Cuộc Nổi Dậy Của Nhà Tây Sơn - Chương 00: Dẫn Nhập

Mùa xuân năm 1773, một đạo quân nhỏ gồm những bộ tộc sống ở vùng cao và nông dân ở vùng đồng bằng mở đường đi xuống từ vùng cao nguyên An Khê, nơi ngày nay là vùng Nam Trung Việt Nam, để tấn công phủ lỵ Qui Nhơn* có tường thành bao quanh, cầm đầu đạo quân này là một người buôn trầu cau và làm biện lại, tên Nguyễn Nhạc. Không tìm ra phương kế tấn công trực diện vào thành, lực lượng nổi dậy sử dụng một mưu chước. Họ giả vờ bắt người cầm đầu (Nguyễn Nhạc) bỏ vào cũi và giải giao ông ta cho quan phủ, ông này cho giam Nhạc trong thành như một tù nhân. Đêm hôm đó, Nhạc tự giải thoát và mở cổng thành cho đạo quân của ông ta đang chờ sẵn. Những kẻ nổi dậy nhanh chóng vô hiệu hóa lực lượng bảo vệ thành, đốt cháy doanh trại, khiến quan Tuần phủ hoảng sợ bỏ chạy*. Thắng lợi củng cố lòng tự tin, quân nổi dậy nhanh chóng tiến đánh các mục tiêu khác dọc theo bờ biển. Khi họ di chuyển về vùng quê, bước dưới một ngọn cờ to màu đỏ, quân lính đội khăn màu đỏ và tạo ra những tiếng động lớn nhằm đe dọa đối phương. Đạo quân của Nguyễn Nhạc tịch thu tài sản của những người giàu có bất hợp tác với họ và mang chia cho những người nông dân nghèo khổ vốn coi họ như những “kẻ cướp nhân đức và giàu lòng từ thiện*”.

Chuỗi sự kiện này đánh dấu sự khỏi đầu của một trong những thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Việt Nam, thời kỳ mà sự biến động về kinh tế và xã hội diễn ra suốt gần ba thập kỷ và ảnh hưởng còn kéo dài đến thế kỷ XIX. Những cuộc xung đột vào cuối thế kỷ XVIII nổ ra trên đồng ruộng và ở các vùng duyên hải thuộc lãnh thổ Việt Nam, cũng như trong những trung tâm quyền lực chính trị đang tồn tại hoặc sẽ xuất hiện trong lúc cuộc nổi dậy xảy ra. Trước khi đạo quân nổi dậy bị đánh bại hoàn toàn vào năm 1802, họ đã lật đổ hai dòng họ trị vì, thống nhất trong thời gian ngắn một lãnh thổ đã được cai trị lâu dài bởi hai vương triều khác nhau và đánh dấu chấm hết cho một triều đại kéo dài ba trăm năm. Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Nhạc và hai người em trai - Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ - quân nổi dậy cũng khiêu khích và đẩy lùi các cuộc xâm lược qui mô lớn xuất phát từ Xiêm và Trung Quốc, và bản thân họ cũng tiến hành những cuộc phiêu lưu quân sự tại hai vương quốc láng giềng Khmer và Lào. Khi cuộc nổi dậy và tiếp theo là những trận chiến kéo dài, lính đánh thuê người Pháp, người Bồ Đào Nha, người Trung Hoa và người Đông Nam Á lao vào cuộc chiến, và hàng trăm ngàn người đã ngã xuống bởi chiến tranh và nạn đói. Nhiều người khác nữa đã rời bỏ nhà cửa, ruộng vườn khi xã hội Việt Nam “ từ giai cấp nông dân đến những thành phần ưu tú về tri thức và chính trị, những nhà tu hành và các bộ tộc thiểu số - phải đối mặt với một vương quốc đang hồi biến loạn.

