Chó ngao độ hồn - Chương 8 phần 3
Ráng chiều
Một
Đàn chó rừng đỏ Ai Đế Tư hành quân trên thảo nguyên Ca Mã Nhĩ trong gió tuyết mịt mù. Bảy, tám mươi con chó rừng đủ cả lớn bé già trẻ, con nào con nấy bơ phờ ủ rũ, trong vành tai, trên đỉnh đầu và chỗ lõm trên sống lưng đều bám đầy hoa tuyết, trông như một đoàn tang ma. Con chó rừng nào bụng cũng lép kẹp như sắp dính vào cột sống, thõng đuôi trên mặt đất, ánh mắt xa xăm rực lên những tia sáng thèm thuồng đói khát. Chúng cứ thế thất thểu lê bước được chừng một cây số.
“U…”
Chó đầu đàn Sách Đà tung mình nhảy lên một vách đá dựng đứng bên đường, đứng từ trên cao nhìn xuống lớn tiếng hú gọi cả đàn. Nó muốn gọi những con chó rừng còn ở phía sau tập trung lại. Đàn chó rừng đỏ Ai Đế Tư xưa nay luôn dùng thế trận hình vuông hoặc hình tròn tiến lên phía trước trong khi đi săn. Đó là sự thích nghi đối với môi trường nơi đây và vì thế mà sinh ra lựa chọn sinh tồn phù hợp nhất.
Chó rừng tuy có sức sống mãnh liệt nhưng thân thể gầy nhỏ, chẳng những không địch nổi sói, mà so với những con chó bình thường cũng nhỏ hơn hẳn, nếu một mình đọ sức với các loài mãnh thú ăn thịt khác thì rất khó chiếm được ưu thế, cũng không thể đưa các loài động vật ăn cỏ cỡ vừa và cỡ lớn vào thực đơn của mình, chỉ có dựa vào sức mạnh của cả đàn mới có thể xưng hùng bá vương, chiếm cứ một phương trong thế giới rừng rậm nơi mà kẻ mạnh nuốt kẻ yếu này; thế trận vuông hoặc tròn vừa tượng trưng cho đàn chó rừng không thể chia tách, khiến những loài mãnh thú ăn thịt khác nhìn vào mà e sợ, vừa giúp chó đầu đàn có thể kịp thời ra lệnh chỉ huy một cách có hiệu quả khi gặp phải chuyện bất ngờ hoặc tình cờ bắt gặp con mồi.
Đáng tiếc là, Sách Đà gọi liền mấy tiếng, nhưng đàn chó rừng chẳng buồn phản ứng lại, đội ngũ vẫn rời rạc như con rắn không xương. Đúng là phí cả nước bọt. Sách Đà rất đau lòng, uy tín lâu nay của chó đầu đàn đang đứng trước thách thức của cái đói.
Tuyết lông ngỗng đã rơi mấy ngày liền, chân núi Nhật Khúc Ca trở thành một vùng trắng xóa mịt mù, thảo nguyên Ca Mã Nhĩ như được phủ lên một tấm thảm dày màu trắng, sông Cổ Giáp Nạp cũng đã đóng băng. Đàn chó rừng đỏ Ai Đế Tư tuy được coi là đàn thú săn mồi hạng nhất trên thảo nguyên núi tuyết, nhưng dưới điều kiện khí hậu giá rét khắc nghiệt này, chúng cũng phải đối diện với nguy cơ sinh tồn. Những đàn động vật ăn cỏ đông đúc nếu không lũ lượt di cư xuống phương nam tránh rét thì cũng đều trốn trong hang đá để ngủ đông, còn những loài số lượng ít ỏi, không di cư cũng không ngủ đông như thỏ tuyết, chồn, bò Tây Tạng, thì cũng đều vì tiết trời lạnh giá mà ẩn mình trong các hang hốc hoặc một động đá kín đáo nào đó trong rừng, không dám tự tiện ra ngoài. Cho dù có con vật nào đó không chịu nổi cái đói mà mạo hiểm ra khỏi hang thì khói lạnh ẩm ướt nặng nề cũng che đi mùi của chúng, tiếng gió ù ù cũng át tiếng kêu của chúng, tuyết rơi dày đặc cũng nhanh chóng xóa đi dấu vết của chúng.
