Của Cái Của Các Dân Tộc - Quyển 4 - Chương 02

Chương II

HẠN CHẾ NHẬP NHỮNG HÀNG NGOẠI CÓ THỂ SẢN XUẤT Ở TRONG NƯỚC

Bằng phương pháp hạn chế nhập các hàng ngoại có thể sản xuất được ở trong nước qua việc đánh thuế cao hoặc cấm hoàn toàn, việc giữ độc quyền thị trường trong nước có thể được đảm bảo tương đối cho nền công nghiệp trong nước nhằm sản xuất các hàng hóa phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng nội địa. Như vậy, việc nghiêm cấm nhập các loại gia súc hoặc các loại thực phẩm muối từ nước ngoài đã đảm bảo cho các người chuyên nuôi gia súc lấy thịt bán ở Anh giữ được độc quyền thị trường trong nước về thịt bò và thịt lợn. Các khoản thuế cao đánh vào việc nhập ngũ cốc trong thời kỳ mà trong nước chỉ sản xuất vừa đủ dùng cho nhu cầu của dân chúng cũng chẳng khác gì việc cấm nhập khẩu và tạo cho những người trồng ngũ cốc một sự thuận lợi tương tự. Cũng tương tự như trên, khi cấm nhập các mặt hàng len dạ từ nước ngoài để giữ quyền lợi cho các nhà sản xuất hàng len dạ trong nước. Việc sản xuất tơ lụa dù hoàn toàn làm bằng nguyên liệu nhập từ bên ngoài, mới đây cũng được hưởng hoàn cảnh thuận lợi này. Tuy ngành sản xuất vải lanh chưa được hưởng quy chế này nhưng cũng đang trên đường đạt tới sự bảo hộ cần thiết đó. Nhiều nhà sản xuất, chế tạo các loại hàng hóa ở Anh hoặc hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn giữ độc quyền về các mặt hàng họ sản xuất tiêu dùng đối với người dân trong nước. Các mặt hàng trong nước được chính phủ Anh bảo trợ chống các hàng ngoại nhập, dù cấm hoàn toàn hoặc cấm dưới một số điều kiện nhất định, đã vượt quá những điều mà những người chưa thông hiểu luật thuế quan có thể dễ dàng phỏng đoán được.

Việc làm cho thị trường trong nước nắm độc quyền một số mặt hàng này thường mang lại sự khuyến khích lớn cho các ngành sản xuất đó, và cũng hướng việc sử dụng lao động và tiền vốn nhiều hơn vào các ngành này so với khi không có độc quyền. Nhưng liệu việc làm này có chiều hướng làm tăng nền công nghiệp chung của toàn xã hội hoặc vạch ra cho nền công nghiệp một hướng phát triển có lợi nhất, thì có lẽ chưa hoàn toàn rõ ràng.

Nền công nghiệp chung của toàn xã hội không thể vượt quá những gì mà tổng số vốn của xã hội có thể khai thác. Vì số thợ được sử dụng để làm việc cho một người chủ nào đó phải chiếm một tỷ lệ nhất định trong số vốn của người chủ, cho nên tổng số thợ được sử dụng trong một xã hội cũng phải chiếm một tỷ lệ nào đó trong tổng số vốn của xã hội, và tất nhiên, không thể vượt quá tỷ lệ đó được.

Nền thương mại không có luật lệ nào có khả năng làm tăng số lượng ngành nghề của bất kỳ xã hội nào vượt quá số vốn có thể nuôi dưỡng các ngành nghề đó. Nó chỉ có thể lái một số ngành vào một hướng mà nếu không lái, thì chúng không hướng vào đó, và không có gì chắc chắn là hướng đó lại mang lại lợi ích cho xã hội nhiều hơn là hướng mà lẽ ra số vốn đã được tự nguyện đầu tư vào đó.

Mỗi cá nhân đều cố gắng tìm ra cho mình một công việc sản xuất có lợi nhất trong phạm vi số vốn người đó có. Cá nhân đó làm như thế là vì lợi ích của bản thân, chứ không phải vì lợi ích của toàn xã hội. Nhưng việc nghiên cứu một công việc có lợi cho bản thân tất nhiên, hoặc nhất thiết sẽ dẫn anh ta đến chỗ tìm một công việc có lợi nhất cho xã hội.

Thứ nhất, mỗi cá nhân cố gắng sử dụng số vốn anh ta có trong tay càng gần nhà bao nhiêu càng hay, và do đó có thể giúp đỡ được ngành công nghiệp trong nước càng nhiều càng tốt miễn là anh ta thu được một món tiền lời thông thường, hoặc không phải kém quá nhiều so với lợi nhuận thông thường.

Như vậy, với số lợi nhuận tương đương hay gần như tương đương, mỗi nhà buôn sẽ ưa thích buôn bán hàng trong nước hơn là buôn bán hàng tiêu dùng của nước ngoài, và thích buôn bán hàng tiêu dùng của nước ngoài hơn là ngành vận tải từ nước nọ sang nước kia. Nhà buôn đó luôn luôn nhìn thấy số vốn của ông ta khi buôn bán các hàng hóa trong nước, không như khi buôn hàng ngoại vì thường thường ông ta chẳng trông thấy số vốn của mình hiện nằm ở đâu. Ông nhà buôn đó hiểu rất rõ tính tình và hoàn cảnh của những người mà ông ta tin cậy giao phó tiền nong của mình, và nếu ông ta bị họ lừa đảo, ông cũng biết dùng luật pháp hiện hành trong nước để bắt họ phải bồi thường khi cần thiết. Trong ngành vận tải quốc tế, số vốn của nhà buôn bị chia ra ở hai nước ngoài khác nhau và không một phần vốn nào cần phải đưa về nước hoặc đặt dưới sự chỉ huy và điều hành trực tiếp của ông cả. Số vốn mà một nhà buôn ở Amsterdam sử dụng để vận chuyển ngũ cốc từ Konnigsberg đến Lisbon và vận chuyển hoa quả và rượu vang từ Lisbon đến Konnigsberg thường thường nửa này nằm ở Konnigsberg và nửa kia ở Lisbon. Không có phần vốn nào quay trở về Amsterdam cả. Nơi cư trú của ông ta buộc phải hoặc ở Konnigsberg hoặc ở Lisbon, và chỉ trong những trường hợp rất đặc biệt ông ta mới muốn trở về Amsterdam. Tuy nhiên, trạng thái băn khoăn, bứt rứt khó chịu mà nhà buôn đó luôn luôn cảm thấy khi phải tách xa số vốn của mình, thường đưa ông đến quyết định là mang một phần trong số hàng ông có ở Konnigsberg và ở Lisbon về Amsterdam, và mặc dù làm như thế ông phải chịu phí tốn hai lần bốc dỡ hàng hóa cũng như phải trả một vài thứ thuế khác nữa, nhưng vì lợi ích bảo toàn một phần vốn mà ông muốn chắc chắn nắm hoàn toàn trong tay, ông sẵn sàng chịu các khoản chi phí đó. Chính bằng cách này mà mỗi nước khi có một phần kha khá trong ngành vận tải quốc tế, lại trở thành một trung tâm lớn hoặc một thị trường tổng hợp để bán tất cả các loại hàng ngoại thuộc nhiều nước khác nhau.

