hóa đối với vàng trên các phương tiện truyền thông chính thống ở châu Âu và Hoa Kỳ trong những năm gần đây. Tác giả tin rằng giá vàng tăng mạnh trong thời gian gần đây phản ánh sự lo lắng của các nhà đầu tư về tình hình tài chính quốc tế hiện nay. Một khi vàng trở thành một loại tiền tệ, nó sẽ không chỉ tăng giá so với đồng đô-la, mà còn tăng giá so với bảng Anh và đồng euro. “Đối với vàng mà nói, một quan điểm tốt hơn có lẽ là thay đổi nhận thức đối với vàng của các ngân hàng trung ương trước khi Mỹ từ bỏ kim bản vị, nghĩa là vàng không phải là một loại hàng hóa, mà là một loại tiền tệ khác.”

Nếu chúng ta hiểu rằng kể từ thời đại của xã hội Rhodes, Tập đoàn quyền lực Anglo-America đã áp dụng những thủ đoạn thao túng hết sức khéo léo của truyền thông và chương trình nghị sự công cộng, họ sẽ không dễ dàng bỏ qua các cơ quan ngôn luận như Foreign Affairs, The Economist, Financial Times tầng lớp tinh anh của thế giới kiểm soát; những “ý kiến cá nhân” của những nhân vật có tiếng trong xã hội như Ben Steyr. Bởi vì đó không phải là một tuyên bố cá nhân đơn thuần, nó là một biển chỉ báo quan trọng về ý chí của nhóm lợi ích, một mắt xích trong chiến dịch truyền thông đã được lên kế hoạch chu đáo. Nếu không nằm ngoài dự đoán, khi cuộc khủng hoảng ngày càng trở nên sâu rộng, thì sẽ có ngày càng nhiều các nhân vật trên thị trường và giới truyền thông phương Tây “không hẹn mà gặp” cùng nhau bày tỏ sự hứng thú đối với vàng. Cuối cùng, giá vàng tăng vọt sẽ trở thành tiếng chuông báo hiệu cho một “cú đâm” chí mạng đối với hệ thống đồng đô-la.

Kể từ khi kết thúc cuộc họp Bilderberg ngày 17 tháng 5 năm 2009, Rothschild, George Soros và những người khác ngay lập tức cảnh báo rằng cuộc khủng hoảng sắp tới là một cuộc khủng hoảng tiền tệ và họ không hề nói đùa. Một cuộc khủng hoảng tiền tệ nghiêm trọng xuất phát từ đồng đô-la. Nó đang tạo ra hai tác dụng chính. Một là giúp Hoa Kỳ thực hiện một cuộc “xù nợ” triệt để. Hai là làm rúng động hệ thống tiền tệ thế giới hiện có, tạo ra thanh thế cho một tiền tệ duy nhất của thế giới. Điều này rất có nét tương đồng với sự kiện cuộc khủng hoảng năm 1907 dẫn đến việc thành lập Cục Dự trữ Liên bang năm 1913. Mọi người sẽ thấy rằng nếu không có Ngân hàng Trung ương Thế giới và một loại tiền tệ thế giới thống nhất thì nền kinh tế thế giới dễ bị tổn thương như thế nào.

CUỘC KHỦNG HOẢNG ĐẾN RẤT ĐÚNG LÚC

Cải cách tiền tệ quốc tế thường chỉ có thể xảy ra khi chúng ta đối mặt với mối đe dọa của một cuộc khủng hoảng toàn cầu.” Nhân vật đoạt giải Nobel này cũng chỉ tay về phía một yếu tố có thể là tác nhân gây ra khủng hoảng. Ông nói rằng “cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nhất định sẽ liên quan đến đồng đô-la”, và một loại tiền tệ thống nhất thế giới “tình cờ” bắt nguồn từ thảm họa đô-la toàn cầu166

166 Mundell Robert, “A Decade Later: Asia New Responsibilities in the International Monetary System,” presentation given in Seoul, South Korea, May, 2-3, 2007.

Mundell – Cha đẻ của đồng Euro, tháng 5 năm 2007

Trong toàn bộ sự nghiệp của mình, tôi chưa bao giờ thấy chỉ trong vòng 6 - 7 năm mà một lý thuyết (tiền tệ) lại bị bóp méo bởi Ngân hàng Trung ương (Cục Dự trữ Liên bang) như vậy. Từ khái niệm ‘nền kinh tế mới’ cuối những năm 90 của thế kỷ XX cho đến đề xuất điều chỉnh lý luận mới đối với tài khoản vãng lai, Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ đã và đang dẫn đầu một nỗ lực nhằm viết lại kiến thức về ngành kinh tế học vĩ mô truyền thống, cố gắng thuyết phục những người tham gia thị trường gật đầu chấp nhận những lý thuyết ‘sửa đổi’ này... Cá nhân tôi chưa bao giờ là người tin theo thuyết âm mưu, nhưng khi chứng kiến những gì Cục Dự trữ Liên bang đã làm từ cuối những năm 1990, tôi phải thay đổi suy nghĩ của mình167

167 Roach Stephen, Original Sin, Global Economic Forum in Tokyo, April 25 2005.

Stephen Roach – Nhà kinh tế học Ngân hàng Morgan Stanley, ngày 25 tháng 4 năm 2005

Lưu ý rằng bài phát biểu của Mundell được công bố vào tháng 5 năm 2007, ba tháng trước khi cuộc khủng hoảng thế chấp dưới chuẩn của Mỹ bùng nổ. Hai năm trước khi cuộc khủng hoảng nổ ra, tháng 4 năm 2005, trong bài viết Tội nguyên tổ, Stephen Roach đã mô tả cực kỳ rõ ràng nguyên nhân hình thành và quá trình phát triển của cuộc khủng hoảng tài chính! Luận điểm của những người cho rằng sự bùng nổ của cuộc khủng hoảng tài chính là “không có dấu hiệu báo trước” hoặc “thế giới không được chuẩn bị” là không vững chắc. “Hậu cung” của Cục Dự trữ Liên bang có tận “3.000 giai nhân mỹ nữ” là những học giả kinh tế trứ danh cùng khả năng thống kê dữ liệu toàn diện nhất, và Greenspan – “chưởng môn” của họ là một thiên tài về dữ liệu và mô hình. Nếu nói rằng đến tận năm 2006 mà ông ấy vẫn không hề có dự cảm về một cuộc khủng hoảng sắp xảy ra, dù thế nào cũng không thể tin được.

Kinh nghiệm lịch sử cho thấy khủng hoảng là cơ hội để thực hiện những cải cách lớn, như ông trùm tài chính Alden Clausen từng nói: “Hệ thống chính trị và kinh tế toàn diện liên chủng tộc mới luôn xuất phát từ sự chinh phục hoặc khủng hoảng chung.”

Trong khi đó, ngài Steyr đưa ra một phương án giải quyết theo “chủ nghĩa vị tha”. Để tránh sự xuất hiện của khủng hoảng, điều mà tất cả các quốc gia phải làm là từ bỏ chủ quyền tiền tệ trước khi vấn đề trở nên không thể khắc phục nổi. Các chính phủ phải thoát ra khỏi khái niệm chủ quyền mang tính chí mạng: Độc lập dân tộc là được quyền ban hành và kiểm soát trên lãnh thổ của chính mình. Tiền tệ quốc gia và thị trường toàn cầu không thể trộn lẫn với nhau, nếu không nó sẽ dẫn đến một cuộc khủng hoảng tiền tệ chết người và tình hình chính trị căng thẳng. Các quốc gia sử dụng nó như một cái cớ cho chủ nghĩa bảo hộ mang tính phá hoại. Cứ đợi mà xem, “lời tiên tri” sẽ “tự nó hoàn thành”.

Vậy chúng ta nên xóa bỏ chủ quyền tiền tệ như thế nào? Steyr thẳng thắn nói rằng thế giới cần tái tổ chức thành ba loại tiền tệ theo khu vực: đồng đô-la, đồng euro và một loại tiền tệ châu Á mới. Đề xuất này rõ ràng có tính tương hợp với công việc của Robert Mundell – người đã chu du khắp thế giới để thuyết giảng về một đơn vị tiền tệ quốc tế mới dựa trên đồng đô-la, euro và yên Nhật. Theo kế hoạch của Mundell, trên cơ sở ba loại tiền tệ này sẽ hình thành một “đơn vị tiền tệ thế giới”, gọi là “Del” (DEY) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế sẽ là điều hành loại tiền này.168 “Câu hỏi bây giờ không phải là liệu thế giới sẽ chấp nhận một loại tiền tệ toàn cầu duy nhất hay không, mà là khi nào nó sẽ được thông qua, và nó sẽ được áp dụng theo một cách thuận lợi và giá rẻ như thế nào, chứ không phải tùy tiện, đắt đỏ và hỗn loạn. Đối với những người theo chủ nghĩa quốc tế mà nói, chủ quyền quốc gia là trở ngại có thể áp đảo tất cả. Để ngân hàng trung ương toàn cầu và tiền tệ duy nhất của thế giới có thể tồn tại, chúng ta bắt buộc phải hình thành một số thỏa thuận chính trị.”

168 Mundell Robert, “A Decade Later: Asia New Responsibilities in the International Monetary System,” presentation given in Seoul, South Korea, May, 2-3, 2007.

Robert Mundell đã có một bài diễn giảng vào năm 2003, với tên gọi “Hệ thống tiền tệ quốc tế và những trường hợp về tiền tệ đơn nhất trên thế giới”. Khi nói về những trở ngại chính trị, câu trả lời của ông hết sức thẳng thắn: “Một loại tiền tệ duy nhất của thế giới mà không có chính phủ thế giới thì không thể nào thực hiện được, cưỡng chế thực hiện việc thống nhất tiền tệ sẽ dẫn đến những vấn đề hệ trọng về mặt tổ chức.”