Cuộc nổi dậy mang tên của ấp Tây Sơn là nơi mà những người lãnh đạo xuất hiện. Với ý nghĩa "núi về phía tây'", cái tên này có liên quan đến vị trí ngôi làng ở cạnh một vùng đất cao nhô lên từ khu vực ven biển gần Qui Nhơn, trong một vương quốc mà người thời đó gọi là Đàng Trong, còn người châu Âu thì gọi là Cochin - China. Cư dân vùng Qui Nhơn xuất thân từ những nhóm người đi lập nghiệp, những cựu tù nhân bị bắt giữ trong các cuộc chiến tranh vào thế kỷ XVII giữa chính quyền họ Nguyễn ở phương Nam và chính quyền họ Trịnh ở phương Bắc. Hai dòng họ tranh giành nhau quyền lực chính trị trên suốt chiều dài lãnh thổ Việt Nam. Người Việt ở Qui Nhơn và vùng nội địa sống rất gần với những nhóm người miền cao rất trung thành với các chúa Nguyễn. Vùng Qui Nhơn cũng là nơỉ tồn tại những di tích của vương quốc Chăm hùng mạnh từng thống trị vùng duyên hải Nam-Trung Việt Nam ngày nay. Khu vực này trở thành nơi bùng phát sự thù nghịch vây bọc lãnh thổ Việt Nam trong hơn 30 năm trời.

Những anh em lãnh đạo cuộc nổi dậy được người đương thời biết đến với nhiều cái tên. Người đầu lãnh được viên chỉ huy quân Trịnh vào chiếm lấy Đàng Trong năm 1774 gọi là "Biện Nhạc ngông cuồng"; "biện” là từ ám chỉ vai trò viên chức thu thuế* cho địa phương. Với những người khác thì Nhạc được gọi là "trại chủ*”, nhằm nói đến sự liên kết quân sự giữa ông ta với nhiều băng cướp cùng phe. Một vài nhân chứng là giáo sĩ người Âu gọi ông ta là "cái ông Nhạc bội giáo ấy”, tin rằng ông ta sinh ra trong một gia đình Thiên Chúa giáo*. Người em trai của ông ta là Nguyễn Huệ cũng có một biệt hiệu được phổ biến rộng rãi như thế. Với những hải tặc Trung Hoa mà ông ấy tuyển mộ vào lực lượng hải quân của ông, Huệ là “Đại soái Việt Nam”, và là “kẻ dấy loạn bảo vệ cho hải tặc*”. Đối với giới nhân sĩ ở Đàng Ngoài, khi chạm trán với nhân vật huênh hoang này, người đã xâm chiếm vương quốc của họ vào năm 1786, ông ấy là "Chế Bồng Nga” - ám chỉ ông vua Chăm cũng từng đánh chiếm lấy thành Thăng Long (nay là Hà Nội) vào thế kỷ XIV như vậy. Với những giáo sĩ châu Âu, ông ấy gọi lên hình ảnh những kẻ phiêu lưu quân sự thời xưa, và họ gọi ông là “Attila khác” hoặc “Alexandre Đại đế*”. Và, như chúng ta đã biết, đối với một số nông dân Việt, ba anh em nhà Tây Sơn là “những kẻ cướp nhân đức và giàu lòng từ thiện”. Chính những gương mặt đầy màu sắc như tắc kè ấy, mà đối với nhiều người chúng tượng trưng cho nhiều thứ, đã lãnh đạo cuộc nổi dậy phi thường này.

Hình 1: Bản đồ Đại Việt thế kỷ XVIII cho thấy nhưng trung tâm đô thị lớn, các con sông và sự phân chia lãnh thổ Trịnh-Nguyễn trước năm 1774.

Nhiều chiêu bài mà những người cầm đầu cuộc nổi dậy sử dụng đã cho thấy rõ sự hiện diện của những nhóm xã hội phức tạp và chồng chéo nhau dính líu vào những biến động của thời kỳ này. Trộm cướp, hải tặc, người Chăm, giáo dân Công giáo, những kẻ phiêu lưu quân sự, và các viên chức địa phương đều là những thành phần của một mạng lưới xã hội đã được thử thách một cách dữ dội bởi cuộc chiến dài 30 năm của nhà Tây Sơn.