Nhà buôn vì muốn tránh một lần bốc dỡ nữa, nên tìm mọi cách bán tại thị trường trong nước càng nhiều càng tốt và làm như thế ông ta vô tình chuyển ngành vận tải quốc tế của ông ta thành một ngành buôn bán hàng nước ngoài dùng cho nhu cầu tiêu dùng trong nước. Cũng cùng cách như vậy, một nhà buôn đang tiến hành công việc mua bán cho nước ngoài để phục vụ cho tiêu dùng ở các nước đó, ông ta mua các loại hàng hóa để bán ở thị trường nước ngoài, nhưng sẽ thấy sung sướng, nếu thu được một số lợi nhuận tương đương hay gần như tương đương, khi đem mang bán các hàng hóa đó tại ngay thị trường trong nước. Ông ta tránh được mọi sự rủi ro có thể xẩy ra khi mang hàng tiêu dùng ra bán ở nước ngoài; và khi thấy có thể được và cũng có lợi, ông ta chuyển hẳn nghề buôn hàng tiêu dùng cho nước ngoài thành một nghề buôn bán tại thị trường trong nước. Vậy thị trường trong nước vẫn là trung tâm, nếu chúng ta có thể nói được như vậy, mà xung quanh nó luôn luôn luân chuyển mọi số vốn của dân chúng làm thương nghiệp và công nghiệp tại mỗi nước, và mọi số vốn đều hướng vào nó, mặc dù có thể vì lý do này nọ một phần số vốn đó có thể bị đưa ra khỏi đất nước để sử dụng vào những công việc ở những nơi xa hơn. Nhưng, như đã được trình bày ở trên một số vốn dùng cho công việc buôn bán trong nước tất yếu phải huy động đến ngành công nghiệp trong nước và mang lại thu nhập và công việc làm cho dân chúng trong nước nhiều hơn là số vốn tương đương dùng cho công việc buôn bán hàng tiêu dùng với nước ngoài và dùng cho công việc vận tải hàng hóa giữa các nước. Cũng với số lợi nhuận tương đương hoặc gần như tương đương, mỗi cá nhân đều có xu hướng muốn sử dụng số vốn mình có một cách có lợi cho ngành công nghiệp trong nước và mang lại thu nhập và công việc làm cho phần lớn cư dân ở chính nước mình.

Thứ hai, mỗi một cá nhân sử dụng tiền vốn riêng để phát triển nền công nghiệp trong nước tất nhiên đều mong muốn làm thế nào để cho ngành, nghề của mình mang lại giá trị lớn nhất có thể được.

Sản phẩm của nền công nghiệp là những gì mà lao động tạo ra thêm cho nguyên vật liệu được tác động đến. Tùy theo giá trị các sản phẩm này lớn hay nhỏ mà người chủ thu được tiền lời nhiều hay ít. Nhưng rõ ràng là vì lợi ích của chính mình mà bất kỳ ai cũng sử dụng vốn riêng của mình để phát triển công nghiệp, và người đó sẽ luôn luôn cố gắng sử dụng vốn sao cho nó mang lại giá trị lớn nhất hoặc có thể đổi lấy được số lượng tiền hay hàng hóa khác nhiều nhất.

Nhưng số thu nhập hàng năm của mỗi xã hội luôn luôn đúng bằng giá trị trao đổi của toàn bộ sản phẩm hàng năm của nền công nghiệp. Vì mỗi cá nhân đều cố gắng hết sức sử dụng đồng vốn của mình để phát triển công nghiệp trong nước và làm cho sản phẩm có thể đạt được giá trị cao nhất, cho nên mỗi người tất nhiên đã lao động cực nhọc để tăng số thu nhập hàng năm của toàn xã hội. Anh ta thực ra chẳng có ý định nâng cao lợi ích của quần chúng và anh ta cũng chẳng biết là có thể nâng cao lợi ích đó lên được bao nhiêu.

Anh ta chỉ nghĩ đến sự an toàn cho chính bản thân khi muốn hỗ trợ nền công nghiệp trong nước hơn là ngành công nghiệp nước ngoài. Khi hướng ngành sản xuất của anh ta vào việc làm ra những sản phẩm có giá trị cao nhất, anh ta chỉ có ý định là thu được nhiều lợi nhuận cho chính mình. Trong trường hợp này cũng như trong nhiều trường hợp khác, anh ta được dẫn dắt bởi một bàn tay vô hình để thực hiện một mục đích mà thực ra anh ta không hề nghĩ đến. Cũng chẳng phải vì thế mà xã hội tồi tệ đi. Khi theo đuổi lợi ích riêng, anh ta thực ra đã thúc đẩy lợi ích chung của toàn xã hội nhiều hơn là khi thực sự có ý định làm như vậy. Tôi chưa được biết nhiều về những việc làm có ích của những kẻ đã giả danh buôn bán vì lợi ích công cộng. Đó là sự hào nhoáng bề ngoài mà không phải nhà buôn nào cũng làm như vậy, cho nên chỉ cần rất ít lý lẽ cũng đủ để khuyên can họ không nên làm như vậy nữa.

Vậy nên tiến hành loại ngành, nghề công nghiệp gì đây để số vốn mang sử dụng có khả năng làm ra được sản phẩm có giá trị lớn nhất, việc này do từng cá nhân tự quyết định tùy theo tình hình của địa phương. Chắc họ dự tính nên làm ngành nghề gì còn tốt hơn rất nhiều so với bất kỳ nhà chính khách hay nhà lập pháp nào.

Một nhà chính khách muốn chỉ đạo các tư nhân nên dùng vốn của họ theo cách nào có lợi nhất, tất nhiên không những đã tự ràng buộc mình vào một việc không cần thiết, mà còn có quyền lực mà không thể giao phó không những chỉ cho một người mà cả một hội đồng hay thượng nghị viện. Và quyền lực đó không gây ra nguy hiểm ở bất kỳ nơi nào, trừ khi ở trong tay một người điên rồ và quá tự tin rằng mình có thể làm được tất cả.

Trong hầu hết mọi trường hợp, sẽ là một luật lệ vô tác dụng hoặc có hại, nếu làm cho thị trường trong nước mang tính độc quyền đối với những sản phẩm làm ra, và trong một số ngành mỹ nghệ và công nghiệp điều đó có nghĩa là hướng dẫn tư nhân nên phải sử dụng vốn của họ như thế nào. Nếu như sản phẩm trong nước làm ra rẻ như hàng nhập ngoại thì luật lệ đó trở nên vô tác dụng. Nếu sản phẩm làm ra lại không rẻ và cũng chẳng tốt hơn hàng ngoại thì luật lệ đó thường là có hại. Mỗi người chủ gia đình đều thực hiện nguyên tắc là không nên cố gắng làm một thứ gì tại gia đình nếu làm thứ đó đắt và tốn kém hơn đi mua. Người thợ may không tìm cách đóng giày cho bản thân mình mà thấy tốt hơn là nên mua của người thợ đóng giày. Người thợ đóng giày chẳng bao giờ lại may quần áo cho chính bản thân mà phải nhờ đến người thợ may. Người nông dân thì chẳng thể tự đóng giày mà cũng chẳng có khả năng tự may lấy quần áo, người đó phải nhờ đến những người thợ tài hoa nói trên. Tất cả mọi người đều thấy cần phải sử dụng kỹ năng, kỹ xảo của mình một cách có lợi và dùng một phần sản phẩm làm ra, hay nói cho đúng ra, giá bán cái phần sản phẩm đó, để mua bất kỳ thứ gì mà họ cần dùng.

Các gia đình tư nhân thường rất thận trọng, khôn ngoan trong lĩnh vực đó. Nếu một nước ngoài nào đó lại có thể cung cấp cho chúng ta hàng hóa rẻ hơn là do chính tay chúng ta làm ra, tốt hơn hết là nên mua hàng hóa đó của họ bằng cách bán đi một phần sản phẩm của nền công nghiệp của chúng ta, khi công nghiệp của chúng ta có một số lợi thế. Nền công nghiệp tổng hợp của đất nước, như chúng ta đã biết, là cân đối với tổng số vốn được sử dụng và sẽ không thể vì thế mà bị giảm đi, nhưng phải tìm ra cách sử dụng nền công nghiệp như thế nào có lợi nhất. Vậy nền công nghiệp chắc chắn không thể được dùng một cách có lợi nhất khi hướng vào việc sản xuất hàng hóa mà nó có thể mua rẻ hơn là khi nó làm ra. Giá trị của tổng sản phẩm hàng năm chắc hẳn sẽ bị giảm đi khi số vốn không được sử dụng vào việc sản xuất ra các hàng hóa có giá trị cao hơn các hàng hóa đang được hướng dẫn sản xuất. Theo như giả thiết trên, hàng hóa đó có thể được mua rẻ hơn từ nước ngoài so với làm ra ở trong nước. Vì thế, nó đáng lẽ ra có thể mua chỉ bằng một phần sản phẩm, hoặc cũng giống như nhau khi nói mua chỉ bằng giá một phần sản phẩm mà nền công nghiệp sử dụng một số vốn tương đương chắc đã sản xuất ra ở trong nước, nếu để cho công việc sản xuất cứ đi theo hướng tự nhiên của nó. Do đó, nền công nghiệp trong nước lại chuyển hướng từ một công việc sản xuất có lợi sang một công việc sản xuất kém lợi hơn, và giá trị trao đổi của sản phẩm hàng năm của nền công nghiệp, đáng lẽ ra tăng lên theo như ý định của nhà làm luật thì tất yếu lại bị giảm đi do tác động của mỗi lần điều chỉnh như vậy.