Khứu giác, thị giác và thính giác của chó rừng trong điều kiện khí hậu dưới 0 độ C này dường như đều giảm tác dụng. Cách săn mồi chắc ăn duy nhất, chính là tìm đến tận hang ổ ngủ đông hoặc ẩn náu của các động vật ăn cỏ. Cách này mặc dù khá hay nhưng núi tuyết mênh mông, thảo nguyên bao la, muốn tìm được một cái hang có thứ gì bên trong, hoặc có thể nói là một bữa tối thịnh soạn, thực chẳng khác gì mò kim đáy bể, hoàn toàn chỉ dựa vào vận may, thời cơ và trông vào sự ngẫu nhiên không thể đoán trước. Đàn chó rừng đỏ Ai Đế Tư không biết đã đắc tội với sơn thần ở chỗ nào, mấy ngày nay liên tiếp gặp chuyện xui xẻo, tìm kiếm gần trăm cái hang hốc khe động mà vẫn chẳng thu hoạch được chút gì bỏ bụng.
Nếu như con người coi cái ăn là trời, thì chó rừng coi cái ăn là cả vũ trụ.
Cái đói như một bóng đen cứ lởn vởn quanh đàn chó rừng đỏ Ai Đế Tư.
Nửa đêm hôm qua, một con chó rừng nhỏ trong đàn tên là Lãng Lãng đã bị chết cóng. Đàn chó rừng sớm đã quen với cảnh chết chóc, không đưa tang cũng không cử hành tang lễ, chó rừng mẹ chỉ đứng trước đứa con chết yểu của mình hú lên vài tiếng rồi rầu rĩ bỏ đi. Đàn chó rừng cũng không có thói quen túc trực bên linh cữu, thi thể của Lãng Lãng được bỏ lại trong một cái khe tối tăm cạnh nơi dừng chân của cả đàn. Sáng nay, sau khi trời sáng, Sách Đà vô tình đi ngang qua khe, đã thấy Lãng Lãng chỉ còn là một bộ xương trắng, đến cả con mắt và cái đuôi cũng đều bị gặm sạch sẽ. Trên nền tuyết trắng phau bên cạnh bộ xương còn lưu lại những dấu chân chó rừng hỗn loạn.
Sách Đà suýt thì tức đến ngất đi.
Mặc dù chó rừng và sói đều thuộc loại động vật có vú, bộ ăn thịt, họ chó, mặc dù trong từ điển của con người, chó rừng và sói thường xuyên đi liền với nhau, nhưng chúng vẫn là hai loài thú dữ khác nhau, mỗi loại đều có những phẩm chất riêng biệt. Vào mùa đông thiếu thốn thức ăn, ở trong tình trạng đói khát, sói có tập tính ăn thịt những đồng loại bị thương nặng hoặc đã chết, trong quan niệm của loài sói, nếu để thịt của đồng loại cho các loài chim, thú ăn thịt khác hoặc lũ kiến ăn mất, thì chẳng thà tự mình ăn lấy còn thực dụng hơn, càng phù hợp hơn với đạo làm sói. Có thể gọi đây là tập tính “thực táng” (chôn cất bằng cách ăn thịt) độc đáo của loài sói.
Nhưng quan niệm của chó rừng không giống sói, chó rừng coi việc ăn xác đồng loại là một hành vi xấu xa, là một tội ác không thể tha thứ được, là một điều cấm kị vô hình. Tuy không giống như con người, dùng nghi lễ phức tạp tiến hành thổ táng, hỏa táng, thiên táng cho đồng loại đã chết, nhưng chó rừng chẳng thà để thi thể đồng loại thối rữa trong rừng, để kền kền, kiến hoặc các loài mãnh thú khác đến xử lí còn hơn.
Không rõ quan niệm của sói hiện đại hơn, hay cách làm của chó rừng hợp lý hơn, nhưng ít ra thì đó là hai tập tính hoàn toàn khác nhau.
Nhưng cảnh tượng sáng nay trong khe núi đã khiến Sách Đà không thể né tránh được một sự thực: Một vài con chó rừng đang phá vỡ điều cấm kị của cộng đồng – ăn cả thi thể của đồng loại.
