Con Đường Chẳng Mấy Ai Đi - Chương 05

SẴN LÒNG NHẬN THÁCH ĐỐ

Vậy thế nào là một cuộc đời hoàn toàn dấn thân cho sự thật? Trước hết, đó là một cuộc đời không ngừng tự khảo sát mình. Chúng ta chỉ có thể biết thế giới xuyên qua mối quan hệ giữa ta và thế giới. Vì thế, để biết thế giới, chúng ta phải khảo sát không chỉ thế giới thôi mà còn phải không ngừng tra vấn chính mình là người khảo sát nữa. Các bác sĩ tâm thần đều được dạy cho biết điều này và đều hiểu rằng họ không thể nắm hiểu những xung động và những tính cách chuyển vị của các bệnh nhân nếu họ không nắm hiểu những tính cách chuyển vị và xung động của chính họ. Vì lý do đó nên các bác sĩ tâm thần - trong quá trình đào tạo chuyên môn nghề nghiệp của mình - được khuyến khích nhận sự trị liệu tâm lý hoặc tâm thần. Rất tiếc là không phải mọi bác sĩ tâm thần đều hưởng ứng đề nghị đó. Có rất nhiều người - kể cả nhiều bác sĩ tâm thần - tỉ mỉ khảo sát thế giới song lại không khảo sát chính mình cho đủ. Có thể họ được ghi nhận là đầy tài năng, nhưng không thể gọi họ là khôn ngoan được. Một cuộc sống khôn ngoan phải là một cuộc sống trầm tư kết hợp với hành động. Trước đây trong tâm thức người Mỹ, việc trầm tư mặc tưởng không được coi là quan trọng mấy. Vào những năm 1950 người ta đã dán khẩu hiệu “nhà tư tưởng” cho Adlai Stevenson và tin rằng ông ta không làm một tổng thống tốt đúng nghĩa được vì ông thuộc típ người suy tư và dễ tự nghi ngờ chính mình. Tôi đã từng nghe nhiều cha mẹ nghiêm trách các con cái lớn của họ rằng “chúng mày suy tư nhiều quá”. Thật là một lời trách vô lý biết bao, bởi cái gì làm cho chúng ta thành con người nhiều nhất nếu đó không phải là khả năng suy tư và khả năng phản tỉnh? Rất may những thái độ ấy xem chừng đang thay đổi, và chúng ta đang bắt đầu nhận ra rằng những nguồn gốc nguy hiểm của cuộc sống nằm ẩn bên trong chúng ta nhiều hơn là nằm ở bên ngoài - và để sống còn được, thiết yếu chúng ta phải thường xuyên biết suy tư và tự vấn. Nhưng phải nhận rằng số người đang thay đổi thái độ ấy của mình chưa nhiều lắm. Tra vấn về thế giới bên ngoài mình thì không thể nào đau đớn bằng việc tra vấn chính thế giới bên trong mình, và chắc hẳn vì ngại nỗi đau ấy mà đa số người ta đã tránh né tra vấn chính mình. Tuy nhiên, nếu người ta biết dấn thân phụng sự cho sự thật thì nỗi đau ấy sẽ không còn quan trọng mấy. Và người ta càng đi xa trên hành trình tự vấn thì nỗi đau ấy càng được thấy là bớt quan trọng hơn và do đó cũng bớt nhức nhối hơn.

Một cuộc sống triệt để phụng sự sự thật cũng là một cuộc sống sẵn sàng nhận thách đố từ mọi hướng. Cách thế duy nhứt để chúng ta xác quyết tấm bản đồ của mình có giá trị đó là phải đưa nó ra đón nhận sự phê phán và thách đố của những người vẽ bản đồ khác. Nếu không, chúng ta sẽ sống trong bưng bít như ếch ngồi đáy giếng, chúng ta sẽ hít thở đi hít thở lại hơi thở hôi hám của chính chúng ta thôi, và sẽ ngày càng trở nên yếu nhược, lầm lạc. Biết thế, nhưng vì việc hiệu chỉnh bản đồ bắt phải chịu nỗi đau quá lớn nên hầu hết chúng ta muốn lẩn tránh mọi sự thách đố về giá trị của bản đồ mình. Chúng ta nói với con cái: “Đừng cãi tao, tao là cha (hay mẹ) mày”. Chúng ta nói với vợ (hay chồng) mình: “Cứ để mặc tôi; nếu em (hay anh) cằn nhằn tôi, tôi sẽ đâm bướng ra và em (hay anh) đừng có trách”. Những ông bà cụ cao niên thì nói với gia đình và chòm xóm: “Tôi già yếu rồi. Nếu các người cứ làm tôi bực mình thì tôi sẽ chóng chết - hoặc ít ra các người cũng phải chịu trách nhiệm vì đã làm cho tuổi già của tôi phải khổ sở”. Chúng ta nói với những người làm công cho chúng ta: “Các anh hãy liệu hồn đấy, nếu các anh dám chống cưỡng lại tôi thì điều xảy ra là các anh sẽ đi kiếm chỗ làm khác”.

Khuynh hướng trốn tránh sự thách đố được thấy rất phổ biến nơi người ta đến nỗi có thể xem đó là một đặc điểm thuộc bản tính con người. Nhưng gọi nó là tự nhiên không hề có nghĩa rằng nó cần thiết hay hữu ích hoặc là một thái độ không thể thay đổi được. Đừng mặc quần lót ở trong quần dài và đừng bao giờ đánh răng... chẳng tự nhiên hơn sao? Thế nhưng chúng ta đã học làm những việc không tự nhiên ấy cho đến khi chúng hóa thành những điều tự nhiên thứ hai. Thực vậy, tất cả ý nghĩa của ý thức kỷ luật là ở chỗ biết học tập làm những điều không tự nhiên. Một đặc điểm khác của bản tính con người - và có lẽ là cái làm chúng ta thành con người nhiều nhất - đó là khả năng để làm những điều không tự nhiên, khả năng vượt lên trên và do đó thay đổi bản tính tự nhiên của chính chúng ta.