Tháng 5 năm 1999, nhà kinh tế học Judy Shelton đã chính thức đề nghị với Ủy ban Tài chính và Ngân hàng của Hạ viện Mỹ rằng, Bắc Mỹ cần có một loại tiền tệ thống nhất tên là Amero, các học giả khác cũng đang nghiên cứu về lựa chọn tiền tệ mang tính liên lục địa này. Mục đích là tạo ra một hệ thống tiền tệ khu vực mới ngày càng mang tính ràng buộc, bao gồm Canada, Hoa Kỳ và Mexico.

Nhưng làm thế nào tiền tệ khu vực sẽ diễn tiến thành một loại tiền tệ toàn cầu duy nhất? Morrison Bonpasse là Chủ tịch Hội đồng Tiền tệ Toàn cầu (SGCA), gồm một nhóm các nhà kinh tế nghiên cứu đơn vị tiền tệ duy nhất trên thế giới. Bonpasse tin rằng: “Liên minh tiền tệ thế kỷ XXI, và các liên minh tiền tệ may mắn còn tồn tại từ thế kỷ XX chính là cột mốc đánh dấu cho một liên minh tiền tệ toàn cầu trong tương lai. Nhờ vào sự thành công của châu Âu và các liên minh tiền tệ khác, giờ chúng ta đã biết làm thế nào để thành lập và duy trì một liên minh tiền tệ thế hệ thứ ba: một liên minh tiền tệ toàn cầu với các ngân hàng trung ương toàn cầu và loại tiền tệ duy nhất của thế giới. Thế giới đang bắt đầu chuẩn bị cho một loại tiền tệ toàn cầu duy nhất, giống như châu Âu chuẩn bị cho đồng euro, các quốc gia vùng Vịnh Ả Rập chuẩn bị cho một loại tiền tệ của chính họ. Sau khi mục tiêu tiền tệ toàn cầu được xây dựng bởi một quốc gia đại diện chiếm tỷ trọng đáng kể trong GDP thế giới, có thể dự án này sẽ đạt được thành công giống như các loại tiền tệ khu vực trước đó.”169

169 Morrison Bonpasse, The Single Global Currency, Single Global Currency Association, 2006.

“Tóm lại, mô hình tiền tệ khu vực là một bước đệm cho mô hình tiền tệ thế giới. Nhưng bây giờ chủ nghĩa dân tộc đang thịnh hành,” Bonpasse viết, “điều này có thể giải thích rất đơn giản: Làm thế nào để thay đổi từ 147 loại tiền hiện tại sang một loại tiền tệ. Sức mạnh còn sót lại của chủ nghĩa dân tộc và ý chí chính trị là những thách thức chính đối với một loại tiền tệ duy nhất trên thế giới.”

Có lẽ từ năm 2009 đến 2024, nền kinh tế thế giới sẽ bước vào kỷ nguyên hỗn loạn chưa từng thấy. Thời đại khủng hoảng này sẽ dẫn đến sự thay đổi hoàn toàn của nhiều quy tắc kinh tế quan trọng mà chúng ta quen thuộc ngày nay, rất có thể bao gồm cả những thay đổi lớn trong hệ thống tiền tệ của thế giới. Thật không may, đến lúc đó chúng ta có thể đột nhiên thấy rằng trong tay của chúng ta, ngoài những tờ đô-la đang ngày càng mất giá ra, vàng lại ít đến mức đáng thương. Trong cục diện mà các quy tắc trò chơi đang thay đổi nhanh chóng, rất có thể Trung Quốc sẽ đánh mất cơ hội tham gia vào việc thiết lập nên quy tắc của trò chơi tiền tệ. Không có vàng trong tay đồng nghĩa với việc không có quyền phát ngôn trong hệ thống tiền tệ thế giới trong tương lai, và cũng không có vị thế ưu tiên trong quá trình đàm phán các quy tắc trò chơi tiền tệ trong tương lai. Nôm na là: Trong khía cạnh dự trữ ngoại hối, nếu dự trữ vàng thì Trung Quốc sẽ khắc chế được quốc gia khác, còn dự trữ đô-la thì Trung Quốc sẽ bị quốc gia khác khắc chế.

Cột mốc 2024 không phải là một câu nói ngẫu hứng cho vui. Nhìn lại quyết định của các chủ ngân hàng quốc tế trong hàng trăm năm qua, mặc dù cũng có những lúc họ tính toán sai lầm, nhưng lý luận chặt chẽ và tính toán khoa học chính là những yếu tố quan trọng giúp họ thành công. Trong Chương 9, chúng ta đã nói rằng từ cuối năm 2009, châu Âu và Hoa Kỳ sẽ trải qua một chu kỳ thu hẹp người tiêu dùng nghiêm trọng kéo dài trong 14 năm. Hai nền kinh tế lớn nhất thế giới với mức tiêu dùng chiếm gần ⅓ tăng trưởng kinh tế này sẽ đồng thời rơi vào trạng thái “cộng hưởng” của sự lao dốc tiêu dùng. Sự phục hồi hoàn toàn của nền kinh tế thế giới sẽ là một quá trình “đau đớn và cực kỳ lâu dài”, và các điều kiện cho một cuộc khủng hoảng tiền tệ mới nổ ra trong thời gian này là hoàn toàn sẵn có. Trong sự suy giảm dài hạn của thị trường tiêu dùng châu Âu và châu Mỹ, việc tạo ra chủ nghĩa bảo hộ thương mại mạnh mẽ là một hiện tượng cực kỳ tự nhiên. Trong ngọn lửa sôi sục của một cuộc chiến thương mại, chúng ta hoàn toàn có thể hình dung ra viễn cảnh tiền tệ của các quốc gia khác nhau đua nhau mất giá nhằm thúc đẩy xuất khẩu. Hậu quả của sự mất giá tiền tệ đương nhiên sẽ dẫn đến lạm phát trên toàn thế giới. Trước hết, sự gia tăng nhanh chóng của giá cả hàng hóa, đặc biệt là dầu mỏ, sẽ đẩy chi phí sản xuất của các ngành công nghiệp khác nhau, từ đó dẫn đến tăng giá trong sản phẩm cuối cùng, khiến cho lạm phát trở thành hiện thực. Các chính phủ vội vàng giải phóng thanh khoản với số lượng lớn để cứu lấy cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ vốn đang ở trạng thái trầm lắng với tốc độ lưu thông chậm rãi, giống như một hồ chứa khổng lồ với mặt nước tĩnh lặng. Vào thời điểm này, sự đảo ngược đột ngột của lạm phát kỳ vọng (Inflationary Expectation) như làm nổ tung con đập. Dòng lũ ào ạt, dữ dội của thanh khoản sẽ giải phóng một nguồn năng lượng lạm phát kinh hoàng, và các ngân hàng trung ương sẽ không thể phục hồi thanh khoản trong tương lai. Thời gian để đẩy lùi siêu lạm phát sẽ kéo dài ít nhất là một năm, giống như thời kỳ siêu lạm phát ở Đức từ 1923 đến 1924.

Sau cuộc khủng hoảng tiền tệ, khi các chính phủ vẫn chưa kịp hoàn hồn, các nhà kinh tế học và cố vấn nổi tiếng trên thế giới sẽ đưa ra những gợi ý và đề xuất. Họ nhao nhao cho rằng các loại tiền tệ có chủ quyền (với đồng đô-la làm đại diện) chính là thủ phạm của cuộc khủng hoảng tiền tệ. Các chính sách tiền tệ không thể phát huy tác dụng một cách kịp thời và hữu hiệu là nguyên nhân lớn thứ hai. Kết luận là, cuộc khủng hoảng toàn cầu hóa sẽ đòi hỏi sự hợp tác trên quy mô toàn cầu. Bản thân các quốc gia có chủ quyền sẽ không thể giải quyết khủng hoảng một mình. Một loại tiền tệ duy nhất trên thế giới rõ ràng là “linh đơn diệu dược” để giải quyết khủng hoảng, và việc phát hành loại tiền tệ thống nhất của ngân hàng thế giới bắt buộc phải hoàn toàn “độc lập” với sự “quấy nhiễu và cản trở” của chính phủ các nước. Tất nhiên, các chính phủ sẽ không cam tâm tình nguyện từ bỏ quyền kiểm soát và phân phối của cải ở nước họ. Thế nên quá trình “mặc cả” là không thể tránh khỏi. Việc này sẽ kéo dài trong nhiều năm. Thời gian lý tưởng nhất để hình thành nhận thức chung sẽ là vào giai đoạn trước hoặc sau năm 2020. Trong năm đó, hệ thống an sinh xã hội và hệ thống bảo hiểm y tế của Hoa Kỳ với mức thâm hụt tiềm năng lên tới 100 nghìn tỷ đô-la cũng sẽ bị phá hủy hoàn toàn. Hoa Kỳ phải thực hiện quy trình “bảo hộ phá sản” triệt để nhằm hoàn toàn thoát khỏi sự uy hiếp từ “hố nợ nần” khổng lồ kia. Từ năm 2020 đến năm 2023, sau vài năm hoạt động thử nghiệm, năm 2024 sẽ là thời điểm khởi đầu tốt, giai đoạn cao điểm của thế hệ dân số mới ở châu Âu và châu Mỹ sẽ bắt đầu trong năm nay. Cùng với sự ra mắt của loại tiền tệ duy nhất trên thế giới, trong vài thập kỷ sau đó, thế giới “quả nhiên” đã trải qua sự thịnh vượng về kinh tế.