Trong số động vật hoang dã, nhất là giữa các loài thú ăn thịt có móng sắc răng nhọn, những điều cấm kị trong cộng đồng là vô cùng quan trọng, có thể xem đó là những chuẩn mực và quy tắc mà cả cộng đồng dựa vào để sinh tồn. Ví dụ như chim đại bàng thực hiện chế độ một vợ một chồng nghiêm ngặt, có một điều kị quan trọng là kẻ thứ ba không được phép xen vào. Điều cấm kị này bắt nguồn từ một sự thực: Hai con đại bàng đực hung dữ một khi vì chuyện tranh giành bạn tình mà đánh nhau thì kết cục duy nhất sẽ là cả hai cùng chết. Hổ Bengal cũng có một điều cấm kị, đó là hổ đực không được phép ở cạnh hổ cái có con nhỏ, để ngăn ngừa việc trong một trạng thái nhất định nào đó, hổ đực thô bạo và tham lam sẽ gây tổn thương cho những con hổ con không hề có khả năng tự vệ. Động vật ăn cỏ như linh dương Saiga cũng có điều cấm kị. Trong khi tranh giành địa vị linh dương đầu đàn, linh dương đực chỉ được dùng cách khoe khoang cặp sừng trên đầu và bốn chân to khỏe để thi thố một cách tượng trưng, tranh giành một cách nghi thức hóa, giống như đang múa hoặc diễn kịch, chứ không được dùng những chiếc sừng nhọn hoắt của mình để tấn công đối phương. Nếu không có điều cấm kị quan trọng trên, e rằng tất cả linh dương Saiga trên thế giới đều đã chết hết trong những trận đấu tranh giành địa vị liên tục nảy sinh và không thể khống chế được này.
Phá vỡ điều cấm kị là chuyện vô cùng nguy hiểm.
Sáng nay Sách Đà đứng lặng hồi lâu trước thi hài của Lãng Lãng mà lòng như lửa đốt. Hôm nay chúng đã dám ăn thi thể của đồng loại, ngày mai biết đâu lại chẳng cắn giết cả những con già yếu bệnh tật trong đàn; hôm nay mới chỉ dám lén lút nhân lúc trời tối, giở thủ đoạn vụng trộm, ngày mai biết đâu lại chẳng ngang nhiên cắn giết lẫn nhau giữa ban ngày ban mặt. Rồi đây sẽ là nạn dịch hủy diệt.
Chẳng phải Sách Đà lo nghĩ quá nhiều, trên thảo nguyên Ca Mã Nhĩ quả thực đã từng xảy ra bi kịch đó. Đàn chó rừng láng giềng Cổ Giáp Nạp Tông có một con chó rừng đực, không hiểu bị điên hay làm sao, đói khát đến mất hết cả lí trí, giữa lúc cả trăm con mắt nhìn vào mà dám cắn cổ một đồng loại bị ốm còn chưa tắt hơi rồi uống máu ăn thịt, mười mấy con chó rừng đực đứng cạnh đó thấy vậy, một phần vì muốn trừng phạt kẻ điên, một phần vì thèm khát con mồi, liền rủ nhau xông lên tấn công, cắn chết con chó rừng đực to gan dám phá vỡ điều cấm kị kia rồi ăn thịt nó. Từ đó, đàn chó rừng Cổ Giáp Nạp Tông không phút nào được yên, cứ dăm ba ngày lại xảy ra một vụ án ăn thịt lẫn nhau, chỉ một mùa đông ngắn ngủi mà tất cả chó rừng đực trong đàn gần như đều chết oan uổng, một đại gia đình chó rừng đang yên đang lành bỗng gặp phải nạn hủy diệt.
Bài học xương máu thảm khốc còn đó, Sách Đà quyết không thể để đàn chó rừng đỏ Ai Đế Tư của mình đi theo vết xe đổ của đàn chó rừng Cổ Giáp Nạp Tông được.
Là chó rừng đầu đàn, Sách Đà hiểu rõ các thần dân của mình như lòng bàn tay. Đứng trước thi hài của Lãng Lãng, chẳng cần phải đánh hơi, chỉ nhìn những dấu chân hỗn loạn trên tuyết, Sách Đà cũng có thể nhận ra chuyện bại hoại này là do bảy con chó rừng đực, bao gồm Chột Mắt, Đầu Trắng, Đa Đa Miệng Thỏ, La La Đuôi Ngắn,… gây ra. Nhưng Sách Đà không thể trừng phạt chúng. Phép vua thua lệ làng, điều đó không chỉ đúng với xã hội loài người, mà cũng đúng với thế giới động vật. Hơn nữa, những kẻ xúc phạm đến điều cấm kị này đều là những phần tử trung kiên và tài năng của đàn chó rừng đỏ Ai Đế Tư, trên một phương diện nào đó, trừng phạt chúng chẳng khác nào tự phá hủy cả đàn.