Không có hành động nào phản tự nhiên hơn - và do đó có đặc trưng “người” hơn - là hành động nhận trị liệu tâm lý. Vì trong hành động này chúng ta tích cực cởi mở chính mình ra đón nhận sự thách đố sâu xa nhất của một con người khác, và thậm chí hy sinh những chuyện khác để có thể tách bạch và biện phân tỉ mỉ chính mình. Sẵn lòng đón nhận thách đố là đặc trưng chung của mọi công việc mà người ta xúc tiến trong văn phòng của bác sĩ tâm thần. Nhận trị liệu tâm lý là một hành động dũng cảm nhất. Trở ngại chủ yếu làm cho người ta không đến với tâm lý trị liệu không phải là vì họ thiếu tiền mà là vị họ thiếu can đảm. Đây cũng là trường hợp ngay cả của nhiều bác sĩ tâm thần - thật vậy, có nhiều bác sĩ tâm thần cảm thấy ái ngại không dám nhận sự trị liệu tâm lý cho chính mình dù đáng lẽ họ phải tiên phong trong việc ấy mới phải. Mặt khác, có nhiều bác sĩ tâm thần nhờ có được sự can đảm ấy đã nhận sự trị liệu tâm lý cho chính mình và đã tỏ ra là những người rất vững vàng và lành mạnh hơn người bình thường.

Nếu trị liệu tâm lý là hình thức đỉnh cao giúp người ta cởi mở mình ra đón nhận thách đố, thì trong các quan hệ hỗ tương của đời thường chúng ta còn có rất nhiều cơ hội tương tự để dám cởi mở như vậy: tại bàn giải khác, trong cuộc họp, ở sân tập đánh gôn, bên mâm cơm tối, trên giường ngủ khi đã tắt đèn; chúng ta cũng có không thiếu người để sẵn sàng cởi mở và nhận thách đố từ họ: các đồng nghiệp, các thượng cấp và thuộc cấp, vợ hay chồng mình, bạn bè, người yêu, cha mẹ, con cái mình... Một phụ nữ có mái tóc bới rất đẹp và gọn đã gặp tôi được vài ba lần - bỗng rồi tôi chú ý thấy chị bắt đầu chải tóc kỹ lưỡng sau mỗi lần chỗi dậy từ chiếc ghế nằm mà tôi dành cho bệnh nhân. Tôi nói cho chị biết điều ghi nhận ấy. Chị trả lời, hơi e thẹn: “Cách đây vài tuần, chồng tôi lưu ý tôi rằng sau mỗi lần gặp bác sĩ trở về, mái tóc của tôi đều bị bẹp ở phía sau. Tôi đã không giải thích tại sao, vì tôi sợ anh ấy sẽ khó chịu nếu biết tôi nằm thoải mái trên chiếc ghế xếp này suốt mỗi cuộc gặp gỡ bác sĩ”. Thế là chúng tôi có thêm một dữ kiện mới để làm việc. Giá trị lớn nhất của trị liệu tâm lý rút ra từ việc móc nối những ghi nhận trong “năm mươi lăm phút gặp gỡ” với những vấn đề và những mối quan hệ trong cuộc sống thường ngày của bệnh nhân. Cuộc chữa trị tinh thần sẽ chẳng bao giờ hoàn tất trừ phi việc cởi mở đón nhận thách đố được bệnh nhân chọn lựa như một lối sống. Người phụ nữ nói trên sẽ không hoàn tất việc trị liệu cho đến khi nào chị sẵn sàng bộc bạch thẳng thắn với chồng mình như chị đã sẵn sàng bộc bạch thẳng thắn với tôi.

Trong số những người đến với bác sĩ tâm thần hay chuyên viên trị liệu tâm lý, rất ít người ngay từ đầu chủ ý nhắm mục tiêu tìm kiếm sự thách đố hoặc sự rèn luyện ý thức kỷ luật. Đa số chỉ muốn tìm kiếm một liệu pháp “giảm đau” nào đó thôi. Chợt đến khi họ nhận ra rằng họ sắp sửa bị thách đố (cũng như sắp được nâng đỡ), nhiều người bỏ cuộc và những người khác thì bị cám dỗ bỏ cuộc. Thuyết phục họ hiểu rằng sự xoa dịu đích thực duy nhất chỉ có được qua con đường nhận thách đố và rèn ý thức kỷ luật thôi - đó quả là một công việc đòi hỏi sự khéo léo, sự nhẫn nại, và thường không thành công. Bởi đó người ta mới nói là “dụ dỗ” bệnh nhân vào tâm lý trị liệu. Và trong thực tế hoàn toàn có những bệnh nhân đi lại gặp gỡ chuyên viên trị liệu tâm lý hết năm này đến năm khác mà vẫn chưa thực sự bước vào trong cánh cửa của tâm lý trị liệu.

Trong tâm lý trị liệu, cởi mở được đặc biệt khích lệ (hay đòi hỏi, tùy quan điểm của bạn) nhờ kỹ thuật mệnh danh là “trút sạch dòng tư tưởng” (free association). Người ta dùng kỹ thuật này khi bảo bệnh nhân: “Hãy nói ra tất cả những ý tưởng xảy đến trong đầu óc bạn, dù những ý tưởng ấy xem ra vô nghĩa hay vớ vẩn đến đâu đi nữa. Nếu có hai điều cùng xảy đến một lúc trong đầu óc bạc, bạn hãy chọn nói ra điều nào khiến bạn phải ngại ngùng hơn”. Việc thực hành này không dễ dàng chút nào. Tuy nhiên, những người chấp nhận thực hành một cách ý thức việc này thường tỏ ra có những bước tiến bộ đáng kể. Song một số người khư khư cố thủ đến nỗi họ chỉ giả vờ thôi chứ không thực sự trút sạch dòng tư tưởng của mình. Họ nói rất hùng hồn về những cái chung chung, và chừa ra không nói những chi tiết thực sự có tính quyết định. Chẳng hạn một nữ bệnh nhân có thể nói thao thao bất tuyệt về những cảm nghiệm ảm đạm thuở ấu thời của mình nhưng lại không đá động gì đến việc chồng chị mới quạu quọ hồi sáng vì chị rút tiền ngân hàng lạm mức đến một ngàn đô la. Những bệnh nhân loại ấy vô hình chung biến buổi trị liệu tâm lý thành một buổi họp báo. Họ chỉ phí thời giờ trong việc cố tránh né sự thách đố, và thường họ sa vào một dạng nói dối rất ư tế nhị.

Dù là cá nhân hay tập thể, nếu muốn sẵn lòng đón nhận thách đố thì thiết yếu phải phô diễn tấm bản đồ (tức cách nhìn thực tại) của mình ra cho dư luận khảo sát. Cần phải đi xa hơn mức độ gặp gỡ của những cuộc họp báo. Như vậy, khía cạnh thứ ba của một cuộc sống triệt để phụng sự sự thật là cuộc sống ấy phải hoàn toàn trung thực, không quanh co lấp liếm. Cuộc sống ấy phải là một tiến trình không ngừng tự điều tiết mình để đảm bảo rằng mọi sự thông truyền của ta - không chỉ lời nói mà các cách nói nữa - phải phản ảnh chính xác tối đa có thể về chân lý và thực tại như mình hiểu.