Bằng những lần điều chỉnh như vậy, một mặt hàng sản xuất, chế tạo nào đó đôi khi có thể được hoàn thành sớm hơn là dự kiến và sau một thời gian có thể làm ra ở trong nước với giá rẻ tương đương hoặc còn rẻ hơn so với nước ngoài. Nhưng mặc dù nền công nghiệp của xã hội có thể tiến hành có lợi ở một khâu sản xuất nào đó nhanh hơn so với dự kiến, không thể vì thế mà tổng số các ngành công nghiệp hoặc tổng số thu nhập của chúng lại có thể tăng do mỗi lần điều chỉnh như vậy.

Nền công nghiệp của xã hội chỉ có thể tăng theo cùng tỷ lệ với việc tăng vốn dùng cho nó, và vốn dùng cho nền công nghiệp chỉ tăng theo cùng tỷ lệ với những gì có thể dần dần tiết kiệm được từ số thu nhập. Nhưng tác động trực tiếp của mỗi lần điều chỉnh như vậy là giảm bớt số thu nhập, và những gì làm giảm thu nhập chắc hẳn không thể nào làm tăng số vốn nhanh hơn khi để cho nền công nghiệp tự nó phát triển một cách tự nhiên theo đúng với quy luật của nó.

Mặc dù do thiếu những lần điều chỉnh như vậy, xã hội sẽ không bao giờ đạt được những thứ hàng công nghiệp như đã dự tính; xã hội cũng không vì thế mà nhất thiết bị nghèo hơn trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình phát triển. Trong mỗi thời kỳ thuộc quá trình tồn tại của nó, toàn bộ số vốn và nền công nghiệp của xã hội có thể hãy còn được sử dụng, mặc dù vào các mục đích khác nhau, theo một cách có lợi nhất vào lúc đó. Trong mỗi thời kỳ, số thu nhập của xã hội có thể đạt tới mức lớn nhất mà số vốn có thể mang lại, và cả vốn lẫn thu nhập có thể tăng với tốc độ nhanh nhất có thể có được.

Những lợi thế tự nhiên mà một nước có được đối với một nước khác trong việc sản xuất các mặt hàng nào đó đôi khi lớn tới mức mà mọi người trên thế giới đều công nhận là phí công vô ích khi cạnh tranh với nước đó về các mặt hàng đó. Bằng những tấm kính lợp, những luống đất lợp kính được bón phân, ủ nóng để giữ nhiệt và những bức tường sưởi nóng, người dân xứ Scotland có thể trồng được những loại nho rất tốt và có thể sản xuất ra thứ rượu nho tuyệt vời với giá đắt gấp 30 lần so với loại rượu nho ngon tương đương nhập từ nước ngoài. Vậy có hợp lý không khi đưa ra một đạo luật ngăn cấm việc nhập tất cả các loại rượu nho ngoại chỉ vì lý do đơn giản là khuyến khích sản xuất rượu vang đỏ và rượu vang Burgundy ở xứ Scotland không? Nhưng nếu là một điều phi lý quá đỗi khi tiến hành một công việc sản xuất đòi hỏi gấp 39 lần nhiều hơn về mặt tiền vốn và tính siêng năng, cần cù lao động của đất nước, so với số tiền cần thiết để mua một số lượng hàng hóa cần dùng, tương tự từ nước ngoài, thì chắc cũng là một điều phi lý, mặc dù không được rõ ràng, hiển nhiên như vậy, tuy cũng vẫn đúng như thí dụ nói trên, khi tiến hành một công việc sản xuất đòi hỏi tốn kém thêm 1/30, hoặc thậm chí 1/300 số vốn và lao động. Ở đây chúng ta không nói đến tầm quan trọng của lợi thế, mà nước này có được so với nước khác, là một lợi thế tự nhiên hay một lợi thế do cố gắng mà đạt được. Chừng nào nước này có những lợi thế đó mà nước kia lại cần thì sẽ luôn luôn tốt hơn và có lợi hơn là nước kia nên mua hàng của nước có lợi thế hơn là tự mình làm ra. Đây chỉ là một lợi thế riêng mà một người thợ có được so với một người thợ khác. Cả hai đều thấy cùng có lợi khi mua hàng của nhau còn hơn là mỗi người cố làm mặt hàng không thuộc về ngành nghề của mình.

Các nhà buôn và các nhà sản xuất công nghiệp thu được mối lợi lớn nhất từ sự độc quyền này tại thị trường trong nước. Việc ngăn cấm nhập súc vật và các loại thực phẩm muối từ nước ngoài cũng không có lợi nhiều cho những người chăn nuôi gia súc để lấy thịt, và việc đánh thuế nặng vào ngũ cốc cũng không có lợi cho nhà nông như các luật lệ khác cùng loại này đối với những người buôn bán và các nhà sản xuất công nghiệp. Các hàng công nghiệp loại tốt được nhiều người ưa chuộng rất dễ chuyên chở từ nước này sang nước khác so với thóc lúa, súc vật. Do đó ngành ngoại thương chủ yếu chú trọng tìm kiếm và vận chuyển các hàng hóa công nghiệp. Đối với các mặt hàng sản xuất, chế tạo, người ngoại quốc sẵn sàng bán rẻ hơn tại chính ngay thị trường trong nước các hàng hóa của họ dù chỉ có lãi rất ít để cạnh tranh với những người thợ của chúng ta. Nhưng những người nước ngoài không thể cạnh tranh với nước sở tại về các sản phẩm nông nghiệp, trừ phi họ được lãi rất nhiều. Nếu các hàng ngoại được nhập tự do, một số hàng công nghiệp trong nước chắc chắn sẽ không bán được và một số nhà sản xuất sẽ bị phá sản. Một số vốn đáng kể và một số ngành nghề công nghiệp hiện nay đang tiến hành sản xuất các hàng hóa đó sẽ bị buộc phải chuyển sang cách ngành nghề khác. Nhưng các sản phẩm thô, dù được phép nhập tự do đến đâu, chắc sẽ không có tác động như trên đối với nông nghiệp trong nước.

Nếu súc vật được nhập tự do từ nước ngoài, ngành chăn nuôi gia súc để bán lấy thịt ở Anh cũng chẳng vì thế mà bị ảnh hưởng quá nhiều. Có thể nói gia súc sống là một thứ hàng hóa rất tốn kém về mặt vận chuyển, nhất là bằng đường biển, tốn phí sẽ ít hơn nhiều khi dùng đường bộ. Gia súc có thể chăn dắt đến chợ để bán cho người mua nếu người chăn nuôi sử dụng đường bộ. Nhưng gia súc vận chuyển bằng đường biển phải chịu rất nhiều chi phí và phiền phức vì còn phải mang theo cỏ khô và nước uống. Chính vì quãng đường biển giữa Ai Len và Anh khá ngắn, cho nên gia súc được nhập dễ dàng từ Ai Len sang Anh. Việc nhập gia súc từ Ai Len vào Anh thoạt đầu chỉ cho phép thực hiện trong một thời gian nhất định, nhưng sau đó được phép vĩnh viễn, nhưng việc nhập đó không ảnh hưởng nhiều tới những người chăn nuôi gia súc để bán ở Anh. Các vùng đất của Anh nằm sát biển Ai Len đều được sử dụng để chăn nuôi gia súc. Gia súc xuất từ Ai Len sang Anh không phải để bán cho các vùng đó. Chúng phải vượt qua những khoảng đường dài trước khi đến được chợ có thể bán được, và như thế cũng khá tốn kém về chi phí, đó là chưa kể đến các điều phiền phức gặp phải.