Ngân hàng Trung ương Thế giới sẽ giống như một công ty cổ phần, tất cả các quốc gia trên thế giới đều sẽ có cổ phần, nhưng Anh - Mỹ sẽ có đặc quyền kiểm soát các cổ đông hoặc quyền phủ quyết. Kể từ đó, quyền chi phối đối với tất cả của cải được tạo ra bởi loài người trên trái đất sẽ thực sự rơi vào tay một nhóm người thiểu số. Không còn nghi ngờ gì nữa, quyền phân phối của cải thế giới chắc chắn sẽ là quyền lực lớn nhất mà loài người có thể tưởng tượng trong lịch sử. Kể từ đó, tuyệt đại đa số những người tạo ra của cải sẽ bị tước đoạt quyền tự phân phối thành quả lao động của chính mình. Đây sẽ là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử văn minh nhân loại. Bóng tối và ánh sáng, tự do và nô lệ sẽ chia lịch sử thành hai phần tại thời điểm này.

SỐ PHẬN CỦA TIỀN BẠC VÀ VẬN MỆNH CỦA QUỐC GIA

Nếu nói rằng sự xuất hiện của loại tiền tệ chung trên toàn thế giới là điều không thể tránh khỏi, vậy thì loại tiền tệ nào có thể đảm nhận một cách hữu hiệu việc phân phối tài sản một cách công bằng cho toàn bộ người dân trên toàn cầu?

Bản chất của của cải là những sản phẩm mà mọi người tạo ra thông qua quá trình lao động, và tiền tệ đại diện cho “quyền đòi hỏi” đối với những thành quả lao động này. Mỗi người trong xã hội đều nên nhận được “quyền đòi hỏi” thành quả lao động của những người khác bằng cách rao bán thành quả lao động của chính mình. Khi “quyền đòi hỏi” này được chuyển nhượng, nó sẽ hoạt động như một “phương tiện thanh toán” và khi “quyền đòi hỏi” được chấp nhận một cách phổ biến, nó sẽ trở thành một “phương tiện môi giới giao dịch”. Khi một người nắm giữ “quyền đòi hỏi” nhưng lại trì hoãn việc trao đổi, thì người đó đã lựa chọn công năng “cất trữ của cải”. Cuối cùng, khi một người trao đổi “quyền đòi hỏi”, nó vẫn giúp người đó nhận được thành quả lao động của người khác một cách nguyên vẹn, không hề suy suyển. Vậy thì loại “quyền đòi hỏi” này chính là một “thước đo giá trị” tối ưu. Bốn yếu tố này cùng nhau tạo thành sự tương ứng hoàn hảo giữa tiền bạc và của cải.

Trên thực tế, trong số bốn công năng của tiền, công năng cốt lõi chính là “cất trữ của cải”. Càng là loại tiền tệ có khả năng trì hoãn việc trao đổi của cải một cách nguyên vẹn thì nó càng có thể thực hiện được tác dụng quan trọng là “thước đo giá trị”. Nó sẽ càng được chào đón trên thị trường, việc lưu thông càng thêm dễ dàng. Do đó, nó trở thành một “phương tiện môi giới giao dịch” và “phương thức thanh toán” có chất lượng cao.

Cốt lõi của công năng “cất trữ của cải” là “quyền đòi hỏi” đối với của cải hiện tại phải giúp chúng ta trao đổi được thành quả lao động của người khác trong tương lai một cách “công bằng” mà không bị mất mát. Loại “công bằng” này không phải là nguyên tắc bình đẳng giá mà chúng ta thường hiểu. Trên thực tế, trong quá trình trao đổi thực tiễn, mọi người rất khó thực hiện đánh giá giá trị một cách hiệu quả. Cái gọi là trao đổi công bằng nghĩa là hai bên tham gia đánh giá tính công bằng của giao dịch theo các ưu tiên khác nhau của nhu cầu. Chính xác là từng người sẽ có những định nghĩa khác nhau về những gì “cần thiết nhất” với họ, trong trạng thái đôi bên cùng bổ trợ cho nhau thì việc giao dịch mới có thể thực hiện được.

Công năng “cất trữ của cải” do tồn tại sự khác biệt về thời gian giữa việc tiến hành trao đổi thành quả lao động hiện tại và thành quả lao động trong tương lai, thế nên việc “dự kiến” đã trở thành một phần quan trọng của tiền tệ. Xét theo lịch sử, các loại tiền tệ nguyên thủy đại diện cho một “quyền đòi hỏi” mà không có sự “dự kiến” nào, tất cả các giao dịch phải thực hiện bằng thành quả lao động đã hoàn thành. Không có quá nhiều sản phẩm trong xã hội để trao đổi trong tương lai, công năng “cất trữ của cải” cũng không mấy rõ ràng. Cùng với sự phát triển của năng suất, xã hội bắt đầu tồn tại của cải dư thừa và có thể được sử dụng trong tương lai, tiếp theo là sự xuất hiện của kim tiền và lãi suất. Lãi suất như một sự “dự kiến” rằng thành quả lao động sẽ thặng dư nhiều hơn trong tương lai, do đó cấu thành sự cung ứng tiền tệ theo kiểu “thực tế + dự kiến”.

Khi giao dịch hàng hải bắt đầu phát triển, sự xuất hiện của hối phiếu đã đẩy thành phần “dự kiến” của tiền tệ lên một tầm cao mới. Nếu nói rằng trong nền kinh tế tự cung tự cấp, lãi suất thể hiện sự “dự kiến” hợp lý đối với quá trình thu hoạch nông nghiệp, vậy thì hối phiếu sẽ đưa “dự kiến” về tiền tệ phát triển thành một “dự kiến” hợp lý đối với thương mại mậu dịch.

Trong kỷ nguyên của cuộc cách mạng công nghiệp, ngành công nghiệp ngân hàng đã xuất hiện chế độ “dự trữ một phần vàng”. Trên thực tế điều này sẽ đưa tính năng “dự kiến” của tiền tệ phát triển thành nền tảng của việc mở rộng quy mô lớn của sản xuất công nghiệp.

Sự ra đời của thời đại thông tin làm xuất hiện một số lượng lớn các công cụ tài chính phái sinh, biến của cải trong thế giới ảo thành nguồn cung tiền trong thế giới thực, từ đó khuếch đại vô hạn tính năng “dự kiến” của tiền tệ trở nên không bền vững và có tính hủy diệt, cuối cùng gây ra một cuộc khủng hoảng tài chính.

Bản thân tính năng “dự kiến” của tiền tệ đều hợp lý, nhưng một khi trở nên thái quá, nó sẽ dẫn đến mâu thuẫn rằng những dự kiến trong quá khứ không thể được đáp ứng trong thực tế.

Nếu yếu tố cốt lõi của “cất trữ của cải” bao gồm “thành quả lao động thực tế + thành quả lao động dự kiến”, vậy thì “thành quả lao động thực tế” đã thể hiện thuộc tính hàng hóa của tiền. Trong khi đó, “thành quả lao động dự kiến” sẽ phản ánh thuộc tính tín dụng của tiền. Việc xóa bỏ hoàn toàn thuộc tính hàng hóa của tiền sẽ dẫn đến sự rối loạn chức năng “cất trữ của cải”. Bất kỳ loại tiền tệ nào trong lịch sử, một khi bị tách ra khỏi bản chất hàng hóa, cuối cùng đều không thể thoát khỏi hậu quả là sự mất giá.

Chức năng “cất trữ của cải” của tiền tệ không chỉ quyết định khả năng tự duy trì nội sinh của tiền, mà còn thể hiện khả năng chấp nhận ngoại tại của tiền, tức là lĩnh vực lưu thông tiền tệ.

Sự hưng thịnh và suy vong của các nền văn minh lớn trong lịch sử về bản chất là sự phản ánh toàn diện, hiệu quả việc phân bổ tài nguyên thiên nhiên và khả năng tích hợp các nguồn lực xã hội dưới sự kiểm soát của các nền văn minh đó, trong khi sự vững bền hay yếu kém của tiền tệ lại là sự thể hiện ngoại tại của hai khả năng kiểm soát này. Quá trình trỗi dậy của một nền văn minh hùng mạnh, chắc chắn sẽ đi kèm với sự xuất hiện của một loại tiền tệ mạnh mẽ và sự lưu thông được mở rộng không ngừng. Loại tiền tệ mạnh mẽ đó sẽ xây dựng một hệ thống xã hội vững chắc thông qua sự ổn định và tin cậy của nó, từ đó hình thành nên một khế ước vững chắc có thể bảo vệ lợi ích đa phương. Dưới sự dẫn dắt của một hệ thống tiền tệ mạnh mẽ, xã hội vận hành trong quỹ đạo của một hệ thống “pháp lý tiền tệ”. Ngược lại, bước ngoặt chuyển sang giai đoạn suy vong của một nền văn minh chủ yếu được phản ánh trong thực tế bằng năng lực tạo ra của cải không thể đáp ứng chi tiêu ngày càng tăng nhanh. Vấn đề thâm hụt phát tán sẽ là mồi lửa dẫn đến hiện tượng mất giá tiền tệ và lạm phát ngày càng khủng khiếp. Ngược lại, tiền tệ không ngừng mất giá sẽ áp chế động lực sáng tạo của cải trong xã hội, dẫn đến sự suy giảm lưu thông tiền tệ, làm suy yếu năng lực cũng như hiệu suất của việc tích hợp và phân bổ nguồn lực xã hội, từ đó đẩy nhanh sự suy thoái của các vấn đề tài chính. Đồng thời, tiền tệ mất giá sẽ làm suy yếu mối quan hệ khế ước lợi ích chung được hình thành bởi tất cả các tầng lớp trong xã hội, và hệ thống “pháp lý tiền tệ” sẽ bị thay thế bằng hệ thống pháp lý do con người quyết định. Kết quả sẽ gây ra sự phân tán tâm lý xã hội, dẫn đến nền tảng đạo đức suy đồi, cuối cùng sẽ dẫn đến sự sụp đổ của quốc gia và sự suy tàn của nền văn minh.