Sự trung thực ấy luôn phải trả giá mới có được. Sở dĩ người ta nói dối là vị họ muốn tránh nỗi đau đối diện sự thách đố và những hệ lụy của nó. Tổng thống Nixon nói dối trong xì căng đan Watergate và một em bé bốn tuổi nói dối với mẹ mình rằng không phải mình xô đổ chiếc đèn từ trên bàn xuống sàn nhà, hai trường hợp ấy chẳng có gì khác nhau cả. Nói dối, trong hầu hết mọi trường hợp, đều nhằm né tránh sự phiền toái mà đáng ra người ta phải đón nhận, và do đó hoa quả của nói dối là sự suy nhược tâm thần.

Ý niệm về sự né tránh gợi lên vấn đề “đi đường tắt”. Hễ khi nào chúng ta cố tránh né một chướng ngại vật thì đó là lúc chúng ta đang tìm một lối đi dễ dàng hơn và - do đó - nhanh chóng hơn để đi đến mục tiêu của mình, nói cách khác, chúng ta đang đi đường tắt. Xuất phát từ niềm tin tưởng rằng sự trưởng thành tâm linh là cứu cánh của cuộc hiện sinh con người tôi ủng hộ triệt để cho sự tiến bộ. Quả là hoàn toàn đúng đắn khi tuyên bố rằng trong tư cách là những con người chúng ta nên làm sao để trưởng thành và tiến bộ càng nhanh bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Do đó, cũng hoàn toàn đúng đắn nếu chúng ta vận dụng mọi đường tắt chính đáng để tự giúp mình lớn lên về mặt nhân cách. Vấn đề ở đây nằm ở chỗ hai chữ “chính đáng”. Con người chúng ta dường như vừa có khuynh hướng phớt lờ những ngả đường tắt chính đáng vừa muốn tìm ra những lối tắt không chính đáng. Đọc một giáo trình tóm lược thay vì phải ngốn nguyên cả quyển sách dày cộm để chuẩn bị cho kỳ thi, đó là một thí dụ về đường tắt chính đáng. Nếu đó là một tập giáo trình tóm lược tốt thì người ta có thể tiếp thu được những kiến thức thiết yếu mà đồng thời vẫn tiết kiệm được một lượng thời gian và năng lực đáng kể. Gian lận, trái lại, không phải là một đường tắt chính đáng. Nó có thể tiết kiệm nhiều thời gian hơn, và nếu khéo léo trót lọt, nó có thể giúp cho người gian lận đậu được kỳ thi và giựt được mảnh bằng. Nhưng trong trường hợp này, người gian lận không nắm được những kiến thức thiết yếu - và vì thế tấm bằng trở thành một sự phỉnh gạt, dối trá. Bấy giờ, nếu tấm bằng ấy có một vai trò quan trọng trong đời sống của anh ta thì chính cuộc sống của anh ta hóa nên một sự lừa phỉnh và anh ta phải dốc sức bảo vệ và gìn giữ sự lừa phỉnh này.

Tâm lý trị liệu đích thực, đàng khác, là một con đường tắt chính đáng có thể giúp người ta trưởng thành nhân cách - thế nhưng đây lại là con đường thường chẳng mấy ai đi. Người ta biện minh cho sự ghẻ lạnh của họ đối với tâm lý trị liệu bằng cách chất vấn tính cách chính đáng của nó. Họ nói: “Tôi sợ rồi mình sẽ bị ràng buộc không thể gỡ ra khỏi phương pháp trị liệu ấy. Tôi không muốn để mình bị ràng buộc”. Nhưng đó thường chỉ là lý do người ta đưa ra để che đậy một nỗi sợ còn thâm sâu hơn. Việc sử dụng phương pháp trị liệu tâm lý đâu có ràng buộc người ta bằng việc sử dụng búa và đinh để làm một ngôi nhà. Ai bảo rằng không thể làm một ngôi nhà nếu không đụng đến búa và đinh? Nhưng bấy giờ công việc sẽ phiền toái hơn và ít kiến hiệu hơn. Thử hỏi có mấy người thợ mộc lại cảm thấy bực dọc chán nản vì mình phải lệ thuộc vào búa và đinh? Cũng vậy, người ta vẫn có thể đạt được sự trưởng thành nhân cách dù không dùng đến khoa tâm lý trị liệu; song như vậy thì công việc sẽ thường rầy rà và khó khăn hơn. Vậy thì tại sao chúng ta không vận dụng những phương thế sẵn có khả dĩ giúp mình mau chóng đạt đến mục tiêu của mình nhỉ!

Đàng khác, nếu người ta lạm dụng nó, tâm lý trị liệu có thể trở thành một con đường tắt không chính đáng. Điều này thường xảy ra trong một số trường hợp cha mẹ đẩy con cái tới với tâm lý trị liệu. Họ muốn con cái họ thay đổi chuyện này chuyện khác, chẳng hạn: đừng dùng ma túy nữa, đừng cộc cằn nóng nảy nữa, đừng bị điểm xấu ở trường nữa, vân vân... Một số cha mẹ bất lực không thể giúp được con cái mình và vì thế đến nhờ nhà tâm lý trị liệu giúp đỡ. Một số khác đem con mình đến mà không hề biết gì về nguyên nhân dẫn tới vấn đề của chúng, làm như thể nhà tâm lý trị liệu có khả năng bùa phép nào đó thay đổi được con cái họ mà không cần đụng đến nguyên nhân nền tảng của vấn đề. Chẳng hạn, có những cha mẹ thoải mái nói rằng: “Chúng tôi biết trong cuộc sống hôn nhân của chúng tôi có vấn đề, và điều này có liên quan đến sự khó khăn của con trai chúng tôi. Tuy nhiên, chúng tôi không muốn động chạm gì đến vợ chồng chúng tôi. Đừng làm trị liệu tâm lý cho chúng tôi. Chúng tôi chỉ yêu cầu ông làm việc với cháu và giúp cháu được vui vẻ hơn thôi”. Một số người khác thì kín đáo hơn, chứ không nói toạc ra như thế. Họ làm như sẵn lòng làm bất cứ điều gì cần thiết để chữa trị cho con cái mình, song khi được giải thích rằng những triệu chứng nơi con họ là kết quả của lối sống ích kỷ và tắc trách của họ, họ sẽ lắc đầu phủ nhận và quay gót đi tìm một bác sĩ tâm thần khác - biết chừng đâu vị sau này sẽ đề xuất với họ một con đường tắt ít phiền phức hơn. Lắm khi rốt cuộc họ phân bua rằng: “Chúng tôi đã chạy ngược chạy xuôi đủ cách trong khả năng của chúng tôi. Chúng tôi đã đưa thằng bé tới nhà tâm lý trị liệu thứ tư, thứ năm rồi. Nhưng chẳng ăn thua gì cả!”