Súc vật đã vỗ béo thì không thể đưa đi xa để bán được. Súc vật gầy có thể nhập vào các nước khác để bán nhưng lại động chạm đến lợi ích của những người chuyên chăn nuôi gia súc làm giống, tuy có lợi cho những người vỗ béo súc vật để bán. Nếu mua súc vật gầy hạ giá rồi sau đó đem vỗ béo họ cũng có thể kiếm được một số tiền lời. Từ khi có lệnh cho phép nhập súc vật từ Ai Len vào Anh, với giá súc vật gầy bán khá rẻ như vẫn bán hiện nay, các vùng chăn nuôi gia súc ở Anh hình như cũng chẳng bị ảnh hưởng gì nhiều. Những người dân thường Ai Len đôi khi chống đối khá mạnh việc xuất khẩu gia súc. Nhưng những người làm nghề xuất khẩu gia súc được sự bảo vệ của pháp luật chắc chắn cứ tiếp tục công việc của họ chẳng chút ngần ngại vì đó là một ngành mang lại khá nhiều lợi nhuận, và họ sẽ chinh phục được sự chống đối của quần chúng.

Các vùng nuôi và vỗ béo súc vật để bán là những vùng đất đai đã được cải tạo trong khi các vùng chăn nuôi súc vật thường thường là những nơi hoang dã. Súc vật gầy bán được giá cao do việc nâng cao giá trị các vùng hoang dã cũng là một phần thưởng cho công việc cải tạo đất đai. Đối với bất kỳ một vùng nào mà đất đai đã được hoàn toàn cải tạo, thì tốt và có lợi hơn là vùng đó nên nhập súc vật gầy để vỗ béo hơn là chăn nuôi súc vật. Vì thế, Hà Lan đang làm theo nguyên tắc này. Các vùng núi của xứ Scotland, Wales và Northumberland là những nơi không có khả năng cải tạo đất, cho nên thiên nhiên làm cho dân cư ở đó trở thành những người chăn nuôi gia súc. Việc tự do cho nhập súc vật từ nước ngoài có tác dụng ngăn cản các vùng chăn nuôi không được nâng giá bán súc vật một cách quá đáng và tránh đánh thuế vào các vùng đất đã được cải tạo và trồng trọt ở trong nước.

Ngay cả việc nhập tự do các thực phẩm muối (thịt muối) cũng đụng chạm rất ít tới lợi ích của những người chăn nuôi gia súc ở Anh, chẳng khác gì việc nhập súc vật sống. Các loại thịt muối cũng rất cồng kềnh trong việc vận chuyển, và hơn nữa, cũng chẳng thể nào ngon bằng thịt tươi sống, đó là chưa kể chất lượng thịt muối bị kém đi nhiều và tốn kém khá nhiều chi phí và sức lao động nên giá thành cũng cao. Thịt muối vì thế không thể cạnh tranh nổi với thịt tươi sống mặc dù cũng có thể cạnh tranh với các loại thịt muối khác ở trong nước. Thịt muối thường dùng để cung cấp thực phẩm cho các chuyến tàu viễn dương và cho các công việc tương tự chứ không có thể cấu thành một phần thực phẩm đáng kể trong nhu cầu tiêu dùng của dân chúng. Kể từ khi có lệnh cho phép nhập tự do, các thực phẩm muối chỉ có thể nhập với số lượng nhỏ vào Anh từ Ai Len, nó chứng tỏ trên thực tế rằng những người chăn nuôi gia súc ở Anh chẳng có gì đáng lo ngại cả. Giá thịt bò, thịt lợn ở Anh vẫn giữ vững mặc dù thịt được phép nhập khẩu tự do.

Ngay cả việc nhập ngũ cốc từ nước ngoài cũng ảnh hưởng rất ít tới nông dân Anh. Ngũ cốc còn cồng kềnh hơn nhiều so với thịt muối. Một pound lúa mì trị giá một penny cũng đòi hỏi mọi chi phí chẳng khác gì một pound thịt trị giá bốn penny. Một số lượng nhỏ ngũ cốc nhập từ nước ngoài ngay cả vào những thời kỳ khan hiếm thóc lúa nhất có thể làm cho những người nông dân chúng ta vui lòng, và do đó, họ chẳng sợ vì việc nhập ngũ cốc tự do cả. Số lượng ngũ cốc trung bình nhập khẩu hàng năm theo sự đánh giá của một tác giả có nhiều hiểu biết về công việc buôn bán ngũ cốc, chỉ lên tới 23,728 góc tạ Anh các loại thóc lúa và không thể vượt quá 1/571 tổng số lượng tiêu dùng cả năm. Nhưng do tiền thưởng mà người ta xuất khẩu thóc lúa nhiều hơn vào những năm được mùa, vì thế nó lại gây ra việc nhập khẩu nhiều hơn vào những năm khan hiếm. Do đó sự thừa thãi thóc lúa của năm này không thể bù trừ cho sự khan hiếm của năm kia, và do số lượng thóc lúa trung bình xuất khẩu tất yếu phải tăng do có tiền thưởng, cho nên, trong tình hình trồng trọt, cày cấy kém thuận lợi, số lượng thóc lúa cần phải nhập cũng tăng lên. Nếu không có tiền thưởng, do đó ít thóc lúa hơn được mang xuất khẩu, chắc chắn một số lượng thóc lúa sẽ được nhập khẩu ít hơn hiện nay. Như thế, các nhà buôn, các người làm công việc thu mua vận chuyển thóc lúa giữa Anh và nước ngoài sẽ chẳng có nhiều công việc để làm và sẽ bị thiệt hại lớn, nhưng các nhà quý phái, các nhà giàu ở nông thôn cũng như nông dân sẽ chỉ bị thiệt hại rất ít. Chính ở các nhà buôn thóc lúa hơn là ở các nhà quý phái ở nông thôn và nông dân mà tôi đã nhận thấy sự lo lắng về việc đổi mới và tiếp tục khuyến khích bằng tiền thưởng.

Các nhà quý phái ở nông thôn và nông dân là những người ít bị ảnh hưởng nhất bởi những mặt tồi tệ của chủ nghĩa độc quyền. Một nhà kinh doanh công nghiệp đôi khi thấy hoảng hốt khi có một xưởng hay một nhà máy sản xuất cùng loại hàng như của ông ta lại được xây dựng trong vòng 20 dặm Anh quanh nơi ông ta đang sản xuất. Nhà công nghiệp Hà Lan chuyên sản xuất các mặt hàng len ở thành phố Abbeville tuyên bố ông không thể chấp nhận có một nhà máy sản xuất hàng len tương tự được thiết lập trong vòng 30 lý (league bằng 4 km) trong phạm vi thành phố nơi ông ta ở. Ngược lại, các nhà quý phái ở nông thôn và nông dân thường sẵn sàng giúp đỡ thúc đẩy hơn là cản trở công việc cày cấy, trồng trọt ở các nông trại và các thái ấp của các bạn láng giềng. Họ chẳng có bí mật gì phải giấu nhau như trường hợp các nhà sản xuất công nghiệp. Hơn nữa, họ còn thích truyền cho nhau biết những phương pháp trồng trọt có hiệu quả hơn và những kỹ thuật canh tác mà họ thấy có lợi cho sự phát triển nông nghiệp chung. Cụ Cato nói: Pius questus, Stabilissimusque, minimeque invidiosus; minimeque male cogitanies sunt, qui iri eo studio occupati sunt. Các nhà quý phái và nông dân sống cách xa nhau trong các vùng nông thôn rộng lớn không thể dễ dàng liên kết với nhau như các nhà buôn và các nhà công nghiệp, những người này sống tập trung ở thành thị và có sẵn tư tưởng và thói quen phường hội ăn sâu trong tâm trí họ, tất nhiên họ tìm mọi cách dành giật những đặc quyền đặc lợi để làm giàu bằng con đường độc quyền trong việc bán cho các người tiêu dùng hàng của họ. Họ chính là những người đã có sáng kiến đưa ra những hạn chế đối với việc nhập hàng ngoại để giữ độc quyền thị trường trong nước. Có nhẽ vì muốn bắt chước những người buôn bán và sản xuất công nghiệp ở thành thị mà họ cho là có ý định dùng thủ đoạn độc quyền để áp bức bóc lột họ, cho nên các nhà quý phải ở nông thôn và nông dân ở Anh đã quên tính rộng lượng sẵn có trong họ để đòi cho được đặc quyền cung cấp thóc lúa và thịt tươi sống cho dân chúng trong nước.