Lịch sử về sự hưng vong của La Mã cổ đại đã phản ánh đầy đủ qua sự thịnh suy của hệ thống tiền tệ. Trong thời kỳ chấp chính của Caesar, chính ông đã thiết lập hệ thống tiền tệ vàng bạc mạnh mẽ của La Mã cổ đại. Cùng với quân đội hùng mạnh, tiền tệ La Mã cũng theo đà mở rộng đến khu vực rộng lớn ở Địa Trung Hải. Ngược lại, sự lưu thông tiền tệ rộng lớn cũng củng cố thêm khả năng tích hợp tài nguyên của Đế chế La Mã đối với các khu vực xung quanh, từ đó tăng cường thêm sức mạnh của đế chế. Trong thời hoàng kim kéo dài hàng thế kỷ của mình, nền kinh tế của Đế chế La Mã hết sức thịnh vượng, giá cả ổn định, mức thuế ôn hòa, thương mại phát triển và lãi suất cho vay thương mại duy trì ở mức bình thường từ 4% đến 6% – mức thấp nhất trong toàn bộ thời đại của Đế chế La Mã.

Kể từ thời đại của Hoàng đế La Mã Nero (năm 54), khi ngân sách của quốc gia ngày càng căng thẳng và chi tiêu ngày càng trở nên đắt đỏ, Hoàng đế Nero bắt đầu bù đắp thâm hụt tài chính bằng một loại tiền tệ mất giá. Từ năm 54 đến 68 CN, hàm lượng bạc của đồng bạc La Mã giảm từ 100% xuống 90%, đến năm 117 giảm xuống 85%, năm 180 là 75%. Trải qua hai đời hoàng đế, đến năm 211, hàm lượng bạc của đồng bạc La Mã chỉ còn 50%. Chu kỳ mất giá dần dần của tiền tệ kéo dài hơn 150 năm kể từ thời Nero, và giai đoạn này cũng là bước ngoặt đánh dấu sự lụi tàn của Đế chế La Mã. Cơn ác mộng lạm phát nhanh chóng bước vào thời kỳ tăng tốc suy thoái. Từ năm 260 TCN đến năm 268 CN, hàm lượng bạc của đồng bạc La Mã nhanh chóng giảm xuống chỉ còn 4%. Thời điểm này, Đế chế La Mã đã rơi vào tình cảnh khốn cùng về kinh tế. Trong nước, các cuộc nổi loạn liên tiếp nổ ra. Ở ngoài nước thì chiến tranh liên miên. Do giá trị tiền tệ cao nhưng hàm lượng bạc lại cực kỳ thấp, dẫn đến vật giá tăng vọt, thu thuế nặng nề, cuối cùng khiến cho tướng lĩnh làm phản, Hoàng đế Aurelianus bị ám sát vào năm 275 CN.

Người kế vị của ông ta, hoàng đế Dioclett, muốn học theo Caesar và Augustus, cố gắng chấn hưng lại tiền tệ La Mã. Để khắc chế lạm phát, Dioclett thậm chí còn tuyên bố rằng sẽ phát hành lại toàn bộ số lượng tiền bạc với giá trị thực tế. Nhưng ông đã phạm sai lầm ở chỗ: yêu cầu loại tiền mới này phải có giá trị “tương đương” với loại tiền cũ đã bị mất giá nghiêm trọng. Do đó, loại tiền mới của ông đã nhanh chóng bị đầu cơ tích trữ và mất khả năng lưu thông. Trong cơn tuyệt vọng, cuộc chiến khắc chế lạm phát giờ đành phải bắt đầu từ khâu kiểm soát giá cả, từ đó dẫn đến sự xuất hiện của “sắc lệnh vật giá năm 301 CN” nổi tiếng trong lịch sử của La Mã, quy định mức giá cao nhất của hàng ngàn loại hàng hóa và dịch vụ, mức giá này sẽ căn cứ theo chất lượng của từng loại hàng hóa và dịch vụ. Do lãi suất tiếp tục tăng vọt, luật pháp đã giới hạn lãi suất ở mức 6% đến 12%. Mức cao thấp của lãi suất được quyết định bởi mức độ rủi ro. Sự thiếu hụt một số sản phẩm nhất định đã dẫn đến lệnh cấm xuất khẩu, chẳng hạn như các loại “vật tư chiến lược” gồm ngũ cốc, sắt, đồng xanh, vũ khí, thiết bị quân sự và ngựa, v.v... Sự kiểm soát này đã liên tục mở rộng sang phương diện chế độ và giai cấp. Hoàng đế Constantine hạ lệnh yêu cầu con trai của mỗi người lính phải tiếp tục trở thành binh lính, trừ khi họ không đạt tiêu chuẩn để tòng quân. Tương tự như vậy, những người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp bị buộc phải làm nông mãi mãi, từ đời này qua đời khác. Xu hướng này sau đó đã được mở rộng cho tất cả các ngành nghề được coi là “không thể thiếu” hoặc “không người kế tục”. Hậu quả của việc kiểm soát giá cả là những người tạo ra của cải sẽ không thể thu được lợi nhuận trong một hệ thống giá cả như vậy, vì vậy một số lượng lớn hàng hóa được chuyển sang thị trường chợ đen. Để ứng phó với tình trạng này, Hoàng đế La Mã đã hạ lệnh trấn áp một cách tàn khốc việc buôn bán ở chợ đen. Cuộc đàn áp cuối cùng đã đem lại hiệu quả, nhưng cái giá phải trả là những người tạo ra của cải đã nhất quyết ngừng sáng tạo, thế là nền kinh tế của Đế chế La Mã rơi vào tình cảnh tuyệt vọng. Tại thời điểm này, hệ thống tiền tệ của Đế chế La Mã đã hoàn toàn sụp đổ, và chính phủ phải ngừng thu thuế bằng tiền và trực tiếp đánh thuế các sản phẩm và dịch vụ. Đế chế La Mã hùng mạnh đã rệu rã đến mức phải dùng hàng hóa để đổi lấy hàng hóa.

Vào khoảng năm 350 CN, giá trị của đồng bạc La Mã chỉ bằng 1/30 triệu so với thời đại Augustus và Đế chế Tây La Mã thần thánh cuối cùng đã đi đến thời khắc sụp đổ.

Trái ngược với điều này, hoàng đế Constantine đã xây dựng lại một đơn vị tiền tệ mới ở Đông La Mã. Đó là một cơ chế tiền tệ mạnh mẽ mới dựa trên vàng nguyên chất (Solidus), nó trở thành một sự bảo đảm quan trọng để Đế quốc Byzantine tồn tại hơn một nghìn năm. Độ tin cậy của nó tốt đến mức nó có thể được sử dụng ở các nước thù địch lân cận, ở châu Phi và Tây Âu xa xôi. Một số nhà sử học tin rằng lý do khiến cho Đế chế Đông La Mã có thể tồn tại hàng ngàn năm trong tình thế khắc nghiệt, bị rất nhiều kẻ thù hùng mạnh vây quanh tứ phía là nhờ cơ cấu kinh tế và hệ thống tài chính dựa trên đồng tiền vàng. Độ tinh khiết của tiền vàng Byzantine duy trì cho đến năm 1034 CN, và từ năm 1081 bắt đầu mất giá liên tục. Một hệ thống tiền vàng mạnh mẽ với độ tinh khiết duy trì suốt 800 năm cuối cùng đã sụp đổ, kéo theo đó là vị thế trung tâm thương mại thế giới của Byzantine cùng hệ thống đạo đức luân lý và lực hướng tâm của một đế chế vĩ đại cũng theo đà lụn bại.

Sự tiếp nối xen kẽ của các loại tiền tệ mạnh và yếu không chỉ xuất hiện liên tục trong lịch sử phương Tây mà cả trong lịch sử Trung Quốc. Trong triều đại Bắc Tống, do khu vực Tứ Xuyên xảy ra tình trạng thiếu đồng, thế nên bất đắc dĩ phải đưa đồng xu sắt vào sử dụng trong các giao dịch thương mại. Tại thời điểm đó, dân chúng phải mất 20.000 đồng sắt với trọng lượng khoảng 500kg để mua một mảnh vải, phải dùng xe để vận chuyển, chi phí giao dịch rất cao, khiến cho sự phát triển kinh tế bị hạn chế nghiêm trọng. Để giải quyết vấn đề này, một số thương nhân địa phương ở Thành Đô đã thành lập tổ chức phát hành tiền giấy đầu tiên trên thế giới. Họ đã phát hành loại tiền giấy đầu tiên trên thế giới với tên gọi “giao tử”, dùng tiền sắt làm tài sản thế chấp. Năm 1024, chính quyền Bắc Tống bắt đầu phát hành tiền giấy “Quan Giao tử”; tài sản thế chấp gọi là “sao bản”, thường bằng sắt. Trong 100 năm đầu tiên, lượng phát hành của “giao tử” tương đối tiết chế, nền kinh tế xã hội quả thực cũng có sự phát triển vượt bậc. Tuy nhiên đến năm 1160, tỷ lệ sao bản đã giảm xuống chỉ bằng 1/60 lượng tiền giấy lưu hành, sau đó chính quyền đã dứt khoát từ bỏ sao bản và phát hành giao tử một cách tùy tiện. Đến cuối triều đại Nam Tống, tỷ lệ lạm phát trong 150 năm đã lên tới 20 nghìn tỷ lần! Trên thực tế, hệ thống tiền tệ của triều đại Nam Tống đã sụp đổ trước tiên, sau đó họ mới bị đội quân Mông Cổ xâm chiếm. Sự sụp đổ của hệ thống tiền tệ, sự thu hẹp của các khoản thu thuế của chính quyền, quốc gia mất khả năng huy động chiến tranh, nhà Tống thực chất bị suy bại vì sự sụp đổ của chế độ tiền giấy giao tử.