Chúng ta lừa dối nhiều khi không chỉ với người khác thôi mà còn cả với chính mình nữa. Lương tâm và những cảm nhận thực tại của ta cũng đặt ra cho ta những thách thức không kém chi so với các thách thức của công luận. Trong số những điều mà chúng ta tự lừa dối chính mình, có hai điều thông thường nhất và tai hại nhất là: “Chúng tôi thực sự yêu thương con cái chúng tôi”, và “cha mẹ chúng tôi thực sự thương yêu chúng tôi”. Rất có thể là thực sự cha mẹ chúng ta đã yêu thương chúng ta và chúng ta cũng thương yêu con cái mình, song, nếu như sự thực không phải như vậy thì chúng ta tìm mọi cách lấp liếm để khỏi nhận ra điều đó.

Tôi vẫn thường gọi tâm lý trị liệu là “trò chơi thành thực” hay “trò chơi tìm sự thật” bởi vì một trong những công việc của nó là giúp bệnh nhân đối diện với những sự lừa dối nói trên. Một trong những gốc rễ của sự suy nhược tinh thần là một hệ thống chồng chéo những điều lừa dối - dối người và dối cả chính mình! Những gốc rễ này chỉ có thể được phơi ra và nhổ đi bằng một bầu khí hoàn toàn thành thực. Nhiệm vụ thiết yếu hàng đầu của một nhà tâm lý trị liệu là phải tạo ra được một bầu khí như vậy - nhờ đó mối quan hệ giữa nhà trị liệu và bệnh nhân mới có được sự cởi mở và sự tín nhiệm hoàn toàn. Làm sao có thể mong một bệnh nhân chịu đựng được nỗi đau khi đương đầu với thực tại nếu nhà trị liệu không chịu đựng cùng một nỗi đau như vậy? Làm sao dẫn dắt một con người nếu không bước đi trước người đó?

CHE GIẤU SỰ THẬT

Nói dối có thể được chia thành hai loại: nói dối trắng và nói dối đen. Nói dối đen là khi ta nói một điều mà ta biết rõ là sai. Còn nói dối trắng là một lời nói tự bản thân nó không sai, nhưng nó bỏ qua không đề cập đến một phần quan trọng của sự thật.

Sự kiện một lời nói dối là trắng không hề làm cho nó trở thành ít dối hơn hay dễ được tha thứ hơn. Những lời nối dối trắng cũng hoàn toàn gây tác hại như lời nói dối đen vậy. Một chính quyền che giấu không cho dân chúng biết những thông tin thiết yếu bằng sự kiểm duyệt khắc nghiệt thì cũng không dân chủ hơn một chính quyền nói phỉnh nhân dân. Người nữ bệnh nhân cố tình không nói đến việc mình rút tiền ngân hàng lạm mức trên kia đang gây cản ngại cho tiến trình tâm lý trị liệu của mình không kém chi so với trường hợp của một người thẳng thừng nói dối. Thật vậy, vì nói dối trắng xem ra có vẻ “nhẹ tội” hơn nên nó là hình thức nói dối phổ biến nhất. Và vì việc che giấu những thông tin thiết yếu, tức nói dối trắng khó bị phát hiện và truy vấn hơn nên nó thường thậm chí nguy hại hơn nói dối đen.

Trong nhiều mối tương quan xã hội của chúng ta, việc nói dối trắng được xem như có thể chấp nhận được lấy cớ là “ chúng ta không muốn làm tổn thương cảm nghĩ của người khác”. Tuy nhiên chúng ta há không lấy làm tiếc rằng mối tương quan xã hội của chúng ta hời hợt quá đó sao? Với cha mẹ thì việc nói dối trắng đối với con cái không chỉ được coi là vô tội vạ mà còn được xem là cách để diễn tả lòng thương yêu và sự quan tâm lo lắng đối với con mình. Ngay cả những người chồng và người vợ có đủ can đảm để cởi mở mọi sự với nhau cũng thường thấy rằng thật khó mà cởi mở với con cái. Họ không nói cho con họ biết rằng họ hút cần sa; họ giữ kín về chuyện đêm rồi họ đã hục hặc cãi vã nhau; họ không hề lộ ra cho con cái biết rằng họ oán trách ông bà thân sinh của mình ngày trước đã quá ép chế mình; họ cũng giấu nhau chuyện họ bị rối loạn tâm lý mà bác sĩ đã cho họ biết; họ đang có bao nhiêu tiền trong nhà băng và đang mở một cuộc đầu tư làm ăn có tính phiêu lưu như thế nào - tất cả đều được giấu kín đối với con cái họ. Thường thì họ giải thích rằng sở dĩ mình phải giữ gìn kín đáo về những điều ấy là bởi muốn tránh cho con cái mình khỏi những lo lắng hoang mang không cần thiết. Tuy nhiên, sự “giữ gìn” như vậy tỏ ra ít khi thành công. Cách này hay cách khác, con cái họ cũng biết được họ đang hút cần sa, rằng hồi tối qua cha mẹ chúng có chuyện lục đục, rằng ông bà nội của chúng trước đây rất khắc nghiệt, rằng mẹ chúng đang bị căng thẳng thần kinh và cha chúng đang làm ăn thua lỗ. Bởi đó, điều họ làm đối với con cái là sự cấm đoán đúng hơn là sự bảo vệ. Con cái họ bị cấm đoán không được hiểu biết về chuyện tiền bạc, chuyện bệnh hoạn, ma tuý, giới tính, hôn nhân, về cha mẹ chúng, ông bà chúng và về người ta nói chung. Chúng cũng không có được sự an tâm mà lẽ ra chúng có thể có được nếu những chuyện ấy được trao đổi một cách cởi mở hơn. Cuối cùng, chúng không có được những gương mẫu về sự cởi mở và sự thành thực, thay vào đó chúng chỉ được cung cấp cho những mẫu gương về sự thành thực một phần, sự cởi mở không hoàn toàn và sự can đảm giới hạn. Đối với một số cha mẹ, ước muốn “gìn giữ” con cái mình được thúc đẩy bằng một tình yêu lệch lạc. Song, đối với một số khác, ước muốn bảo vệ con cái kiểu ấy xuất phát từ ý muốn tránh bị thách đố bởi chính con cái họ và muốn giữ vững uy quyền của mình trên chúng. Họ sẽ nói với con cái rằng: “Này, chúng mày là con nít, hãy lo những chuyện của con nít. Đừng xía vào chuyện người lớn. Ba má chúng mày đủ sức lo liệu hết những chuyện ấy. Chúng mày chõ mũi vào chỉ tổ làm phiền phức thêm thôi”.