Ngăn cấm bằng một đạo luật việc nhập thóc lúa và gia súc ngoại quốc trên thực tế là một việc làm ngăn cấm nhân dân và nền công nghiệp trong nước không bao giờ có được một sản lượng vượt quá mức sản phẩm thô thu hoạch được từ nông nghiệp.

Tuy thế, có hai trường hợp thường có lợi khi áp đặt những điều khoản nghiêm ngặt, nặng nề đối với người nước ngoài để khuyến khích nền công nghiệp trong nước.

Trường hợp thứ nhất, khi có một vài ngành công nghiệp thực sự cần thiết cho sự nghiệp bảo vệ đất nước. Ví dụ, việc phòng thủ nước Anh dựa rất nhiều vào số thủy thủ và ngành hàng hải. Đạo luật về hàng hải cần phải tạo cho thủy thủ và các hoạt động chuyên chở bằng đường biển một sự độc quyền về buôn bán của chính nước họ, trong một số trường hợp phải nghiêm cấm, và trong những trường hợp khác thì phải đánh thuế nặng vào ngành vận tải biển của nước khác. Sau đây là những khoản chính của đạo luật về hàng hải:

Thứ nhất, tất cả các tàu, trên đó những người chủ và ¾ thủy thủ không phải là người dân Anh, đều bị nghiêm cấm, nếu không sẽ bị tịch thu tàu và hàng hóa chuyên chở; họ không được đến buôn bán tại các khu định cư và đồn điền của Anh hoặc không được tuyển dụng trong việc chuyên chở buôn bán ở dọc bờ biển nước Anh.

Thứ hai, những loại hàng hóa nhập cồng kềnh nhất, chỉ có thể được đưa vào nước Anh bằng các tàu biển như đã được nói ở trên hoặc bằng các tàu của nước nơi mà các hàng hóa đó được mua và trên các tàu đó các chủ tàu, thuyền trưởng và ¾ thủy thủ là người của nước đó, và khi được nhập vào Anh bằng các tàu thuộc loại vừa nói đến, hàng hóa phải chịu hai loại thuế về hàng ngoại. Nếu nhập bằng tàu của bất kỳ nước nào khác, hình phạt sẽ là tịch thu tàu và hàng. Khi đạo luật này được ban hành, người Hà Lan là những người làm nghề vận tải biển quy mô lớn của Châu Âu, do có đạo luật này, họ hoàn toàn bị tước quyền chuyển chở hàng đến Anh hoặc vận chuyển hàng hóa của bất kỳ một nước Châu Âu nào khác tới nước Anh.

Thứ ba, một số lớn các thứ hàng hóa cồng kềnh nhất nhập vào Anh bị nghiêm cấm dù cho vận chuyển bằng tàu Anh từ bất kỳ nước nào, trừ nước nơi mà các hàng hóa đó được sản xuất, nếu không sẽ bị tịch thu cả tàu lẫn hàng. Luật lệ này được thực hiện chắc là để cấm người Hà Lan. Nước Hà Lan từ xưa đến nay vẫn là một nơi buôn bán lớn các loại hàng hóa của Châu Âu và theo luật lệ này, các tàu Anh bị cấm bốc dỡ ở Hà Lan mọi hàng hóa của bất kỳ một nước Châu Âu nào.

Thứ tư, các loại cá muối, vẩy, lược và mỡ cá voi, không phải được đánh bắt, chế biến và xử lý trên tàu Anh thì bị đánh thuế hàng ngoại gấp hai lần. Người Hà Lan là những người đánh cá duy nhất ở Châu Âu để cung cấp cá cho các nước ngoài như họ vẫn còn đang làm như vậy hiện nay. Bằng việc áp dụng luật lệ này, một khoản thuế rất nặng đánh vào việc họ cung cấp cá cho Anh.

Khi đạo luật về hàng hải được ban hành ở Anh, mặc dù nước này và Hà Lan cũng không phải là những nước đang có chiến tranh với nhau, nhưng cả hai đều nuôi dưỡng một tình trạng thù địch, chống đối nhau rất mạnh. Tình trạng này được đẩy lên trong thời kỳ chính phủ của Nghị viện Dài, chính phủ này dựng lên bố cục của đạo luật này và nó bùng nổ ngay sau đó, trong các cuộc chiến tranh vao thời chính phủ của quan Bảo quốc và vua Charles II. Có thể cho rằng một vài luật lệ nói trong đạo luật nổi tiếng này xuất phát từ tình trạng hận thù dân tộc. Thật vậy, các luật lệ đó đều bị chi phối bởi một sự khôn ngoan có dụng ý nhất. Sự hận thù dân tộc trong thời gian đó cũng nhằm một mục đích mà sự khôn ngoan có dụng ý nhất chắc đã đề xuất ra, đó là làm giảm uy lực hải quân của Hà Lan mà lúc đó là uy lực duy nhất có thể gây nguy hiểm cho nền an ninh của Anh.

Đạo luật về hàng hải không có lợi cho ngoại thương hay cho việc tăng thêm sự giàu có do ngoại thương mang lại. Lợi ích của một nước trong các quan hệ buôn bán với nước ngoài chẳng khác gì lợi ích của một nhà buôn trong mối quan hệ giao dịch với mọi người, đó là mua hàng với giá rẻ và bán với giá đắt. Rất có thể là một nước có khả năng mua rẻ khi sự tự do buôn bán được thực hiện đầy đủ nhất, khuyến khích mọi dân tộc mang hàng hóa đến bán cho nước cần mua, và cũng cần lý do như thế, chắc hẳn nước đó sẽ bắn đắt khi các chợ tràn ngập những người muốn mua hàng. Đạo luật về hàng hải của Anh thực ra không ngăn cấm tàu ngoại quốc mang hàng hóa công nghiệp của Anh đi các nước. Ngay cả tiền thuế cũ trước kia thường đánh vào cả hàng nhập lẫn hàng xuất khẩu qua việc ban bố các đạo luật tiếp theo đó. Nhưng những người ngoại quốc bị cấm không được mang hàng đến bán ở Anh do thuế nặng hoặc do sự cấm đoán ngặt nghèo, họ cũng chẳng thể nào có khả năng và điều kiện để mua hàng của Anh mang đi, vì đến Anh mà không mang hàng hóa thì họ cũng đồng nghĩa với giảm số người đến mua hàng. Và như vậy chúng ta phải mua hàng ngoại với giá đắt và bán hàng của chúng ta làm ra rẻ hơn. Do quốc phòng luôn luôn chiếm một vị trí quan trọng hàng đầu, còn hơn cả sự giàu có của đất nước, đạo luật về hàng hải có thể được coi là khôn ngoan nhất trong tất cả các luật lệ buôn bán của Anh.

Trường hợp thứ hai là cần phải có một gánh nặng thuế khóa nào đó đối với hàng ngoại vì như thế có lợi cho việc khuyến khích nền công nghiệp trong nước nhưng cũng phải đánh thuế vào các sản phẩm nội địa.

Trong trường hợp này, thật là hợp lý nên đánh thuế tương đương vào mặt hàng ngoại cùng thể loại sản xuất ở trong nước. Điều này sẽ không gây ra tình trạng độc quyền tại thị trường trong nước đối với các hàng hóa công nghiệp nội địa, mà cũng không làm cho các nhà sản xuất hướng nhiều tiền vốn và sức lao động hơn vào một số mặt hàng nào đó so với khi có sự độc quyền. Nó sẽ chỉ ngăn chặn một phần số vốn nào đó được sử dụng vào việc sản xuất khỏi bị đi chệch hướng bởi thuế má, và sẽ để cho sự cạnh tranh được tiến hành giữa công nghiệp ngoại và công nghiệp nội, sau khi đã đóng đủ thuế trên cơ sở bình đẳng như trước kia đã làm.