Thời kỳ của nhà Tây Sơn quan trọng không đơn thuần do những động lực xã hội phức tạp đã làm cho nó biến đổi một cách sâu sắc, hoặc do sự tồn tại lâu dài và tác động lớn lao của nó lên dân tộc Việt Nam. Điều quan trọng là nó đánh dấu một điểm gãy đổ của lịch sử, khi mà các động lực nội tại đã tổng lược những chủ đề cơ bản được dùng từ lâu để định hình tiến trình của lịch sử Việt Nam.

Như một điểm ngắt quãng, thời kỳ của nhà Tây Sơn được xem là một tiêu biểu cho bi kịch cuối cùng trong sự chuyển dần quyền lực chính trị và kinh tế tại vùng phía bắc châu thổ sông Hồng về phía nam xuyên qua đèo Hải Vân và hướng về đồng bằng sông Cửu Long. Đó là một chuyển biến đã diễn ra trên hai thế kỷ, thể hiện sức mạnh đang lớn lên và sự thịnh trị của các chúa Nguyễn cùng với sự mở rộng ảnh hưởng của họ trên vùng lãnh thổ phía nam của kinh đô Phú Xuân (gần Huế ngày nay). Một chuyển biến cuối cùng đã làm nảy sinh hai nhà nước độc lập với nhau về mặt chính trị - điều mà nhà nghiên cứu Li Tana gọi là “hai nước Đại Việt” - với nhà Nguyễn kiểm soát các lãnh thổ ở phía nam và dòng họ Trịnh ở phía bắc, người Việt gọi là Đàng Ngoài, còn người châu Âu thì gọi là Đông Kinh*. Sự kiện nhà Tây Sơn xâm chiếm Đàng Ngoài, khởi đầu vào năm 1786, đã kết thúc chế độ tự trị về mặt chính trị của vùng này và bắt đầu một tiến trình theo đó thế lực ở phía nam vươn lên, trước tiên bởi chế độ mới do những người nổi dậy lập nên và sau đó, bởi các chúa Nguyễn đã đánh bại họ.

Giai đoạn này cũng được đẩy nhanh bởi sự dính líu của người châu Âu (đặc biệt phần lớn là người Pháp) vào vấn đề chính trị nội bộ của người Việt Nam và của người Việt Nam vào những vấn đề thuộc về lục địa Đông Nam Á. Cho dù sự tiếp xúc giữa người châu Âu và người Việt đã bắt đầu từ thế kỷ XVI và đã trở nên ổn định vào cuối thế kỷ XVIII, song sự dính líu của các giáo sĩ Pháp và hải tặc vào đời sống chính trị của Đại Việt đã dâng lên rất cao trong cuộc xung đột với nhà Tây Sơn. Điều này mở đường cho sự đính líu về mặt quân sự và chính trị về sau này của người Pháp tại bán đảo Đông Dương, dẫn đến những hậu quả to lớn vào giữa thế kỷ XIX. Ở cùng thời điểm này, những năm tháng của triều đại Tây Sơn cũng cho thấy sự gia tăng dính líu của người Việt vào những vấn đề chính trị của các lân bang, bao gồm các vương quốc của người Khmer, người Xiêm và người Lào. Có lúc người Xiêm trở thành đồng minh của chúa Nguyễn trong cuộc chiến chống lại nhà Tây Sơn, trong lúc các sứ giả Tây Sơn tìm cách tranh thủ sự hỗ trợ của người Xiêm cho mục tiêu riêng của họ. Quân đội Tây Sơn cũng từng xâm chiếm lãnh thổ của cả Chân Lạp lẫn Lào, lôi cuốn họ vào cuộc xung đột giữa những người Việt với nhau. Vì thế mà những biến động vào thời kỳ này đã đẩy người Việt dính líu sâu hơn vào các vấn đề chính trị của lục địa Đông Nam Á diễn ra mạnh mẽ vào thế kỷ XIX. Trong khi chúng ta có thể xem thời đại của nhà Tây Sơn là thời đại của sự gián đoạn, nó cũng chứng tỏ được nhiều yếu tố liên tục trong một tiến trình dài hơn của lịch sử Việt Nam.