Tuy nhiên, có thể nổi lên xung khắc thực sự khi trong lòng thì muốn thành thực hoàn toàn nhưng ngoài thực tế thì phải e dè khép kín vì cần phải tránh gây phiền toái cho người này người kia. Chẳng hạn, ngay cả những cha mẹ có đời sống hôn nhân tuyệt diệu nhất cũng nhiều khi thấy rằng rất có thể ly dị là điều tốt hơn; song một khi chưa dứt khoát chọn con đường ly dị thì họ cho rằng việc bộc lộ cho con cái biết ý nghĩ đó sẽ chỉ chất gánh nặng không cần thiết lên chúng thôi. Ly dị là một ý niệm có tính đe doạ khủng khiếp đối với cảm giác an toàn của đứa trẻ - thật vậy, hai tiếng ấy làm trẻ con khiếp sợ đến nỗi chúng không có khả năng đo lường được hết các góc cạnh của sự ly dị. Ngay cả khi bóng dáng của ly dị vẫn còn mập mờ xa xa thì đứa trẻ đã cảm thấy bất an trầm trọng rồi. Nếu cuộc sống hôn nhân của người cha và người mẹ bị lung lay một cách rõ ràng thì chắc chắn con cái họ sẽ cảm nhận nỗi hoang mang về nguy cơ ly dị, dù họ có nói ra điều đó cho chúng hay không. Nhưng trong trường hợp cuộc sống vợ chồng ổn định bình thường mà cha mẹ lại hé ra cho con cái biết rằng đêm rồi họ đã bàn với nhau về khả năng tiến tới ly dị nhau, thì quả thực họ cũng đã gieo hoang mang bất ổn vào lòng những đứa trẻ. Cũng vậy, các nhà tâm lý trị liệu cần phải kín đáo không cho bệnh nhân biết một số cảm nghĩ, quan niệm và sự ghi nhận được của mình trong những giai đoạn trị liệu đầu tiên, bởi vì lúc ấy bệnh nhân chưa đủ sẵn sàng để đón nhận chúng.

Hồi tôi còn học năm đầu về khoa trị liệu tâm lý, một bệnh nhân đến với tôi - lần ấy là lần gặp thứ tư - và kể lại cho tôi nghe một giấc mơ có liên quan rất rõ đến xu hướng đồng tính luyến ái. Vì muốn tỏ ra mình là một tay trị liệu xuất sắc và vì muốn nhanh chóng đạt kết quả trong ca bệnh này, tôi đã nói thẳng với bệnh nhân: “Này, giấc mơ của anh cho thấy rõ rằng anh đang bị ám ảnh bởi nỗi lo mắc chứng đồng tính luyến ái”. Người đàn ông ấy bất chợt sụ mặt xuống và liên tiếp ba lượt hẹn sau đó anh ta đều không đến. Tôi đã phải vất vả nhiều và cũng nhờ may mắn nữa, mới thuyết phục được anh trở lại với cuộc trị liệu về sau đó. Chúng tôi đã gặp nhau theo hẹn được thêm hai mươi lần nữa trước khi anh ta phải dời chỗ ở đi nơi khác vì công chuyện làm ăn. Những lần gặp ấy đã tỏ ra rất ích lợi cho anh mặc dù chúng tôi đã không hề đề cập đến vấn đề đồng tính luyến ái. Thì ra sự kiện anh liên hệ đến vấn đề đồng tính luyến ái trong vô thức (qua giấc mơ) không hề có nghĩa rằng anh đã sẵn sàng đối diện với nó trên bình diện ý thức; và bằng việc nói huỵch toẹt ra với anh, tôi đã làm anh thất vọng trầm trọng - sự khinh suất ấy của tôi đã suýt làm anh tởn tới già không dám tới bất cứ nhà trị liệu tâm lý nào nữa.

Trong thế giới kinh doanh hay chính trị, có nhiều lúc người ta cũng phải biết che giấu những quan điểm nào đó của mình. Nếu người ta luôn luôn bày tỏ lập trường của mình ra đối với các vấn đề lớn nhỏ, họ sẽ bị thượng cấp của mình đánh giá là bướng bỉnh và là một mối đe dọa cho tổ chức. Trong khuôn khổ của một tổ chức, rõ ràng là nếu một người muốn tỏ ra được việc thì anh ta phải luôn nhớ mình là một “con người của tổ chức”, để biết cân nhắc cẩn thận trước khi trình bày những quan điểm của cá nhân mình, để đôi khi biết hòa cái tôi của mình vào với chính tổ chức. Đàng khác, nếu một người coi mục đích duy nhứt của mình là tỏ ra đắc lực cho tổ chức, nghĩa là chỉ bày tỏ những quan điểm nào chắc chắn không gây đụng chạm - thì anh ta đã chấp nhận lấy mục đích biện minh cho phương tiện và anh ta sẵn sàng đánh mất tính cách riêng của mình để trở thành một con người thuần túy của tổ chức. Con đường mà một người phải đi để vừa không đánh mất tính cách riêng vừa không phương hại đến tổ chức là một con đường vô cùng chật hẹp, cam go; và rất ít kẻ đi trót lọt được trên con đường này, một con đường thách đố ghê gớm.

Bởi vậy mà có nhiều lúc người ta phải tự trấn áp để đừng xì ra những quan điểm, cảm nghĩ, ý kiến và ngay cả sự hiểu biết của mình trong các vấn đề liên quan. Vậy thì, nếu một người muốn trung thành đối với sự thật thì anh ta phải xử sự sao đây? Đây là một số nguyên tắc:

- Trước hết, đừng bao giờ nói điều dối trá.

- Thứ hai, luôn nhớ rằng hành vi che giấu sự thật bao giờ cũng hàm ẩn khả năng của một lời nói dối, và mỗi trường hợp che giấu sự thật cần phải xuất phát từ một quyết định có ý nghĩa đạo đức nào đó.

- Ba là, quyết định che giấu sự thật không bao giờ được dựa trên những nhu cầu riêng tư cá nhân - chẳng hạn nhu cầu về quyền lực, nhu cầu được ưa thích, hay nhu cầu bảo vệ cách suy nghĩ của mình.