Muốn ngăn chặn không cho thói xấu ăn thịt đồng loại của sói này lan rộng, cách duy nhất có hiệu quả là nhanh chóng săn được những con mồi như hươu, nai để có cái lót dạ.
Gió càng thổi càng mạnh, tuyết càng rơi càng dày, bầu trời đen kịp như bị che bởi tấm da cá sấu xù xì. Đưa mắt nhìn quanh thảo nguyên núi tuyết bao la, đến một cái bóng chuyển động cũng không thấy; rung cánh mũi đánh hơi trong gió, ngoài luồng khí lạnh buốt ra, chẳng ngửi thấy bất kì hơi ấm của động vật sống nào. Con mồi đan
g ở đâu? Thức ăn đang ở đâu?
Đàn chó rừng càng ủ rũ chán nản, đội ngũ càng trở nên rối loạn.
Trong lòng Sách Đà nặng nề như bị đè bởi một tảng đá ngàn cân.
Hai
Trời cao có mắt, sơn thần khai ân, đàn chó rừng đỏ Ai Đế Tư như chết đuối vớ được cọc. Chiều hôm đó, trong lúc đi qua vách núi Voi Ma Mút, chúng bỗng phát hiện ra một ổ lợn rừng.
Ổ lợn rừng này được ẩn giấu vô cùng khéo léo, nằm trong một cái hang kín đáo dưới chân vách núi Voi Ma Mút, một phiến đá mỏng hình vảy cá làm thành cửa động tự nhiên che lấp bên trong, chỉ để chừa ra một khe đá hẹp bên mép tự động đủ để chui ra chui vào. Giữa khe đá mọc đầy cây ngải dại, tử đằng, cỏ lạc đà và táo gai. Mặc dù đang giữa mùa đông, lá cây đều đã khô héo, nhưng trên các cành cây phủ đầy tuyết trắng, làm thành một bức rèm tuyết dày che đi khe đá vốn đã rất kín đáo này. Nếu không nghe thấy tiếng lợn con kêu, cho dù đàn chó rừng có đi ngang qua rèm tuyết, cũng chưa chắc đã phát hiện ra được ổ lợn rừng bên trong.
Đàn chó rừng vốn dĩ đang hành quân trong rừng phong cách chỗ rèm tuyết rất xa, chẳng ai nghĩ đến việc đi dò tìm ở vách núi Voi Ma Mút trơ trọi làm gì. Bỗng thấy vang lên những tiếng lợn kêu eng éc giữa núi rừng hoang vắng.
Tiếng lợn kêu tuy vừa nhỏ vừa ngắn, như có như không, nhưng gần như con chó rừng nào cũng nghe thấy rõ ràng. Trong khoảnh khắc, đàn chó rừng con nào con nấy lông dựng ngược, ánh mắt đù đờ trở nên sáng quắc, cái đuôi đang thõng xuống dựng đứng lên, cả đội ngũ thất thểu rời rạc bỗng trở nên phấn chấn. Hoàn toàn chẳng cần Sách Đà phải lên tiếng, những con chó rừng tụt lại phía sau chẳng nói chẳng rằng đã nhanh chóng đuổi kịp cả đàn, rồi lấy Sách Đà làm trung tâm, cả đàn chó rừng chầm chậm đi thành vòng tròn. Đây là trận thế hình tròn để chờ đợi mệnh lệnh xuất kích.
Có tiếng lợn con kêu tức là có lợn rừng mẹ, lợn rừng mẹ ít nhất cũng đẻ từ ba đến năm con, đủ cho đàn chó rừng đỏ Ai Đế Tư được một bữa no nê.