Ở nước Anh, khi một thứ thuế như thế đánh vào hàng nội địa, thì để cho nhà buôn và người sản xuất khỏi kêu ca ầm ĩ rằng họ phải bán hàng nội địa rẻ hơn, chính phủ đánh một loại thuế nặng hơn vào các hàng ngoại cùng thể loại nhập vào trong nước.

Sự hạn chế thứ hai này đối với việc tự do buôn bán, theo ý kiến của một số người, thường mở rộng trong một vài trường hợp ra các mặt hàng ngoại khác chứ không chỉ hạn chế trong số các hàng ngoại nhất định có khả năng cạnh tranh với hàng đã bị đánh thuế. Khi các thứ cần dùng cho đời sống đã bị đánh thuế ở bất kỳ nước nào, thì họ cho rằng đúng hơn là đánh thuế không những các thứ cần dùng cho đời sống nhập từ nước ngoài, mà còn phải đánh thuế tất cả các loại hàng ngoại có thể cạnh tranh với bất kỳ mặt hàng nào do nền công nghiệp trong nước làm ra. Họ nói rằng đời sống của mọi người tất yếu sẽ bị đắt đỏ hơn do có các thứ thuế đó, và giá công lao động tất nhiên cũng phải tăng lên cùng với giá các vật cần dùng cho sinh hoạt. Mỗi một loại hàng hóa là sản phẩm của nền công nghiệp trong nước, tuy chưa bị đánh thuế ngay, nhưng đã đắt hơn trước do có các thứ thuế như vậy, vì giá lao động sản xuất ra hàng hóa đã đắt lên. Những loại thuế như vậy vì thế đã tương đương với một thứ thuế đánh vào mọi thứ hàng hóa sản xuất trong nước. Để làm cho hàng nội có điều kiện ngang bằng với hàng ngoại, họ nghĩ rằng cần phải đánh một thứ thuế nào đó vào mỗi mặt hàng ngoại tương đương với mức tăng giá của hàng hóa trong nước, và chỉ làm như thế mới có khả năng giúp hàng nội cạnh tranh được với hàng ngoại.

Vậy thuế đánh vào các vật dụng cần dùng cho đời sống ở Anh như xà phòng, muối, da, nến… có nhất thiết nâng giá công lao động, và do đó, nâng giá các hàng hóa khác lên không, tôi sẽ nghiên cứu dưới đây khi tôi bàn đến vấn đề thuế má. Tuy nhiên, cứ giả thiết rằng các hàng hóa trong nước đang chịu một tác động như vậy, thì mức tăng chung của giá tất cả các hàng hóa do hậu quả của giá công lao động, là một trường hợp mà trong hai phương diện dưới đây sẽ khác với mức tăng giá của một thứ hàng hóa nào đó, khi giá của thứ hàng đó tăng lên do có một thứ thuế đánh trực tiếp vào nó.

Thứ nhất, có thể luôn luôn nắm được khá chính xác giả cả loại hàng hóa đó tăng lên đến mức nào do tác động của thuế đó, nhưng mức tăng giá chung của lao động có thể ảnh hưởng tới mức tăng giá của mọi thứ hàng hóa có sử dụng sức lao động đó thì không thể nào biết được dù là với bất cứ độ chính xác nào có thể chấp nhận được. Tuy vậy thật là không thể nào, dù với một mức chính xác thế nào đi chăng nữa, làm cho tiền thuế đánh vào hàng ngoại cân xứng với mức tăng giá cả các loại hàng hóa trong nước.

Thứ hai, các thứ thuế đánh vào các vật cần dùng cho đời sống cũng có tác động tương tự đối với tình hình của dân chúng như đất xấu và khí hậu không thuận lợi. Lương thực do đó trở nên đắt hơn chẳng khác gì phải có thêm lao động và chi phí cần thiết để làm ra lương thực. Cũng như trong tình trạng khan hiếm tự nhiên do đất đai và khí hậu gây nên, sẽ là một điều phi lý nếu cứ lái mọi người phải sử dụng vốn và kỹ năng kỹ xảo của họ như thế nào, trong tình trạng khan hiếm giả tạo do các thứ thuế gây nên cũng sẽ xẩy ra như thế. Hãy để cho mọi người tự mình sắp xếp, bố trí, điều chỉnh việc sản xuất công nghiệp của họ cho thích ứng với tình hình và để cho họ tự tìm kiếm lấy những công việc nào, mà bất chấp những tình huống bất lợi, họ vẫn có thể tìm thấy được mối lợi nào đó hoặc ở thị trường trong nước hay ở thị trường nước ngoài. Vì như thế trong cả hai trường hợp rõ ràng là có lợi nhất cho họ. Đánh thêm một thứ thuế mới khi họ đang bị quá nhiều thứ thuế phải chịu về các thứ cần dùng cho đời sống, lại còn buộc họ phải trả giá đắt cho các loại hàng hóa khác nữa, như thế chắc chắn sẽ là một cách sửa sai hoàn toàn phi lý, nếu không nói là ngu xuẩn và lố bịch.

Các loại thuế như vậy khi tăng lên đến một mức nào đó sẽ là một tai họa không kém gì tình trạng khô cằn của đất đai và sự khắc nghiệt của khí hậu. Các loại thuế đó thường hầu hết đánh vào dân ở các nước giàu có và siêng năng nhất. Không có nước nào khác chịu đựng nổi tình trạng rối loạn lớn như vậy. Nếu chỉ có thân thể cường tráng của con người mới có thể sống trong tình trạng ăn uống không đầy đủ, thì chỉ các nước có những lợi thế tự nhiên và tự tạo mới có thể tồn tại và phát triển khi phải chịu đựng những thứ thuế như vậy. Hà Lan là một nước ở Châu Âu chịu đựng rất nhiều thứ thuế và trong những hoàn cảnh như vậy, nước này tiếp tục phát triển không phải vì hoàn cảnh phải như vậy, mà vì bất chấp mọi hoàn cảnh đó.

Do có hai trường hợp trong đó thường thường có lợi khi đánh thuế nặng vào hàng ngoại để khuyến khích nền công nghiệp trong nước, vì thế cũng có hai trường hợp khác nữa mà đôi khi cũng cần phải cân nhắc, suy nghĩ; trong một trường hợp, đến mức nào là thích hợp để cho phép tiếp tục nhập tự do các hàng ngoại, và trong trường hợp khác, đến mức nào hay bằng cách nào có thể là thích hợp để phục hồi việc nhập khẩu tự do sau khi đã bị gián đoạn một thời gian nào đó.