- Bốn là, quyết định che giấu sự thật ấy phải đặt cơ sở trên lợi ích của đối tượng - tức những kẻ mà ta che giấu không cho biết hết sự thật.

- Năm là, việc đánh giá thế nào là ích lợi của người khác là một công việc đầy tính trách nhiệm và phức tạp đến nỗi để có được sự đánh giá khôn ngoan đúng đắn ta phải bảo đảm rằng ta đang chân tình yêu thương họ.

- Thứ sáu, yếu tố tiên quyết để đánh giá như thế là ở chỗ ta xem họ có đủ khả năng để vận dụng sự thật ấy cho sự trưởng thành tâm linh của họ hay không.

- Và cuối dùng, cần nhớ rằng ta thường có khuynh hướng đánh giá thấp hơn là đánh giá cao về khả năng người ta vận dụng sự thật cho sự trưởng thành tâm linh của họ.

Tất cả những điều cần nói trên xem ra là một công việc phi thường, không thể nào làm trọn vẹn được, đó là một gánh nặng bám theo ta suốt đời, một thách đố thực sự. Công việc ấy luôn đòi hỏi người ta phải có ý thức kỷ luật bản thân, thảo nào đa số người ta vì muốn dễ dãi hơn nên đã chọn con đường hạn chế tối đa sự thành thực cởi mở, và chỉ thân tình ở mức tương đối thôi, họ tự đóng kín chính mình và bưng bít không cho người xung quanh biết “tấm bản đồ” của mình. Quả đó là cách thế thoải mái hơn.

Tuy nhiên, hoa quả của một đời sống kiên trung phụng sự cho sự thật thì ngọt ngào hơn nhiều so với những khó khăn mà nó đòi hỏi. Bởi vì một khi người ta không ngừng cởi mở tấm bản đồ của mình ra để nhận sự thách đố thì người ta sẽ không ngừng được lớn lên thêm. Nhờ cởi mở, họ có thể xây dựng và duy trì những mối quan hệ mật thiết đem lại ích lợi hơn nhiều so với những người khép kín. Bởi vì họ không bao giờ nói sai sự thực nên họ có thể tin chắc và tự hào rằng họ đã không hề làm gì khiến cho thế giới lộn xộn thêm, ngược lại, họ biết mình đang góp phần làm sáng sủa minh bạch những chỗ mờ tối. Cuối cùng, họ sống một cách hoàn toàn tự do. Họ không bị thúc bách bởi nhu cầu che chắn, lấp liếm một cái gì cả. Họ không phải rón rén thập thò trong bóng tối. Họ không phải nặn ra những điều dối trá mới để bảo vệ những điều dối trá cũ. Họ chẳng bao giờ cần mất công ngụy trang để đánh lừa ai. Và nhất là, họ hiểu sâu sắc rằng việc bưng bít cái này che đậy cái kia bao giờ cũng vất vả hơn là việc tự chế ngự mình trong khuôn khổ của lòng trung thực. Người ta càng thành thực thì người ta càng dễ tiếp tục thành thực. Cũng vậy, người ta càng nói dối nhiều thì người ta càng thấy nhu cầu phải nói dối nhiều hơn nữa. Vì luôn luôn cởi mở, những người kiên trung với sự thật sẽ sống một cách ung dung tự tại giữa dòng đời, và khi họ sống ung dung như vậy, họ hoàn toàn tự do chẳng sợ hãi bất cứ gì hay bất cứ ai.

QUÂN BÌNH

Đến đây tôi hi vọng rằng việc thực hành qui phạm (tức kỷ luật) đã được thấy rõ không chỉ là một đòi hỏi mà còn là một công việc đầy phức tạp đòi người ta phải có khả năng phán đoán và sự uyển chuyển. Người can đảm là người không ngừng lo sao cho mình luôn thành thực hoàn toàn, đồng thời cũng phải có khả năng che giấu toàn bộ sự thật khi đó là điều thích đáng. Để trở nên con người tự do, chúng ta cần biết nhận lãnh mọi trách nhiệm của mình, trong khi đó cũng phải biết từ chối những trách nhiệm không phải thực sự là của mình. Để sống một cách mạch lạc và khôn ngoan, hằng ngày chúng ta phải biết đình hoãn khoái cảm và hướng nhìn về tương lai. Tuy nhiên, để sống một cách thích thú, chúng ta cũng phải có khả năng sống và hành động đầy nhiệt tình đối với giây phút hiện tại - miễn là không gây phương hại gì. Nói cách khác, chính bản thân kỷ luật cũng phải được kỷ-luật-hóa. Và thứ kỷ luật cần thiết để ép kỷ luật vào trong kỷ luật không gì khác hơn là sự quân bình; đó là điểm thứ tư và cũng là điểm cuối cùng mà tôi muốn bàn ở đây.

Quân bình là thứ kỷ luật đem lại cho ta sự uyển chuyển. Để thành công trong cuộc sống ở mọi lãnh vực, người ta cần phải có khả năng uyển chuyển phi thường. Hãy lấy một ví dụ về vấn đề giận dữ và biểu lộ sự giận dữ. Trong dòng tiến hóa, vô số thế hệ đi trước đã để lại cho chúng ta (và những sinh vật cấp thấp hơn) khả năng giận dữ để nhờ đó chúng ta được sinh tồn. Chúng ta giận dữ bất cứ khi nào nhận thấy rằng có một kẻ khác đang cố ý xâm phạm địa giới hay tâm giới của mình, hoặc kẻ ấy - bằng cách này hay cách khác - đang cố tình khinh miệt mình. Chúng ta được thúc đẩy phải chiến đấu chống lại. Nếu không biết giận dữ, chúng ta sẽ tiếp tục tỉnh bơ như không có gì xảy ra, cho đến khi bị nuốt chửng hay bị tiêu diệt hoàn toàn. Vì thế, chỉ nhờ giận dữ mà ta có thể tồn tại được. Tuy nhiên, rất thường khi, chúng ta suy xét kỹ hơn và nhận ra rằng kỳ thực người ta không cố tình xúc phạm như mình thoạt tưởng. Hoặc thậm chí ngay cả khi chúng ta thấy rõ là người ta đang thật sự muốn xúc phạm mình, chúng ta cũng có thể nhận ra rằng trả miếng lại họ bằng thái độ giận dữ không hẳn là điều tốt nhất cho chính mình. Vì vậy, những trung khu não bộ cao hơn (tức trí phán đoán) của chúng ta phải có khả năng điều hợp những trung khu não bộ thấp hơn (tức xúc cảm). Để ứng xử một cách tốt nhất trong cuộc sống đầy phức tạp này chúng ta không chỉ cần có khả năng biểu lộ sự giận dữ mà còn cần có khả năng nuốt lấy nó thay vì bộc lộ nó ra nữa. Hơn nữa, chúng ta còn phải biết linh động trong cách thế bộc lộ sự giận dữ. Chẳng hạn, có những lúc cần phải cân nhắc thật kỹ lưỡng trước khi tỏ thái độ giận dữ. Có những lúc khác, phản ứng giận dữ bộc phát ngay lập tức và lạnh lùng; nhiều trường hợp khác, giận dữ một cách bức xúc và ồn ào lại tốt hơn. Do đó, chúng ta không chỉ cần phải biết tùy cơ ứng biến cách thế giận dữ của mình mà còn cần phải biết lựa chọn cách tốt nhất cho những thời điểm thích hợp nhất. Để điều khiển sự giận dữ của mình một cách hoàn toàn đúng đắn, ta cần phải có cả một bài bản uyển chuyển. Bởi thế việc điều hợp sự giận dữ là một công việc phức tạp và thường ít ai có được khả năng này trước tuổi trưởng thành hay thậm chí trước tuổi trung niên. Đây là công việc dài suốt cả đời.