Sự kết thúc của triều đại nhà Kim cũng khá giống với nhà Tống, đó là do đồng tiền suy yếu gây ra sự lạm phát nghiêm trọng, cuối cùng đã hủy hoại đất nước. Nhà Kim đã phát hành tiền giấy trong hơn 70 năm, nhưng vật giá tăng tới 60 triệu lần, cuối cùng dẫn đến nhân tâm hỗn loạn, khả năng sáng tạo của cải hoàn toàn bặt tích. Hệ thống tiền tệ sụp đổ trước tiên, sau đó mới là sự suy tàn của đế chế.

Đến thời nhà Nguyên, mặc dù chính quyền đã cố gắng tiếp thu bài học về sự sụp đổ của hệ thống tiền giấy của hai nhà Tống - Kim và tiến hành cải cách rộng rãi các chính sách của mình, tạo ra hệ thống tiền tệ tương tự như ngân bản vị. Nhưng chiến tranh, nạn đói và chi tiêu quá mức không thể được khắc chế bằng phương thức tự chủ tự giác. Nhà Nguyên phát hành loại tiền tên là “bảo sao” trong hơn 20 năm, nhưng loại tiền đó nhanh chóng mất giá, chỉ bằng 1/10 giá trị ban đầu. Đến cuối triều đại nhà Nguyên, giá gạo đã tăng lên hơn 60.000 lần so với những năm đầu của triều đại. Hệ thống tiền “bảo sao” sụp đổ hoàn toàn và người dân từ chối tiền giấy của chính quyền. Trong tình trạng mất khả năng lưu thông tiền tệ, Vương triều nhà Nguyên đã không thể kiểm soát tài chính và thu thuế, quốc lực suy kiệt, và cuối cùng họ cũng bại vong vì sự sụp đổ tiền tệ.

Cuộc thử nghiệm đối với hệ thống tiền giấy của triều đại nhà Minh kéo dài 150 năm. Đến năm 1522, tiền giấy “minh bao sao” mất giá, chỉ bằng 2‰ giá trị ban đầu, lạm phát lan tràn khắp chốn. Vương triều nhà Minh cuối cùng buộc phải từ bỏ hệ thống tiền giấy và nối lại chế độ tiền tệ kim loại. Từ nhà Tống đến nhà Minh, sau gần 500 năm thử nghiệm đối với chế độ tiền giấy, cuối cùng đi đến kết luận rằng: Chế độ tiền giấy với sự yếu đuối vốn có và không mang tính ràng buộc sẽ không thể duy trì ổn định trong một thời gian dài.

Bất luận là “giao tử” của nhà Tống, “bảo sao” của nhà Nguyên - Minh, hay cả loại “tiền thực dân” trong cuộc chiến giành độc lập của Mỹ – tiền xanh Lincoln và tiền Feder của Đức Quốc xã đều là loại tiền bị tách ra khỏi thuộc tính hàng hóa. Chúng có thể đóng một vai trò nào đó trong việc kích thích phát triển kinh tế trong một giai đoạn lịch sử nhất định, nhưng chỉ như một biện pháp khẩn cấp, chứ không thể sử dụng lâu dài bền vững. Bất kỳ loại tiền tệ nào đánh mất thuộc tính hàng hóa đều sẽ lặp lại vết xe đổ của lịch sử.

Kể từ khi hệ thống Bretton Woods bị giải thể vào năm 1971, đồng đô-la đã hoàn toàn tách rời khỏi vàng. Lần đầu tiên, xã hội loài người bước vào kỷ nguyên của hệ thống tiền tệ tín dụng thuần túy không có hàng hóa. Tiền đề cho sự tồn tại của tiền tệ tín dụng là người tạo ra tín dụng phải thực sự đáng tin cậy, và loại tiền tệ dựa trên điều đó sẽ trở nên có giá trị. Nguyên nhân cốt lõi dẫn đến sự bùng nổ của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ là do con nợ không thể tuân thủ tín dụng, do đó, đồng đô-la được phái sinh dựa trên những khoản nợ đó, chắc chắn cũng sẽ xuất hiện tình trạng giảm giá mạnh. Điểm yếu cố hữu của tiền tệ tín dụng là các khoản nợ luôn tồn tại rủi ro vỡ nợ, và loại tiền tệ rủi ro này sẽ không thể thực hiện được trọn vẹn công năng “cất trữ của cải”.

Kinh nghiệm lịch sử cho thấy rằng, bốn chức năng chính của tiền tệ bao gồm “cất trữ của cải”, “phương tiện môi giới giao dịch”, “phương thức thanh toán” và “thước đo giá trị” bắt buộc phải đồng thời phát huy tác dụng, như vậy cơ chế hoạt động của tiền tệ mới có thể ổn định và duy trì. Trong trường hợp thiếu đi công năng “cất trữ của cải” thì chế độ tiền tệ tín dụng thuần túy cuối cùng cũng sẽ mất đi công năng “thước đo giá trị”. Tiền tệ tín dụng – chiếc bàn đang cõng trên lưng cả nền kinh tế thế giới chỉ mới hoạt động được 38 năm, trong tình huống chiếc bàn tiền tệ này bị thiếu đi 2 trong số 4 cái chân, nó sẽ mất cân bằng nghiêm trọng, nghiêng ngả chực chờ đổ sập. Hoa Kỳ với khoản nợ khổng lồ lên tới 57 nghìn tỷ đô-la, áp lực nợ đang tăng ở mức trung bình là 6%. Đến năm 2020, tổng số nợ sẽ chạm tới ngưỡng kinh hoàng 102 nghìn tỷ đô-la. Trong khi đó GDP tiềm năng là 3% thì cũng chỉ đạt mức 18,8 nghìn tỷ đô-la. Chỉ riêng việc trả lãi cho các khối nợ khổng lồ này cũng chiếm mất ⅓ tổng GDP của Hoa Kỳ, và áp lực thanh toán lãi này sẽ tiếp tục tăng nhanh đến mức tuyệt vọng. Nếu Hoa Kỳ đang chơi một trò chơi kim tiền công bằng, họ sẽ chẳng có lựa chọn thứ hai ngoại trừ tuyên bố “bảo hộ phá sản”.

Đến năm 2020, thâm hụt tiềm năng của lĩnh vực bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội của chính phủ Hoa Kỳ sẽ “đóng góp” thêm 100 nghìn tỷ đô-la nợ ngầm nữa. Ngoài việc in tiền quy mô lớn để giảm bớt áp lực thanh toán nợ, Hoa Kỳ sẽ không có lựa chọn nào khác. Tuy nhiên, các quốc gia trên thế giới – những người hoàn toàn thất vọng với đồng đô-la kể từ năm 2009 và đã chuẩn bị sẵn sàng cho tình huống thoát ly khỏi nguồn vốn của Mỹ, sẽ phải đối mặt với xu hướng mất giá đồng đô- la với quy mô lớn hơn vào năm 2020. Liệu họ có thể tiếp tục chịu đựng nỗi đau đớn và sự bất lực khi nắm giữ đồng đô-la?

Nếu cuối cùng đồng đô-la sụp đổ vào năm 2020, sẽ không còn loại tiền tệ có chủ quyền nào trên thế giới đủ sức thay thế nó và chế độ tiền tệ tín dụng sẽ phải đối mặt với sự thanh lý cuối cùng. Đến lúc đó, việc “tái tiền tệ hóa” vàng sẽ là điều không thể tránh khỏi. Việc này sẽ giúp khôi phục công năng “cất trữ của cải” của tiền tệ và cân bằng lại bốn chân của chiếc bàn tiền tệ. Thế nhưng, việc chỉ có vàng trở thành trụ cột chống đỡ cho chế độ tiền tệ hiện đại sẽ tồn tại rất nhiều khiếm khuyết lớn. Vấn đề lớn nhất là sự gia tăng sản lượng vàng sẽ không thể theo kịp tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thế giới, thế nên trong quá trình củng cố công năng “cất trữ của cải”, công năng “thước đo giá trị” của vàng lại bị hạn chế và không thể phát huy một cách hữu hiệu. Do đó, trong một cơ chế tiền tệ vàng hoàn chỉnh, sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế thế giới vẫn sẽ mất cân đối. Với tư cách là đơn vị tiền tệ duy nhất của thế giới trong tương lai, vàng phải nhận được một nguyên tố bổ sung mạnh mẽ để tạo thành một hệ thống tiền tệ vững mạnh và lâu bền.

SỰ KẾT HỢP HOÀN HẢO VÀ CHẾT NGƯỜI: TIỀN TỆ DUY NHẤT TRÊN THẾ GIỚI = VÀNG + TIỀN CARBON

Đối lập với tính cứng nhắc của vàng, yếu tố tiền tệ mới phải có “tính đàn hồi”, có thể bù đắp cho sự không tương thích giữa vàng và sự phát triển kinh tế, khiến cho bốn chức năng của tiền tệ trở nên hoàn chỉnh và đầy đủ.

Đây chính là căn nguyên dẫn tới sự ra mắt của loại tiền tệ đại diện cho sự phát thải carbon dioxide trên vũ đài tiền tệ thế giới.

Vật càng hiếm thì càng đắt đỏ. Những người theo “phe bảo vệ môi trường vàng” trong số các chủ ngân hàng quốc tế là: Nếu muốn có giá trị thì buộc phải trở nên “khan hiếm”. Làm thế nào để khiến cho carbon dioxide – thứ mà xưa nay chúng ta luôn phát thải một cách tự do – trở nên khan hiếm? Vậy thì chúng ta bắt buộc phải có một “cái cớ” để khiến nó trở nên khan hiếm, đó là bảo vệ môi trường. Logic cơ bản ở đây là, bảo vệ môi trường có liên quan đến sự sống còn của loài người, mà trong đó khí thải carbon dioxide là cốt lõi của vấn đề bảo vệ môi trường, thế nên, carbon dioxide sẽ quyết định vận mệnh của nhân loại. Vì carbon dioxide đóng vai trò then chốt như vậy, thế nên lượng phát thải của nó phải có “giới hạn”, chỉ cần có sự hạn chế là sẽ tạo nên sự “khan hiếm” một cách nhân tạo. Thế nên mới có sự xuất hiện của Nghị định thư Kyoto.