Những điều này được tìm thấy trong cái cách mà các nhà lãnh đạo chính trị Đại Việt sử dụng để thiết lập chế độ hợp pháp của họ thông qua các tuyên bố dị thường và mang tính thể chế, thông qua bản chất mối quan hệ bất đồng giữa nhà nước và cư dân của họ, mối tương tác giữa người Việt ở vùng đồng bằng với nhiều nhóm dân tộc khác nhau, bao gồm người ở vùng cao, người Hoa, người Chăm, vai trò của những danh ngôn và thuật hùng biện của Khổng phu tử trong việc trị nước và kiểm soát xã hội, và từ đó, định ra những giới hạn thực sự. Các lãnh tụ Tây Sơn liên minh với nhiều nhóm sắc tộc và thận trọng chiếm đoạt các yếu tố thuộc về di sản lịch sử của người Chăm, họ viện dẫn ngay cả các nguyên lý của Khổng giáo để hợp pháp hóa sự thống trị của họ. Theo cách này, thời đại Tây Sơn có thể được xem vừa là thời kỳ chuyển tiếp dẫn đến sự trỗi dậy của những thế lực mới mẻ có thể định hình cho những gì mà người Việt đã trải qua trong các thế kỷ XIX và XX, vừa là một thế giới vi mô chứa đựng những mặt cơ bản của kinh nghiệm lịch sử lâu dài của người Việt.

Công trình nghiên cứu này khảo sát những động lực của thời đại Tây Sơn bằng cách phân tích mối quan hệ giữa các lãnh tụ Tây Sơn nhiều nhóm xã hội, sắc tộc và kinh tế hình thành trong xã hội Đại Việt thế kỷ XVIII. Điều cần nhấn mạnh là tôi đã sử dụng những cách thức liên tục hơn là gián đoạn khi khảo sát những kiểu mẫu lâu đài định hình mối tương tác giữa các lãnh tụ chính trị và những nhóm khác nhau, trên danh nghĩa thuộc quyền hạn của họ. Và rồi, một vài nhóm này, là người Công giáo hay người Tàu chẳng hạn, đã tạo nên những tầng lớp xã hội mới bên trong lãnh thổ lớn hơn của người Việt, chống lại quyền lực của nhà Tây Sơn với những thách thức chưa từng có. Ngoài ra, tôi đã đưa ra giả thuyết rằng, các lãnh tụ nhà Tây Sơn và cuộc nổi dậy của họ (và sau này là chế độ của họ) đã đứng giữa một bên là những thực tế mới mẻ của vương quốc Đàng Trong và một bên là những mô hình được thiết lập lâu dài khi Đại Việt còn là một khu vực bị giới hạn về mặt địa lý và dân số. Rõ ràng rằng, cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn là sản phẩm của một không gian và thời gian đặc biệt trong vương quốc sống động của nhà Nguyễn. Tuy nhiên, ảnh hưởng rộng lớn của nó và các cuộc chạm trán với nhiều nhóm khác nhau ở các vương quốc Đàng Trong và Đàng Ngoài đã cho thấy nhiều yếu tố vượt quá khoảng không gian và thời gian khởi nguồn của nó.

Những biến động trong thời đại Tây Sơn phức tạp về mặt chính trị do một loạt những tác nhân chính trị và quân sự có liên quan và do ở mảnh đất mà chúng diễn ra. Những lãnh thổ từ lâu bị chia cách trong hơn một thế kỷ được kết nối trở lại vào giữa những năm 1770 khi quân Trịnh ở phương Bắc xâm chiếm vùng đất phía nam của Đại Việt Cuộc phản công sau đó của nhà Tây Sơn vào năm 1786 đã khiến cho hai khu vực rộng lớn Đàng Trong và Đàng Ngoài trở nên gần gũi hơn về mặt chính trị. Và rồi, vì những lý do chính trị và địa lý, cả hai miền lại tiếp tục chia cách nhau trong suốt thời kỳ này. Kinh nghiệm về những rối loạn thời kỳ Tây Sơn thường rất khác nhau, một sự kiện với những cấu trúc xã hội và kinh nghiệm lịch sử khác nhau, và với những phân tranh về chính trị tồn tại cả trước và trong thời kỳ Tây Sơn. Tuy nhiên, có nhiều kinh nghiệm được chia sẻ cho thấy yêu cầu của các lãnh tụ nhà Tây Sơn và quân đội của họ hiếm khi được người dân ở khắp các vùng miền tôn trọng. Trong công trình nghiên cứu này, tôi sẽ xem những vùng miền này là những thực thể riêng rẽ, làm nổi bật những khía cạnh của hoàn cảnh và kinh nghiệm riêng của chúng, cho dù có những lúc tôi cũng nhấn mạnh đến sự tương đồng giữa chúng với nhau. Thời đại nhà Tây Sơn có thể được nghiên cứu một cách hữu hiệu từ một trong hai địa thế thuận lợi, ấy vậy mà tôi đã chọn khảo sát cả hai, có thể điều này là khá điên rồ.