Xem ra người ta ai cũng bị phiền phức - dù ít hay nhiều - vì sự thiếu uyển chuyển trong bài bản phản ứng của mình. Phần lớn công việc trị liệu tâm lý không nhằm gì khác hơn là giúp cho bệnh nhân biết uyển chuyển hơn trong cách thế phản ứng. Xét chung, bệnh nhân càng bất ổn định, lúng túng, sai quấy trong vấn đề này thì công việc trị liệu tâm lý càng trở nên gai góc hơn. Chẳng hạn, tôi đã từng làm việc với một nữ bệnh nhân 32 tuổi khá bạo dạn và mắc chứng đảo điên. (schizophrenic); chị hiểu rằng có những người đàn ông mà chị không nên cho phép họ bước vào nhà mình, và có những người đàn ông khác chị chỉ cho phép vào đến phòng khách thôi, một số khác thì có thể được phép bước vào phòng ngủ. Trước kia, cung cách phản ứng của chị có tính cực đoan: ai cũng có thể đặt chân vào phòng ngủ của chị - rồi khi thấy điều này không ổn, chị cự tuyệt không cho tên đàn ông nào thậm chí bước vào nhà cả. Như vậy, chị đong đưa qua lại hai thái cực: dễ dãi tiếp xúc đến độ lăng loàn và khép kín tự cô lập mình một cách khe khắt. Đối với típ phụ nữ như thế, chúng tôi cần phải dành ra một số buổi làm việc để tập chú vào vấn đề viết hay không viết thư phúc đáp cảm ơn trong giao tế hằng ngày. Đầu tiên chị ghi nhận rằng đối với bất cứ một quà tặng hay thiệp mời nào mà mình nhận được thì mình cũng có bổn phận phải nắn nót một lá thư cám ơn dài dòng trịnh trọng để hồi âm. Dĩ nhiên là chẳng thể nào tiếp tục kham được mớ gánh nặng ấy, cuối cùng chị nghĩ hoặc là mình không viết thư phúc đáp cảm ơn gì cả hoặc là mình xua tay từ chối mọi quà tặng và mọi thiệp mời. Cuối cùng, chị mới thấy ra rằng có những quà tặng không đòi buộc mình phải viết thư cảm ơn, và rằng ngay cả trong các trường hợp phải gửi thư cảm ơn thì lắm khi chỉ cần một lá thư đơn sơ vắn tắt cũng đủ rồi.

Sự vững vàng về mặt tâm thần, vì thế, đòi hỏi một khả năng phi thường để không ngừng điều hợp thế quân bình uyển chuyển giữa các nhu cầu, mục đích, bổn phận, trách nhiệm luôn xung đột nhau. Bản chất của thứ kỷ luật quân bình này hệ tại ở chỗ biết “bỏ”. Lần đầu tiên tôi học được bài học này xảy ra vào một buổi sáng mùa hè năm tôi chín tuổi. Lúc ấy tôi mới tập cưỡi xe đạp và rất thích thú khi thấy mình có một số năng khiếu trong chuyện ấy. Chỗ cách nhà tôi một dặm, con đường đổ dốc rất ngợp và uốn quanh rất gấp ở ngay chân dốc. Bon bon đổ dốc buổi sáng hôm ấy, tôi say sưa với tốc độ như lướt gió của mình. Việc từ khước niềm thú vị này - nghĩa là hãm phanh bớt lại - dường như là một hình phạt vô lý đối với chính mình. Vì thế tôi quyết định giữ nguyên tốc độ thả dốc và tự nhủ sẽ cố gắng giữ tay lái thật vững để vượt qua được chỗ uốn quanh rất gấp dưới kia. Niềm thú vị của tôi đã tắt ngúm chỉ mấy giây sau đó, khi tôi bị quăng vào trong lề đường xa đến năm, sáu mét. Mình mẩy đầy vết trầy sướt và bê bết máu me, còn cái bánh trước của chiếc xe đạp mới mua thì quẹo thành con số 8 do bổ nhào vào một gốc cây. Tất cả cớ sự chỉ vì tôi mất thăng bằng!

Thăng bằng (hay quân bình) quả là một thứ khổ chế, bởi vì hành vi từ khước bao giờ cũng hàm chứa sự đau đớn, tái tê. Trong trường hợp nói trên của tôi, tôi đã không chấp nhận từ khước sự khoái trá của việc phóng xe nhanh và do đó đã bị mất thăng bằng ở khúc đường uốn. Dầu sao, tôi cũng học được bài học rằng đánh mất thăng bằng thì đau đớn hơn nhiều so với việc phải từ khước để giữ được sự thăng bằng. Và bài học ấy, cách này hay cách khác, vẫn còn là một bài học mà tôi phải tiếp tục học đi học lại suốt đời tôi. Vả chăng ai cũng phải học loại bài học ấy thôi, bởi mỗi khi chúng ta cần phải vượt qua những khúc quanh trong cuộc sống mà muốn không bị ngã té, chúng ta cần phải biết từ khước một phần của chính mình. Bằng nếu không chấp nhận từ bỏ như thế, thì chỉ còn có cách là đừng dấn vào trong chuyến đi cuộc đời.