Cốt lõi của Nghị định thư Kyoto là xác định “giới hạn” của lượng phát thải carbon dioxide, và sau đó yêu cầu các quốc gia trên thế giới thực hiện nghĩa vụ giảm thiểu phát thải. Nếu họ không đáp ứng các mục tiêu giảm phát thải tương ứng, họ phải “mua” thêm mục tiêu phát thải từ các quốc gia khác trên thị trường. Đây là lần đầu tiên giá trị tài chính tiềm năng của lượng phát thải carbon dioxide được cấp phép thông qua hình thức điều ước quốc tế. Trong tương lai, với tư cách là một sản phẩm tài chính có thể giao dịch, lượng phát thải carbon dioxide sẽ được niêm yết và chuyển nhượng tự do dưới dạng tất cả các loại trái phiếu và cổ phiếu, có thể được thế chấp tại các ngân hàng. Cuối cùng, nó trở thành bộ phận cấu thành của một loại tiền tệ cơ sở của ngân hàng trung ương.

Lượng phát thải carbon dioxide thực sự là một khái niệm tuyệt vời. Nó có “tính đàn hồi” cao, bởi lẽ mức phát thải của nó có thể được kiểm soát và điều chỉnh bởi con người, do đó sẽ đảm bảo được “tính khan hiếm” mà nó bắt buộc phải có. Nó cũng là một “biến số thay thế” đáng tin cậy cho các hoạt động kinh tế xã hội. Giống như điện, lượng khí thải carbon dioxide có thể được sử dụng để đánh giá mức độ tăng trưởng kinh tế, từ đó có thể đưa tính năng “dự kiến” vào tổng lượng cung ứng tiền tệ một cách hợp lý.

Tất nhiên, carbon dioxide không phải là nguyên tố tiền tệ duy nhất có “tính đàn hồi”, thế nhưng xét từ tình thế hiện tại, xác suất nó trở thành một trong những bộ phận cấu thành của loại tiền tệ duy nhất trên thế giới là cao nhất. Điều này không chỉ bởi sự hợp lý của nó về mặt lý thuyết, mà còn bởi vì việc sử dụng carbon dioxide như một yếu tố tiền tệ có thể đáp ứng tốt nhất lợi ích chiến lược của tầng lớp tinh anh trên thế giới. Với tư cách là người thiết lập nên quy tắc của cuộc chơi tiền tệ trên thế giới, các nước phát triển ở châu Âu và Hoa Kỳ buộc phải chọn ra nguyên tố tiền tệ có lợi nhất cho mình. Họ có lợi thế mạnh về công nghệ cao, cấu trúc kinh tế và xã hội của họ đã được chuyển đổi từ xã hội công nghiệp sang xã hội theo hướng dịch vụ và thông tin. Ngành công nghiệp đã và đang đẩy nhanh quá trình chuyển giao sang các nước đang phát triển và lượng khí thải carbon dioxide của họ đang có xu hướng giảm dần, trong khi đó các nước mới nổi đang tiến hành công nghiệp hóa với quy mô lớn và có thể dự đoán rằng lượng khí thải carbon dioxide của họ sẽ không thể tránh khỏi quá trình gia tăng.

Với tư cách là một dạng quyền lực tối cao trong xã hội, hệ thống tiền tệ luôn nằm trong “mắt bão” cốt lõi của trò chơi đánh cược giữa các tập đoàn quyền lực. Không còn nghi ngờ gì nữa, việc lựa chọn một hệ thống tiền tệ có thể tối đa hóa lợi ích của chính mình, đồng thời khắc chế một cách hiệu quả sự trỗi dậy của các đối thủ tiềm năng chắc chắn sẽ là câu hỏi trọng tâm mà các tập đoàn lợi ích khác nhau trên thế giới đang vò đầu bứt tai, lao tâm khổ tứ để tìm lời giải đáp.

Nếu cuối cùng xuất hiện sự kết hợp “hoàn hảo” của một loại tiền “lượng phát thải carbon + vàng”, các nước phương Tây rõ ràng là người chiến thắng lớn nhất, trong khi các nước đang phát triển như Trung Quốc sẽ trở thành kẻ thua cuộc lớn nhất. Rõ ràng, phương Tây có trữ lượng vàng hơn 30.000 tấn, trong khi Trung Quốc chỉ có 1.000 tấn. Hầu hết dự trữ ngoại hối của Trung Quốc tập trung vào tài sản bằng đô-la. Nếu vàng được “tái tiền tệ hóa” và đồng đô-la sụp đổ, chắc chắn Mỹ sẽ “xù” tuyệt đại đa số các khoản nợ của họ. Với trữ lượng vàng 8.100 tấn của kho bạc và 3.000 tấn vàng dưới sự kiểm soát của họ ở Quỹ Tiền tệ Quốc tế, sau khi hoàn toàn trút bỏ gánh nặng nợ nần, nền kinh tế Mỹ sẽ trở nên nhẹ nhõm và sớm được chấn hưng. Trong hầu hết các thành quả của việc cải cách và mở cửa của Trung Quốc suốt 30 năm qua, một mặt các sản phẩm vật chất đã bị Hoa Kỳ tiêu thụ hết sạch; mặt khác, thặng dư thương mại được tích trữ bấy lâu cũng đã bị Hoa Kỳ “mượn” mất, trong tay Trung Quốc chỉ còn lại các khoản nợ của Mỹ. Việc “tái tiền tệ hóa” vàng sẽ cướp trắng 2 nghìn tỷ đô-la mà Trung Quốc đã tích lũy được suốt quá trình 30 năm cải cách mở cửa, tương đương với việc 1,3 tỷ người dân Trung Quốc đã làm không công cho phương Tây suốt hơn 30 năm.

Nếu khí thải carbon dioxide được tiền tệ hóa, vậy thì “hóa đơn tiền phạt” môi trường trong vòng 30 năm tới của Trung Quốc cũng sẽ được gửi đến. Điều đó có nghĩa là người dân Trung Quốc sẽ tiếp tục làm việc không công 30 năm nữa. Hệ thống tiền tệ duy nhất trên thế giới bao gồm tổ hợp tiền tệ “lượng phát thải carbon + vàng” sẽ khiến 1,3 tỷ người Trung Quốc làm việc không công cho phương Tây suốt 60 năm ròng rã!

Thế nào gọi là chiến lược tài chính? Đây là uy lực của chiến lược tài chính! Trung Quốc không thiếu các chuyên gia, thứ mà Trung Quốc thiếu là các nhà tư tưởng chiến lược!

Tục ngữ có câu “Vô lợi bất khởi tảo”170 Chiến lược tiền tệ hóa việc bảo vệ môi trường đã được lên kế hoạch trong hơn 40 năm, nếu không có động lực mạnh mẽ, liệu ai sẽ dành quá nhiều thời gian và tiền bạc để thúc đẩy khái niệm phát thải carbon dioxide? Lòng vị tha có rất nhiều hình thức, chúng mang tính uy hiếp trực tiếp hơn nhiều so với carbon dioxide, ví dụ như sự nghèo đói của thế giới thứ ba, nạn đói và bệnh tật khiến hàng ngàn trẻ em chết mỗi ngày ở châu Phi. Tầng lớp tinh hoa cầm quyền thế giới – những người bấy lâu luôn tỏ ra “buồn bã, thương xót” nào đã từng thực sự bỏ công bỏ sức để cứu rỗi số mệnh của nhân loại? Nếu ngay cả một việc cấp bách như cứu rỗi sinh linh cũng bị nhóm người này coi nhẹ như thế, vậy thì tại sao chúng ta lại không thể tin rằng đằng sau các khái niệm về đồng tiền carbon, giao dịch carbon và thuế carbon ở phương Tây sẽ không có động lực khổng lồ nào về mặt lợi ích?

170 Nếu không có lợi trong việc dậy sớm thì ai sẽ dậy sớm? Ý chỉ nếu không có động lực thì chẳng ai muốn chịu vất vả, gian khổ. (ND)

Điểm chí mạng nằm ở chỗ những người này quá đỗi thông minh. Cùng với chiến dịch tuyên truyền quy mô lớn suốt thời gian dài, vấn đề carbon dioxide đã được “nhào nặn” và trở thành một chương trình nghị sự công cộng cấp bách nhất trên thế giới. Trên thực tế, vấn đề phát thải carbon dioxide thậm chí còn được đẩy lên tầm cao chiến lược có liên quan đến sự tồn vong của trái đất. Họ đã kiểm soát một cách chặt chẽ các cao điểm đạo đức của thế giới. Bất cứ ai dám chống lại yêu cầu giảm thải carbon dioxide, người đó sẽ lập tức bị dán nhãn là chống lại loài người, hoặc thậm chí là chống lại trái đất. Quốc gia nào dám chống lại việc cắt giảm carbon dioxide sẽ trở thành kẻ thù chung và sẽ bị nguyền rủa ở mọi nơi trên thế giới. Các chính phủ và những đoàn thể xã hội khác sẽ liên tục tấn công quốc gia đó, như áp đặt mức thuế carbon đối với thương mại quốc tế cao đến mức kinh hoàng, hành động này sẽ gạt mọi sản phẩm của “kẻ thù chung” ra khỏi thị trường thế giới. Sự trừng phạt đồng thuận của thị trường tài chính quốc tế sẽ khiến cho mọi quá trình mua bán và sáp nhập ở hải ngoại của “kẻ thù chung” bị cản trở một cách toàn diện. Tất cả các nguyên liệu và hàng hóa quốc tế cần thiết cho sự phát triển kinh tế của “kẻ thù chung” sẽ phải chịu một mức “thuế môi trường” mang tính trừng phạt, dẫn đến lạm phát nghiêm trọng theo hình thức chi phí, làm suy yếu đáng kể tiềm năng phát triển kinh tế của quốc gia đó.