Trường hợp mà trong đó đôi khi có thể cân nhắc việc tiếp tục nhập khẩu tự do một số hàng ngoại đến mức nào là thích hợp, đó là khi một nước ngoài nào đó hạn chế bằng cách đánh thuế nặng hoặc ngăn cấm việc nhập một vài loại hàng công nghiệp của nước chúng ta vào nước họ. Hành động trong trường hợp này tất nhiên phải trả đũa lại những gì họ đối xử với chúng ta, và chúng ta phải áp đặt các thứ thuế nặng và có những cấm đoán tương tự đối với việc nhập một vài hay tất cả các hàng công nghiệp của họ vào nước chúng ta. Vì thế, các nước ít khi bỏ qua không trả đũa theo cách này. Người Pháp đặc biệt ủng hộ các hàng hóa công nghiệp của họ bằng cách đưa ra các biện pháp hạn chế nhập các hàng ngoại để tránh sự cạnh tranh có thể xảy ra. Trong việc làm đó có sự đóng góp một phần lớn về mặt chính sách của ông Colbert. Ông này tuy có nhiều khả năng lớn nhưng hình như trong chính sách này do ông vạch ra ông lại chịu áp lực của các nhà buôn và các người sản xuất, họ đưa ra nhiều lý lẽ ngụy biện để đòi cho được độc quyền trong các quan hệ bán hàng đối với dân chúng trong nước. Ngày nay, ý kiến chung của những người hiểu biết nhất tại Pháp là những việc làm của ông ta đã không mang lại lợi ích cho đất nước. Bằng biểu thuế năm 1667, viện bộ trưởng đó đã đánh thuế rất nặng đối với một số hàng ngoại nhập. Do việc ông ta từ chối không chịu giảm bớt thuế đối với hàng hóa của Hà Lan, cho nên nước này năm 1671 nghiêm cấm nhập rượu vang, rượu mạnh Brandi và các hàng công nghiệp của Pháp. Cuộc chiến tranh giữa hai nước năm 1672 một phần là do cuộc tranh chấp buôn bán này. Hòa bình ký kết ở Nimeguen đã chấp dứt cuộc chiến tranh này năm 1678 bằng việc Pháp chịu đối xử ôn hòa về mặt đánh thuế đối với Hà Lan và Hà Lan bãi bỏ những sự cấm đoán nói trên. Cũng vào thời gian trên, Pháp và Anh bắt đầu đàn áp nền công nghiệp của nhau bằng cách đánh thuế khá nặng đối với các mặt hàng mà nước này đem bán ở nước kia, nhưng phải nói rằng chính Pháp đã đi bước trước trong vấn đề này. Tinh thần và thái độ thù địch đã có sẵn từ lâu giữa hai nước này, đã ngăn cản cả hai bên đi đến những thỏa thuận ôn hòa hơn về mặt đánh thuế đối với hàng hóa nhập của nhau. Năm 1697, người Anh cấm nhập hàng đăng ten viền xương là một mặt hàng của xứ Flanders. Chính phủ xứ đó lúc bấy giờ là một lãnh thổ tự trị của Tây Ban Nha, đã trả đũa bằng cách cấm nhập các hàng len của Anh. Năm 1700, việc cấm nhập hàng đăng ten viền xương vào Anh được hủy bỏ với điều kiện là hàng len của Anh được nhập vào xứ Flanders như cũ.

Chính sách trả đũa loại này cũng có mặt tốt vì nó có khả năng bải bỏ các sắc thuế cao hoặc các lệnh cấm nhập. Việc phục hồi thị trường rộng lớn ở nước ngoài thừa để đền bù cho những thiệt hại nhất thời do phải trả giá đắt hơn trước một vài mặt hàng. Việc xét xem những cách trả đũa như vậy liệu có mang lại hiệu quả cũng như vậy không, có thể không thuộc thẩm quyền của nhà làm luật vì các người này hành động trên cơ sở các nguyên tắc chung luôn luôn không thay đổi, mà thuộc sự tài ba khéo léo của nhà chính khách hoặc nhà chính trị mà các hội đồng của họ bị chi phối bởi những thay đổi của công việc theo từng thời gian. Khi không thấy có khả năng hủy bỏ thuế cao như vậy, thì việc trả đũa trở thành một phương pháp chẳng hay ho gì vì nó chẳng đền bù gì cho sự thiệt hại của một vài tầng lớp nào đó trong nhân dân; mà nó lại còn gây nên sự thiệt hại không những cho những tầng lớp đó, mà còn cho hầu hết tất cả các tầng lớp khác trong dân chúng.

Khi các nước láng giềng cấm một vài thứ hàng công nghiệp của chúng ta, chúng ta thường trả đũa cấm lại không chỉ những mặt hàng tương tự, vì cấm như thế thì cũng chẳng động chạm gì đến họ nhiều, mà cả các mặt hàng khác của họ. Điều này chắc chắn có thể khuyến khích một tầng lớp thợ nào đó trong chúng ta, và bằng cách loại trừ một vài đối thủ của họ, lại tạo điều kiện cho họ nâng cao giá bán trên thị trường trong nước. Những thợ mà hàng sản xuất của họ bị cấm nhập bởi các nước láng giềng cho nên đang phải chịu những sự thiệt hại, thì lại chẳng được lợi gì khi chúng ta trả đũa cấm nhập các mặt hàng của nước ngoài. Ngược lại, họ và hầu hết các tầng lớp khác trong dân chúng do đó sẽ bị buộc phải trả giá đắt hơn trước cho một số hàng hóa nào đó. Vì vậy, mỗi luật lệ như vậy áp đặt một thứ thuế thực sự lên toàn đất nước, không mang lại lợi ích gì cho tầng lớp thợ thuyền chịu thiệt hại do lệnh cấm của nước láng giềng của chúng ta, mà có lợi cho một vài tầng lớp khác nào đó.

Trường hợp mà đôi khi đã trở thành một vấn đề thảo luận để xét xem với mức độ nào và như thế nào là thích hợp để khôi phục lại việc nhập hàng ngoại sau khi đã bị cắt đứt hoặc gián đoạn một thời gian, đó là khi một số hàng công nghiệp nào đó sản xuất ở trong nước, nhờ việc đánh thuế cao hoặc cấm nhập hàng ngoại có khả năng cạnh tranh với hàng nội, đã phát triển đủ mạnh và có khả năng sử dụng nhiều nhân công lành nghề cạnh tranh với hàng ngoại cùng thể loại và chất lượng.

Trong trường hợp này, mọi người có thể yêu cầu phục hồi lại việc buôn bán tự do nhưng nên tiến hành theo mức độ tăng dần, và cũng cần phải hết sức thận trọng và dè dặt khi tiến hành. Nếu như các sắc thuế cao và các biện pháp ngăn cấm được bỏ đi tức thời, các hàng ngoại rẻ tiền cùng thể loại có thể được nhập ồ ạt vào thị trường trong nước và gây nên mất việc làm cho nhiều ngàn người thợ đang sản xuất và tước đoạt sinh kế của họ. Nạn hàng ngoại tràn ngập thị trường trong nước sẽ gây nên một sự rối loạn khá lớn. Việc này chắc có thể được thấy ít hơn là người ta thường tưởng vì hai lý do sau đây:

Thứ nhất, tất cả các loại hàng công nghiệp mà một phần nào đó được xuất sang các nước Châu Âu khác mà không có tiền thưởng khuyến khích, có thể bị tác động rất ít bởi việc nhập các hàng ngoại với mức độ tự do nhất. Các loại hàng công nghiệp đó tất phải được bán ở nước ngoài với giá rẻ như các loại hàng ngoại cùng thể loại và chất lượng, và do đó, phải được bán rẻ hơn ở trong nước. Các hàng hóa đó, vì thế, vẫn chiếm lĩnh thị trường trong nước, và dù cho có một số ít người tiêu dùng có thể vẫn cứ mua hàng ngoại chỉ vì lý do duy nhất là họ quen dùng và ưa thích hàng ngoại, bất kể hàng nội cùng thể loại rẻ và tốt hơn, thì đó chỉ là tính ngông cuồng và ý thích riêng của những người đó, và số ít người này không thể làm xoay chuyển được tình hình hàng bán trong nước và gây ảnh hưởng tới đời sống của người sản xuất. Song một phần lớn hàng hóa của các ngành sản xuất hàng len, hàng bằng da thuộc và hàng ngũ kim của chúng ta đã được xuất khẩu hàng năm sang các nước Châu Âu khác mà không cần phải có tiền thưởng xuất khẩu, và các loại hàng hóa này sử dụng một số không ít công nhân. Có thể nói tơ lụa là mặt hàng bị thiệt hại nhiều nhất do hậu quả của việc tự do buôn bán, và sau đó đến các đồ vải lanh (khăn bàn, khăn ăn, khăn trải giường…) nhưng các mặt hàng này chịu thiệt hại ít hơn nhiều so với các hàng tơ lụa.