Giải pháp vừa nói xem ra kỳ cục, nhưng không ít người đã chọn cách ấy. họ quyết định dậm chân, không tiếp tục chuyến đi - với mục đích là để tránh phải cắt xén một phần nào đó của chính mình. Thật ra giải pháp ấy không kỳ cục lắm đâu, nếu bạn hiểu hết sự nhức nhối của nỗi đau mà người ta đang muốn tránh né. Xét đại thể, từ bỏ là kinh nghiệm đớn đau nhất mà con người có thể cảm nghiệm được. Trên kia tôi chỉ mới nói đến những từ bỏ theo nghĩa hạn hẹp cục bộ: ví dụ từ bỏ một tốc độ nhanh hay sự thỏa mãn khi nổi giận đùng đùng ngay tức thời, hoặc từ bỏ sự bặt thiệp cầu kỳ của việc viết một lá thư cảm ơn nào đó. Giờ đây tôi muốn nói đến sự từ bỏ đối với những cá tính riêng, những khuôn thước ứng xử cố hữu, những cách nghĩ suy và thậm chí từ bỏ cả một lối sống. Đó là những từ bỏ mà bất cứ ai cũng phải sẵn sàng chấp nhận nếu muốn tiến xa trong hành trình kiếp người.

Mới đây, vào một tối nọ tôi quyết định dành thêm nhiều thời giờ rãnh hơn để thắt chặt thêm mối quan hệ cha con với đứa con gái mười bốn tuổi của mình. Số là trong một vài tuần trước đó, con gái tôi cứ nằn nì tôi đánh cờ với nó; vì thế hôm ấy tôi chủ động tạo niềm vui cho con gái bằng cách rủ nó chơi cờ. Con bé hí hửng đồng ý, và hai bố con tôi ngồi vào bàn cờ, đánh một ván ngang ngửa và quyết liệt. Thế nhưng, vì hôm sau con bé phải đi học, nên nó rất sốt ruột khi đã gần tới chín giờ - giờ đi ngủ của nó - mà ván cờ vẫn chưa xong. Nó hối tôi chơi nhanh mỗi lượt tới phiên tôi đi cờ. Tôi vốn biết con gái mình rất có kỷ luật trong giờ giấc đi ngủ và thức dậy, song tôi lại nghĩ rằng con bé chắc hẳn có thể phá lệ một lần chẳng sao. Vì thế tôi bảo nó: “Kìa, con có thể đi ngủ trễ hơn mọi hôm một chút chứ? Chúng ta không nên bắt đầu một ván cờ mà mình không thể kết thúc. Vả lại, cuộc cờ đang thú vị mà, phải không con gái cưng?” Thế là chúng tôi tiếp tục chơi mười lăm phút nữa, và con gái tôi bắt đầu tỏ ra bất an. Tôi thì cứ nhẩn nha tính kỹ trước khi đi một nước cờ. Cuối cùng, cô bé bệu bạo” “Bố ơi, bố làm ơn đi nhanh nhanh một chút đi!” Tôi trả lời: “Không được, đừng nóng nảy. Đánh cờ là một môn chơi nghiêm túc. Nếu con muốn chơi nghiêm túc, con phải chơi chậm rãi. Nếu con muốn chơi vờ vịt lấy lệ thôi, thì chẳng thà con đừng chơi gì cả”. Con bé lại khổ sở, miễn cưỡng ngồi thêm mười lăm phút nữa. Cuối cùng, thình lình nó oà lên khóc, nó đứng dậy tuyên bố chịu thua ván cờ và vừa khóc vừa chạy lên cầu thang.

Ngay lập tức, tôi cảm thấy như mình vẫn còn là một chú bé chín tuổi ngày xưa, mình mẩy rướm máu nằm bên lề đường, bên cạnh cái xe đạp lăn kềnh thảm hại ấy. Rõ ràng là tôi đã phạm sai lầm. Rõ ràng là tôi đã lại té ngã tại một khúc quanh trên đường đi. Tôi đã bắt đầu buổi tối với ý muốn tạo niềm vui cho con gái mình, để rồi chín mươi lăm phút sau đó con bé đầm đìa nước mắt tức giận bố nó vô cùng - dù không dám nói ra. Sai lầm ở chỗ nào? Câu trả lời quá rõ. Nhưng tôi đã không muốn hiểu ra điều đó, và tôi đã bỏ ra hai tiếng đồng hồ để phá hỏng buổi tối ấy bằng việc đánh giá rằng chuyện thắng một ván cờ quan trọng hơn nhiều so với chuyện phát triển mối quan hệ thân mật với con gái mình. Kết quả là tôi bị tái tê. Tại sao tôi lại mất quân bình đến như vậy? Dần dần tôi thấy ra nguyên nhân do ở tham vọng chiến thắng của tôi quá lớn và lẽ ra tôi phải biết cắt bỏ bớt lòng tham vọng này. Thế nhưng ngay cả việc cắt bỏ bớt thôi cũng được thấy dường như là điều không thể được. Trong đời tôi, tham vọng chiến thắng đã tỏ ra hữu ích đáng kể, cụ thể là tôi đã đạt được nhiều thành quả. Vậy thì làm sao có thể chơi một ván cờ mà không muốn thắng cuộc? Tôi chưa bao giờ chấp nhận làm một việc gì mà không làm một cách đầy nhiệt tình. Làm sao tôi có thể chơi cờ một cách nhiệt tình mà đồng thời không cần quan tâm đến chuyện thắng thua? Dẫu sao thì cuối cùng tôi đã phải thay đổi cách nghĩ của mình, vì tôi biết rõ rằng chính sự nhiệt tình, ý chí ganh đua và tính nghiêm túc của mình đã hình thành một lối ứng xử và lối ứng xử ấy kéo dài cho đến khi nó làm cho con gái tôi ôm mặt trong nước mắt đầm đìa. Nếu tôi không điều chỉnh được lối ứng xử ấy của mình thì chắc chắn nó sẽ còn đem lại nhiều nước mắt và cay đắng khác. Và tôi sẽ còn phải tiếp tục tái tê hoài.

Bây giờ thì cơn choáng váng của buổi tối hôm ấy đã trôi qua. Tôi đã biết dứt bỏ phần nào lòng khát khao thắng cuộc của mình. Tham vọng quá quắt ấy không còn nữa. Nó đã chết. Tôi đã giết chết nó. Tôi đã thay thế nó bằng khát vọng được cuộc trong tư cách làm cha mẹ. Hồi còn bé khát vọng thắng những ván cờ đã tỏ ra hữu ích cho tôi. Bây giờ làm cha, tôi nhận ra rằng khát vọng ấy không được phép ở lại trong mình nữa.

Báo cáo nội dung xấu