Đối với Trung Quốc, cái giá phải trả là quá đỗi nặng nề và không thể kham nổi. Đây có thể không phải là việc sẽ xảy ra vào một hoặc hai năm sau, nhưng rất có thể đó là thực tế tàn khốc mà Trung Quốc phải đối mặt trong 10 năm nữa.

Vì vậy, nghiên cứu các chiến lược mang tính phòng ngừa là điều không thể chậm trễ. Trung Quốc đã phải đối mặt với một cuộc chiến tiền tệ cực kỳ tàn khốc nhưng không hề có chút khói lửa.

SỰ KẾT THÚC CỦA ĐỒNG ĐÔ-LA

“Hồ nợ” trị giá 57.000 tỷ đô-la của Hoa Kỳ đã tăng theo cấp số nhân theo từng ngày từng giờ, lại cộng thêm gánh nặng lớn từ các khoản nợ tiềm ẩn của Quỹ Y tế và Lương hưu trong 10 năm tới – những điều đó đã trở thành thứ gông cùm nặng nề, khóa chặt nền kinh tế Hoa Kỳ. Trên thực tế, Hoa Kỳ sẽ không bao giờ trả hết được các khoản nợ này. Theo thời gian, Hoa Kỳ sẽ càng chìm sâu hơn trong đầm lầy nợ nần. Độ tin cậy của đồng đô-la đã lâm nguy, việc nó bị thế giới bỏ rơi hoàn toàn chỉ còn là vấn đề thời gian. Các nhà thiết lập chính sách đô-la của Hoa Kỳ nhận thức rất rõ điều này.

Hoa Kỳ cố gắng lừa gạt một cách triệt để đồng tiền mồ hôi nước mắt của người dân ở tất cả các quốc gia, bao gồm cả Trung Quốc, trước khi sụp đổ hoàn toàn và “xù” hàng chục nghìn tỷ đô-la nợ một cách khéo léo, qua đó thực hiện một màn “thay hình đổi dạng” trong tương lai. Để làm được điều đó, Hoa Kỳ thực hiện quyết sách quốc gia đưa đồng đô-la “về số 0 một cách có kiểm soát” chính là lối thoát duy nhất, đó cũng là lựa chọn phù hợp nhất với lợi ích lâu dài của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, bãi bỏ đồng đô-la là điều không thể chấp nhận được đối với đa số người Mỹ và các nhà đầu tư trên toàn thế giới, vì vậy chỉ có một cuộc khủng hoảng lớn mới có thể tạo ra sự thay đổi lớn lao. Đây là một trong những lý do dẫn đến sự bùng nổ của cuộc khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ.

Trong hình thái kinh tế thông thường, tiền tệ chỉ có thể mất giá từng chút một. Để đồng đô-la mất giá về 0 một cách triệt để như vậy, sẽ phải mất một quá trình rất dài. Trong một khoảng thời gian dài như vậy, gánh nặng nợ ngày càng nặng nề của Hoa Kỳ chắc chắn sẽ bóp nghẹt sự phát triển kinh tế của nó và cung cấp đủ thời gian cho các quốc gia khác từ bỏ đồng đô-la. Để đạt được điều này, đồng đô-la phải gia tăng tốc độ mất giá một cách hợp lý và hợp pháp, đồng thời khiến cho các nhà đầu tư của đồng đô-la không mảy may nghi ngờ, thậm chí ủng hộ chính sách phát hành tiền tràn lan của Cục Dự trữ Liên bang. Và thế là, lệnh cấm các chủ ngân hàng đầu cơ điên cuồng đã được dỡ bỏ, và một loạt những loại vũ khí tài chính mang tính hủy diệt hàng loạt – các sản phẩm tài chính phái sinh ào ào xuất hiện, những chính sách khuyến khích lãi suất thế chấp dưới chuẩn bỗng được “sổ lồng”, vô số những chuyện kỳ quặc với mức độ rủi ro cực cao như bằng mọi giá nhanh chóng đánh sập các ông lớn trong ngành tài chính để nhận được những phần thưởng siêu hậu hĩnh cũng lần lượt xuất hiện. Một cuộc khủng hoảng tài chính chưa từng xảy ra trong một trăm năm đột nhiên bùng phát. Tội ác in tiền tràn lan của Cục Dự trữ Liên bang giờ đã trở nên hợp pháp, các nhà đầu tư nước ngoài còn bày tỏ sự ủng hộ, thấu hiểu và thậm chí tiếp tục “trả giá” cho việc đó. Để loại bỏ nỗi sợ hãi của các nhà đầu tư nước ngoài, đồng đô-la bỗng dưng ngừng rớt giá và tăng vọt trở lại. Và thế là mọi chuyện kỳ quái lạ lùng, bỗng chốc đều có thể lý giải!

Nhóm lợi ích đồng đô-la sử dụng cách thức “luộc ếch trong nước ấm” để làm tê liệt dây thần kinh của người dân trên toàn thế giới. Khác với sự tăng giá thẳng của đồng Nhân dân tệ, chiến thuật mất giá của đồng đô-la là “giảm mạnh, tăng nhẹ”, lúc giảm lúc tăng, thả nổi lãi suất, lãi suất tăng vọt. Điều này khiến cho những người bán khống đô-la sẽ không thể nắm đúng thời cơ, không dám tùy tiện hành động, khiến cho tất cả những người nắm giữ đồng đô-la và trái phiếu chính phủ của Mỹ luôn bị ảo giác về đồng đô-la, nơm nớp lo sợ, không dám tùy tiện quyết đoán hoặc nhanh chóng giải thoát. Thế là đồng đô-la sẽ có thể tiếp tục khóa chặt các nhà đầu tư, từ đó thực hiện được quá trình “về 0 một cách có kiểm soát” theo phương thức và thời gian biểu có lợi nhất cho các nhóm lợi ích liên quan đến đồng đô-la.

Tuy nhiên, cho dù là châu Âu hay là Hoa Kỳ, họ đều sẽ không để Trung Quốc làm ngư ông đắc lợi trong cuộc khủng hoảng tài chính. Họ chắc chắn sẽ tìm mọi cách để con tàu Titanic của đồng đô-la chở nhiều hành khách Trung Quốc nhất có thể. Trong khi đó, các hành khách Trung Quốc lại cảm thấy hết sức vui sướng khi được cầm trên tay tấm vé giảm giá cho chuyến tàu du lịch sang trọng này, và cứ thế đi về cõi chết. Cảnh tượng có thể xuất hiện trong tương lai là: con tàu đô-la bị nhấn chìm giữa biển, đại đa số thi thể đều là hành khách Trung Quốc.

Điều đặc biệt đáng chú ý trong quá trình này là “màn biểu diễn” giải cứu thị trường của chính phủ Hoa Kỳ, quả là hết sức thú vị và cực kỳ sống động! Trong đó, hành động bất thường của Paulson trong việc khẩn thiết yêu cầu Quốc hội thông qua dự luật giải cứu trị giá 700 tỷ đô-la đã mang lại hiệu quả sửng sốt nhất, đẩy màn biểu diễn lên đến cao trào của sự bi tráng. Những màn trình diễn giải cứu thị trường này nhằm thú nhận với thế giới rằng: Chính phủ Hoa Kỳ của chúng tôi đã làm hết sức mình để giải cứu đồng đô-la và nền kinh tế Mỹ. Các bạn thấy đấy, chúng tôi đã chi 100 tỷ đô-la trong ba ngày và 100 tỷ đô- la trong năm ngày, cố gắng hết sức để “giải cứu thị trường”. Nếu vẫn không thể cứu vãn được thì đó không phải lỗi của tôi. Khi mọi thứ đã sẵn sàng, một ngày nọ, Anh, Pháp và Đức cũng tuyên bố rằng họ sẽ không còn chấp nhận đồng đô-la nữa. Không ai cứu được sự sụp đổ của thị trường chứng khoán, và đồng đô-la giảm mạnh. Qua một đêm, tất cả các khoản nợ của Hoa Kỳ biến mất, cùng với đó là tiền tiết kiệm và hầu hết dự trữ ngoại hối của Trung Quốc. Lương hưu của người dân Hoa Kỳ biến mất, bảo hiểm y tế mất tăm mất tích, trái phiếu của Hoa Kỳ biến thành nước và dự trữ đô-la trở thành một đống giấy lộn. Tất cả những điều đó cuối cùng sẽ dẫn tới làn sóng phẫn nộ đổ về phía Chính phủ Hoa Kỳ. Những gì làm được thì chúng tôi đã làm hết sức, làm hết mình rồi, chẳng có gì phải hổ thẹn với lương tâm. Giới lý luận phương Tây sẽ quay sang chĩa thẳng mũi dùi về phía những loại “tiền tệ chủ quyền đáng chết trăm ngàn lần”. Và cuối cùng, giới cầm quyền trên thế giới chỉ có thể bày tỏ sự cảm thông và chia buồn chân thành nhất đối với các nạn nhân của đồng đô-la, bao gồm cả những người dân Trung Quốc cần cù, lương thiện. Bản điếu văn của họ sẽ kết thúc như thế này:

“Hỡi tất cả những người còn sống, chúng ta hãy đứng lên từ đống đổ nát của các loại tiền tệ chủ quyền và bắt đầu một hành trình mới của một loại tiền tệ trung thực duy nhất trên thế giới! Amen.”