Lợn con kêu thật đúng lúc, nếu kêu sớm hơn hay muộn hơn một chút, có lẽ đàn chó rừng sẽ mãi mãi không thể phát hiện ra ổ lợn này. Đối với đàn chó rừng mà nói, không nghi ngờ gì nữa, đây đúng là vận may tạo hóa ban cho. Còn đối với ổ lợn rừng kia, đây đúng là kiếp nạn. Sách Đà cũng chẳng cần phải đoán xem tại sao mấy con lợn con đen đủi kia lại cất tiếng kêu vào thời khắc có liên quan đến sự sống chết này. Có thể là vì lũ lợn con bẩm tính nghịch ngợm, thích hò hét lung tung; có thể là hai con lợn con đang đánh nhau trong động; có thể là trong lúc trở mình lợn rừng mẹ vô tình đè phải lợn con…
Đôi lông mày màu tím đang trĩu xuống trên trán Sách Đà bỗng chốc giãn ra, nó lắc đầu một cái, dẫn đầu đàn chó rừng chạy về phía vách núi Voi Ma Mút. Đàn chó rừng chia ra thành hình cánh quạt nhẹ nhàng đến gần Động Rèm Tuyết.
Phải đến khi áp suất khe đá kín đáo ấy, mới ngửi thấy mùi hôi của lợn rừng. Phiến đá trơn nhẳn như tấm bình phong chẳng những che khuất tầm nhìn mà còn che đi cả mùi vị. Đây quả là một hang đá tinh xảo tuyệt vời.
Đàn chó rừng vây chặt cửa động, đến con muỗi cũng không bay lọt qua được.
“U…” Sách Đà hướng vào trong động hú lên một tiếng thăm dò.
Bên trong Động Rèm Tuyết vẫn yên ắng, mãi mà chẳng thấy động tĩnh gì.
Đối với chó rừng, lợn rừng tuy là một món khoái khẩu, nhưng chúng cũng chẳng phải là loài dễ đụng vào. Lợn rừng là động vật ăn tạp, vừa ăn các loại thực vật như măng, quả và rễ cây, khoai sắn, lại ăn cả những loài động vật nhỏ như chim trĩ, sóc, nhím. Lợn rừng tính tình hung dữ, dựa vào cặp răng nanh có thể cày tung đất đá, chúng thậm chí dám đọ sức cả với loài báo.
Một con báo thảo nguyên bình thường rất khó có thể đánh lại một con lợn rừng trưởng thành. Trên thảo nguyên Ca Mã Nhĩ từng xảy ra chuyện một con báo cắn đứt cổ họng lợn rừng, lợn rừng cũng đâm thủng bụng báo, kết quả cả hai đều chết trong vũng máu. Nhất là những con lợn rừng đang nuôi con nhỏ, chúng có dũng khí chiến đấu với những kẻ thù nhòm ngó tới đàn con yêu quý của mình cho đến tận giọt máu cuối cùng. Lợn rừng hoàn toàn giống những loài động vật ăn cỏ khác, mới nghe đến đàn chó rừng đã sợ mất mật rồi cắm đầu bỏ chạy.
Sách Đà nhảy từ trên đống đá đến trước Động Rèm Tuyết, đưa đầu vào trong khe đá quan sát.
Trong khe đá đen như mực lấp lánh một đôi mắt vàng hung dữ. “Gừ gừ…” trong động bỗng vang lên một tràng tiếng kêu ồm ồm, đồng thời nổi lên tiếng một cơ thể nặng nề từ trong khe đá nhỏ hẹp xông ra. Mùi hôi xộc vào mũi, một cặp răng nhanh trắng nhờn hung hãn cắn xé về phía trước.
Trong Động Rèm Tuyết quả nhiên có một con lợn rừng mẹ vô cùng hung hãn Sách Đà vội vàng rút đầu lại rồi nhảy ra xa. Nó hú lên, hi vọng lợn rừng mẹ sẽ đuổi theo ra ngoài động. Nhưng con lợn rừng mẹ xảo quyệt không mắc lừa, chỉ thò mặt ra khỏi khe đá, rồi lại nhanh chóng rút vào trong hang.
“U… u… u… u…”
Đàn chó rừng đồng thanh hướng về phía Động Rèm Tuyết hú lên những tiếng khiến con mồi phải run sợ.
Lợn rừng mẹ ở trong động hục hặc thở dốc, cứ ở lì trong khe đá mà không chịu ra. Con lợn ôn dịch ấy đương nhiên biết rằng, một khi mất đi chỗ dựa là Động Rèm Tuyết, nó sẽ gặp phải sự tấn công của đàn chó rừng từ cả bốn phương tám hướng. Ở trong khe đá chật hẹp chỉ vừa đủ cho một con lợn rừng lách mình chui vào này, nó hoàn toàn không cần phải lo tới sự uy hiếp từ hai bên trái phải, chỉ cần tập trung sức lực đối phó với sự tấn công từ phía chính diện là có thể bảo vệ an toàn cho cả gia đình.