Thứ hai, mặc dù do việc khôi phục lại việc tự do buôn bán một số lớn thợ bị mất việc làm và khả năng sinh sống nhưng không phải vì thế mà họ không còn phương kế gì khác để tiếp tục làm việc, kiếm sống. Cuộc chiến tranh vừa qua khi chấm dứt đã giải ngũ hơn một trăm ngàn thủy thủ và binh lính, một số lượng tương đương với số công nhân trong các ngành sản xuất lớn, nhưng mặc dù ban đầu họ cũng gặp phải không ít khó khăn trong đời sống, họ dần dần cũng tìm ra cho mình những công việc làm thích hợp và được thu hút vào nhiều công việc sản xuất và dịch vụ ở trong nước. Người ta không cảm thấy những chấn động lớn và ngay cả những rối loạn nhỏ xuất phát từ một thay đổi lớn như vậy với hàng trăm ngàn người mà công việc trước đó chỉ là cầm vũ khí và nhiều người còn quen với việc cướp bóc và phá phách nữa. Số người sống lang thang, vất vưởng cũng không tăng lên nhiều. Lương và tiền công lao động cũng không vì thế mà bị giảm trong bất kỳ công việc làm nào, theo như tôi được biết, trừ lương thủy thủ trong ngành vận tải thương mại. Nhưng nếu chúng ta so sánh với nhau các thói quen của một người lính và của bất kỳ người sản xuất nào, chúng ta sẽ thấy rằng các thói quen của người sản xuất không có chiều hướng làm cho mình mất vị trí trong một ngành nghề mới, trong khi người lính thì lại không ra sức tìm tòi bất kỳ công việc gì thích hợp. Người sản xuất luôn luôn biết thích ứng với hoàn cảnh mới và tìm mọi cách kiếm ăn sinh sống bằng chính sức lao động của mình. Người lính thì trông chờ vào tiền lương phát cho họ. Người sản xuất thì chăm chỉ, siêng năng cần mẫn; người lính quen thói ăn không ngồi rồi và tiêu phí. Chắc là dễ chuyển hướng những người siêng năng, cần mẫn từ một công việc lao động này sang một công việc lao động khác hơn là chuyển từ sự chây lười và tiêu phí sang bất kỳ công việc gì khác. Người ta nhận thấy rằng đối với một số không nhỏ các ngành sản xuất phụ có tính chất giống nhau, cho nên một người thợ có thể chuyển dễ dàng từ một ngành này sang một ngành khác, đó là chưa kể đến rất nhiều thợ thỉnh thoảng còn làm thêm các công việc sản xuất ở nông thôn. Số vốn dùng để thuê những người thợ trong một ngành nghề nào đó trước đây thì nay vẫn nằm ở trong nước để trả công cho một số người tương đương làm một số công việc nào khác. Vì số vốn trong nước vẫn như vậy; cho nên yêu cầu về lao động cũng chẳng thay đổi là bao hoặc vẫn như trước, mặc dù số vốn đó dùng ở các nơi khác và cho các ngành nghề khác. Các thủy thủ và binh lính khi giải ngũ được tự do làm bất kỳ nghề gì thích hợp đối với họ và ở bất kỳ nơi nào ở Anh hoặc ở Ai Len. Vậy nên để cho họ quyền tự do tìm kiếm và làm loại nghề gì mà họ ưa thích dù họ là thần dân hay thủy thủ và binh lính của đức vua; điều đó có nghĩa là phá bỏ mọi đặc quyền, đặc lợi của các phường và bãi bỏ luật lệ về chế độ học nghề, cả hai thứ nói trên đều vi phạm thực sự quyền tự do đương nhiên của con người, và hơn nữa còn phải hủy bỏ luật về định cư để một người thợ nghèo, khi bị mất việc làm trong một ngành nghề hoặc tại một nơi nào đó có thể đi tìm kiếm việc làm ở một ngành nghề khác hoặc ở một nơi khác mà không bị nỗi lo sợ bị khởi tố trước pháp luật hoặc bị xua đuổi; không một ai sẽ bị thiệt thòi nhiều do việc thỉnh thoảng một ngành sản xuất nào đó bị giải thể hay do việc giải ngũ quân đội. Người sản xuất, chế tạo hàng hóa tất nhiên có công với đất nước nhưng họ chẳng thể so sánh với những người cầm vũ khí bảo vệ tổ quốc bằng xương máu của mình.

Mong đợi rằng tự do buôn bán sẽ có thể hoàn toàn phục hồi ở Anh thì cũng phi lý chẳng kém gì mong đợi một điều không tưởng sẽ được thực hiện ở nước này. Phải thấy rằng có sự chống đối mạnh mẽ không những từ dân chúng vì họ nuôi dưỡng nhiều thành kiến đối với việc đó, mà còn từ lợi ích tư nhân rất khó lay chuyển. Nếu như các sĩ quan kiên quyết và đồng lòng chống lại bất kỳ một sự giảm bớt quân lực nào cũng như các nhà sản xuất công nghiệp kiên quyết phản đối các đạo luật có thể làm tăng số đối thủ cạnh tranh trên thị trường trong nước, nếu các sĩ quan huy động được binh lính cũng như các nhà sản xuất công nghiệp thúc đẩy được công nhân tấn công mạnh mẽ và làm thay đổi quyết định của các nhà hoạch định chính sách và các nhà luật pháp, thì việc giảm số lượng binh lính cũng nguy hiểm như hạn chế độc quyền của các nhà sản xuất. Sự độc quyền này đã làm tăng số người ủng hộ nó nhiều đến nỗi, cũng giống như một quân đội thường trực với một số lượng binh sĩ quá nhiều, nó đã trở thành một điều đáng sợ cho chính phủ và đã nhiều phen đe dọa ngay cả quyền lập pháp. Một nghị sĩ ủng hộ đề nghị củng cố sự độc quyền này chắc chắn không những sẽ dành được tiếng tăm là người có sự hiểu biết về thương mại mà còn được nổi tiếng và có ảnh hưởng lớn đối với một tầng lớp người mà số lượng và sự giàu có làm cho họ trở nên những người có tầm cỡ lớn.

Nếu nghị sĩ đó chống lại tầng lớp nói trên, và hơn nữa còn có đủ quyền lực cản trở họ, thì người đó không thể có gì để tự bảo vệ mình khỏi sự lăng nhục, chửi bới, kể cả mối nguy hiểm thực sự đe dọa đời sống của ông ta từ phía các nhà độc quyền bị thất vọng và trở nên giận dữ đến mức hung tợn.

Người kinh doanh một ngành sản xuất lớn chắc chắn sẽ chịu rất nhiều thiệt hại và có thể bị buộc phải bỏ nghề nếu như thị trường trong nước lại bỏ ngỏ cho sự cạnh tranh của hàng ngoại nhập. Ông ta có thể tìm được một công việc sản xuất khác với số vốn mà trước đó ông ta đã sử dụng để mua nguyên vật liệu và trả tiền công cho thợ thuyền. Nhưng phần dùng để mở nhà xưởng, mua dụng cụ và thiết bị sản xuất thì khó có thể bán đi mà không bị thiệt hại khá nhiều. Với một cách nhìn hợp tình hợp lý đối với lợi ích của người sản xuất, chế tạo hàng hóa công nghiệp thì những thay đổi đột ngột là điều không nên thực hiên, mà nên tiến hành từ từ, chậm chạp sau khi đã nhiều lần thông báo với họ biết để kịp thời điều chỉnh, sắp xếp lại công việc. Bộ phận lập pháp, nếu có khả năng thảo luận kỹ càng trước khi đi đến một kết luận cuối cùng, thì nên tránh không bị ảnh hưởng bởi những lời kêu ca, phàn nàn của những người góp ý kiến trên cơ sở lợi ích riêng tư, mà nên có một tầm nhìn bao quát rộng đối với lợi ích chung của toàn xã hội, và cần chú trọng đến việc không nên thiết lập bất kỳ một sự độc quyền mới nào, mà cũng không cho phép mở rộng những độc quyền đã được thiết lập. Mỗi một luật lệ như vậy đưa vào bản hiến pháp của nhà nước một mức độ rối loạn thực sự nào đó mà sau đó khi sửa sai chắc lại gây thêm một sự rối loạn khác không kém phần quan trọng.

Nên như thế nào là thích hợp để đánh thuế vào hàng nước ngoài nhập mà không phải là để ngăn chăn việc nhập đó mà chỉ là để tăng thêm nguồn thu nhập cho chính phủ, tôi sẽ xem xét dưới đây khi tôi bàn đến vấn đề thuế. Các sắc thuế đánh vào hàng ngoại nhập để ngăn chặn hoặc để giảm bớt hàng ngoại nhập rõ ràng là gây thiệt hại cho nguồn thu của hải quan cũng như cho việc tự do buôn bán, nói chung.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3