THẾ GIỚI MÀ CÁC VỊ THẦN “HERCULES” ĐANG NHÌN XUỐNG

Trong bộ phim Trở về tương lai, Martin – cậu bé vô tình trở về quá khứ 30 năm trước đã phát hiện ra rằng cha và mẹ của mình dường như không thể đến được với nhau, và cậu cực kỳ sốc khi khi nhìn thấy trên tấm ảnh gia đình của 30 năm sau, hình ảnh của anh chị em và của chính cậu đang dần biến mất! Martin hồn xiêu phách lạc, vội vã chạy đi tác thành cho cha mẹ của mình, cuối cùng cậu cũng nhen nhóm được ngọn lửa tình yêu cho hai người họ. Trong khoảnh khắc cha mẹ cậu dành cho nhau nụ hôn hạnh phúc và thề ước trọn đời, những trái ngọt tình yêu của họ lại một lần nữa xuất hiện trở lại trong tấm ảnh gia đình của 30 năm sau. Martin đột nhiên nhận ra rằng tất cả hành động của mình ở quá khứ sẽ thay đổi hướng đi và kết quả của cuộc sống tương lai.

Cậu vội vã chạy đến cỗ máy thời gian do tiến sĩ Brown chế tạo, đặt lại thời gian về thời điểm ngay trước khi khởi hành. Sau một cuộc chạy đua kinh tâm động phách với thời gian, Martin “bay” trở lại 30 năm sau, đúng thời điểm ngàn cân treo sợi tóc khi tiến sĩ Brown sắp sửa bị sát hại. Khi viên đạn bay về phía tiến sĩ Brown, Martin đã lao tới, viết lại kết cục cuộc đời cho ông.

Tại thời điểm này, khán giả cuối cùng đã nhận ra. Tại sao câu chuyện rõ ràng nói “quay về quá khứ”, nhưng tiêu đề được gọi là Trở về tương lai? Thì ra “quay về quá khứ” là để thay đổi tương lai, và tương lai có thể được “quay về” để viết lại.

Hình ảnh cuối cùng của cuốn Atlas Shrugged của Ayn Rand là sau khi “cuộc đình công tập thể” thành công mỹ mãn, tầng lớp tinh anh thống trị “ưu tú nhất trên thế giới” này mỗi người lái một chiếc máy bay phản lực hiện đại. Họ bay tít trên cao, nghiêng mắt nhìn xuống biển người hỗn độn bên dưới. Lúc này thế giới hồng trần đó đang từng bước rơi vào hỗn loạn, suy thoái và hủy diệt đúng theo thời gian biểu mà họ đã lên kế hoạch từ trước. Một đám quan chức chính phủ tham lam, vô liêm sỉ và ngu ngốc từng đối đầu với họ đã bị đánh bại hoàn toàn, không còn hơi sức để phản đòn nữa. Những tinh hoa thực sự của thế giới – của cải, trí tuệ, tư tưởng – giờ chỉ tập trung trong tay tầng lớp tinh anh đang bay cao trên bầu trời này. Họ mỉm cười tự hào vì thắng lợi của mình, và ngắm nhìn thế giới bên dưới sẽ đi vào “quỹ đạo của trí tuệ, đúng đắn và ưu tú” theo thiết kế của họ.

Xuyên suốt câu chuyện, các quan chức chính phủ – những kẻ đã cố gắng hạn chế giới cầm quyền này là những nhân vật phản diện, từng người trong số họ đều thể hiện sự đạo đức giả, không biết xấu hổ, tham lam vô tội vạ. Và tất cả những “nhân vật nhỏ” khác của công chúng nói chung từ đầu đến cuối hầu như không đáng để kể đến. Họ đều thiếu hiểu biết, yếu đuối và bất tài, tụ tập như những đàn kiến dọc các tuyến đường sắt đã bị phá hủy, run rẩy đi quanh những khu mỏ quặng giờ chỉ còn phế tích, thẫn thờ đứng ở phía ngoài các ngân hàng đã phá sản, những thành thị hỗn loạn và miền quê đói khát. Ayn Rand dường như còn khinh miệt tới mức chẳng buồn đặt tên cho những nhân vật nhỏ theo kiểu “có cũng được, chẳng có cũng được” này – dù sao, họ cũng chỉ là những vai diễn làm nền hết sức mờ nhạt, khác biệt một trời một vực với tầng lớp tinh anh hoành tráng kia, chờ đợi để được sắp xếp như những quân cờ trong ván cờ của một thế giới mới trong tương lai.

Các vị thần “Hercules” này đã đạp đổ mô hình cũ kỹ, hủ bại, thiếu hiệu quả và đầy hạn chế, và sẽ xây dựng lại xã hội với “trí tuệ và đầu óc thông thái nhất, thiết kế và tài năng cao siêu nhất”. Vì mục tiêu này, họ đã âm thầm chuẩn bị kế hoạch trong suốt nhiều năm, và khiến cho toàn bộ hệ thống xã hội phải tuân theo đường đi nước bước và nhịp độ mà họ đã thiết kế một cách chính xác, cũng giống như nhân vật Yokoyama trong bộ phim Truy bắt của Nhật Bản, từng bước từng bước đi về phía “bầu trời xanh đến độ tan chảy”. Đúng vậy, bầu trời trong xanh biết mấy, và quần chúng nhân dân mông muội vẫn đang đi qua từng bước, từng bước...

Các vị thần “Hercules” thực sự sẽ mỉm cười đến phút cuối? “Tương lai” mà họ đã một tay thiết lập thực sự sẽ chẳng thể thay đổi sao?

“Hercules” tự tin rằng họ nắm giữ chìa khóa mở ra cánh cửa tương lai, họ đã thiết kế một điểm đến định mệnh cho tất cả mọi người. Nhưng các vị thần Hercules đã bỏ qua một trong những điểm hệ trọng, đó là động lực cơ bản cho toàn bộ lịch sử loài người chính là nhân dân! Nước có thể nâng thuyền và cũng có thể lật thuyền. Từ cổ chí kim đều sẽ như vậy.

Nếu tất cả những người dưới gầm trời này biết rằng trong tương lai số phận của họ sẽ bị các vị thần “Hercules” kia sắp đặt, liệu ngày hôm nay họ có còn thờ ơ, phó mặc hay không?

Có lẽ, các vị thần “Hercules” đã đánh giá quá cao bản thân và đánh giá người khác quá thấp.

Ở phía trên cao, các vị thần “Hercules” sẽ nhìn thấy những gì ở vùng đất rộng lớn bên dưới?

Có lẽ, họ sẽ thấy các quốc gia như Nga và Brazil đang loại bỏ một cách khéo léo và dứt khoát lượng trái phiếu khổng lồ của Mỹ;

Có lẽ, họ sẽ thấy các quốc gia Trung Đông đang ngoan cường thay đổi hệ thống thanh toán đang thống trị thế giới của đồng đô-la dầu mỏ;

Có lẽ, họ sẽ thấy rằng các nước đang phát triển đại diện bởi Trung Quốc không hề tuân theo các kịch bản khủng hoảng tài chính mà họ đã biên soạn sẵn.

Họ cũng sẽ thấy các nước đang phát triển lên kế hoạch cho hệ thống tiền tệ trong tương lai của chính họ, biến nó trở thành thế lực đối lập với loại tiền tệ thống nhất thế giới của các vị thần “Hercules”.

Khi quần chúng nhân dân đã tỏ tường với viễn cảnh tương lai, hành động hiện tại của họ sẽ thay đổi tương lai!

Chúng ta hãy cứ chờ thử xem.

Mục đích của cuốn sách này không phải là để dạy bạn cách đầu tư, phân bổ tài sản hay dạy một bộ phương pháp đối phó tiền tệ điển hình. Cuốn sách này nhằm trả lời những câu hỏi từ lâu đã khiến chúng ta bối rối và chưa được giải đáp: Tại sao tiền tệ lại có xung đột?

Ông Song là một học giả rất tài năng trong lĩnh vực kinh tế thế giới. Ông đã dành nhiều thời gian để khám phá lịch sử, nghiên cứu thực tế và cố gắng diễn giải tương lai. Để viết nên cuốn sách thứ hai của mình mang tên Chiến tranh tiền tệ: Sự thống trị của quyền lực tài chính, ông Song đã đọc hơn 100 cuốn sách và truy nguyên đến hơn 300 năm trước để khám phá nguồn gốc của hệ thống tài chính hiện đại. Ông Song đã mở ra chiếc hộp Pandora, mô tả về 17 gia tộc cai trị hệ thống tài chính thế giới từ thế kỷ XIX và cách họ kiểm soát hệ thống ngân hàng, dầu mỏ, các ngành công nghiệp và lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, bằng cách tạo ra các công cụ tài chính và các sự kiện lớn, qua đó họ có thể làm chủ thế giới một cách tài tình và hiệu quả. Họ ngồi trên đỉnh của kim tự tháp, che giấu tất cả bí mật phía bên dưới ngai vàng của mình.

Ông Song đã cố gắng đốc thúc đất nước Trung Quốc của mình, nỗ lực tìm hiểu xu hướng toàn cầu hóa. Khi đọc cuốn sách này với sự thích thú, bạn sẽ cảm nhận được những đổi thay của thời gian và những thăng trầm của lịch sử. Cá nhân tôi đánh giá cuốn sách này là một trong những cuốn sách hay nhất trong số tất cả các tác phẩm cùng chủ đề. Những điều mà tôi thu hoạch được từ cuốn sách này nhiều gấp 10 lần so với phần I trong bộ sách của ông - Chiến tranh tiền tệ: Ai thực sự là người giàu nhất thế giới? Và hiện giờ tôi rất nóng lòng đón đọc cuốn sách thứ ba mà ông đang bắt đầu soạn thảo. Tôi rất biết ơn ông Song đã cung cấp cho chúng tôi những tư tưởng và quan điểm có giá trị như vậy, xin được chia sẻ sự nhiệt tình và kiên trì của ông với các bạn độc giả.

Tiến sĩ Mohamed Abdul Huck

Chủ tịch và Giám đốc điều hành của Tập đoàn G6, Chủ tịch Tập đoàn Fortune Nest

Bắc Kinh, ngày 28 tháng 6 năm 2009
 

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3