Đây quả là một nơi địa hình hiểm yếu, một người đủ sức chặn cả vạn người, hoàn toàn không có cách gì phát huy được ưu thế số đông của đàn chó rừng. Nếu cứ miễn cưỡng tấn công, mỗi lần chỉ có một con chó rừng có thể chui vào khe đá trổ tài cắn xé mà thôi. Mà một con chó rừng gầy bé chiến đấu với một con lợn rừng to lớn, rất khó có thể chiếm được ưu thế, mặc dù so với lợn rừng, chó rừng hung dữ hơn rất nhiều. Lợn rừng mẹ khỏe mạnh, lại nằm trong khe đá lấy sức nhàn chống đỡ, đàn chó rừng có giở chiến thuật đánh luân phiên cũng chẳng khiến nó sợ.
Lúc này, giữa đàn chó rừng đỏ Ai Đế Tư và lợn rừng mẹ đang cố thủ trong Động Rèm Tuyết hình thành quan hệ ăn thịt và bị ăn thịt, không có chuyện kêu gọi vận động, đánh đòn tâm lý để con lợn ôn dịch kia tự động đầu hàng. Trong rừng rậm, nơi mà kẻ mạnh đánh bại kẻ yếu, không có khái niệm tù binh hay đối xử tử tế với tù binh; dùng sức tranh giành, dùng móng vuốt cào cấu, dùng răng cắn xé để vật lộn giữa sự sống và cái chết chính là cách duy nhất để giải quyết mọi mâu thuẫn.
Hoặc giả, có thể dùng trí thông minh của chó rừng để dẫn dụ con lợn rừng mẹ đang dựa vào địa thế hiểm yếu kia ra khỏi hang, Sách Đà nghĩ. Chẳng hạn như đàn chó rừng giả vờ hết kiên nhẫn mà bỏ qua cuộc săn mồi này, rút lui ra khỏi vách đá Voi Ma Mút để lợn rừng mẹ không trông thấy nữa, sau đó từ xa vây thành một vòng âm thầm mai phục ở sườn bên trái khuất gió của Động Rèm Tuyết, đợi khi lợn rừng mẹ ra khỏi động tìm kiếm thức ăn sẽ thừa cơ ra tay.
Hay là có thể để cho một con chó rừng con giả vờ chết đói ngoài cửa động, đàn chó rừng khóc lóc bỏ đi, khi tuyết rơi gần phủ kín toàn bộ con chó rừng giả chết, có thể lợn rừng mẹ sẽ hết nghi ngờ, chui ra khỏi động kéo cái xác vào làm bữa điểm tâm…
Không được, mấy cách này đều không hoàn hảo, đều có sơ hở, rủi ro rất lớn. Con lợn ôn dịch kia có thừa thời gian và sự kiên nhẫn, hoàn toàn có thể cứ ở trong động ấm áp, không phải chịu gió tuyết lạnh lẽo, hai ba ngày không ra khỏi động một bước cũng chẳng sao. Còn đàn chó rừng phơi gió phơi sương, đã ba ngày nay không có gì ăn, đừng nói đợi thêm hai ba ngày nữa, e rằng ngay đêm nay thôi cũng có thể vì cái lạnh thấu xương và cơn đói cồn cào mà đánh giết lẫn nhau. Con chó con được dùng làm mồi nhử, sợ rằng không kịp đợi đến khi lợn rừng mẹ bị lừa ra khỏi động, tự nó đã đóng băng mà chết rồi.
Sách Đà quyết không thể làm ăn kiểu lỗ vốn như thế được. Nó cứ đi qua đi lại trước cửa Động Rèm Tuyết, muốn tìm một cách toàn vẹn để dẫn dụ lợn rừng mẹ ra khỏi động. Bỗng nhiên, nó dừng bước, nghiêng đầu, hướng về phía bầu trời phủ sương lúc hoàng hôn phát ra tiếng hú khàn khàn bi tráng.
Chẳng còn cách nào khác, xem ra, chỉ có thể chọn từ trong đàn tìm ra một con chó rừng cảm tử mà thôi.