NHÀ TÂY SƠN VỚI LỊCH SỬ ĐƯỢC BIÊN CHÉP BẰNG NGÔN NGỮ PHƯƠNG TÂY

Năm 1971, trong một công trình nghiên cứu mở đường cho lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX có tên Việt Nam và mô hình Trung Hoa, Alexander Woodside lập luận rằng: “lịch sử cận đại Việt Nam mở ra với cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn*”. Cho dù nhận định này chứa đựng sự thật, cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn vẫn còn là một khoảng trống trong giới học thuật phương Tây, vốn đã thất bại trong việc xử trí những vấn đề phức tạp ở thời kỳ này. Chẳng hạn như tác phẩm của Alexander Woodside, cho dù trong lời tựa công nhận tầm quan trọng của nhà Tây Sơn, cũng chỉ bắt đầu phần tường thuật sau sự thất bại của nhà Tây Sơn, miêu tả cách mà triều Nguyễn đã áp dụng để triển khai các định chế chính trị và hành chánh trong nửa đầu thế kỷ XIX*. Năm 1971 cũng chứng kiến sự ra đời của một công trình tiên phong khác về lịch sử Việt Nam trước thế kỷ XX, đó là tác phẩm Vietnamese Anticolonialism, 1885-1925 (Việt Nam chống chủ nghĩa thực dân, 1885- 1925) của David Marr đề cập đến dòng lịch sử Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, khi Việt Nam chịu chấp nhận qui chế thuộc địa xứ bảo hộ của Pháp*. Một thập kỷ sau, với tác phẩm Vietnamese Tradition on Trial (Truyền thống Việt Nam trong cơn thử thách), David Marr đưa câu chuyện trở về giữa thế kỷ XX, miêu tả thời kỳ đỉnh cao của chế độ thực dân Pháp từ năm 1920 đến năm 1945*. Trong mỗi công trình còn phôi thai của giới nghiên cứu bằng ngôn ngữ Anh, thời kỳ Tây Sơn lẩn khuất ở phía sau, được công nhận do ý nghĩa về mặt lịch sử hay biên chép sử, nhưng không nhất thiết được bàn đến.

Giới học thuật viết bằng tiếng Anh gần đây tiếp tục khuynh hướng nghiên cứu những sự kiện diễn ra trước và sau thời kỳ Tây Sơn, cho dù nhiều tác phẩm cuối cùng cũng đề cập trực tiếp đến ít nhất vài yếu tố của thời kỳ này. Đáng chú ý nhất là Li Tana, tác giả của Nguyễn Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries (Chúa Nguyễn ở Đàng Trong: Đàng Trong thế kỷ XVII và XVIII) (1998) tiếp cận với thời kỳ Tây Sơn từ thế kỷ XVII bằng việc khảo sát sự hình thành một chính quyền nhà Nguyễn ở Đàng Trong*. Bà đã dành trọn một chương cho những năm đầu tiên của cuộc nổi dậy, đánh dấu một công trình nghiên cứu chi tiết bằng tiếng Anh về nhà Tây Sơn, và điều quan trọng là bà đã đặt cuộc nổi dậy này trong khuôn khổ nguồn gốc địa lý và xã hội-chính trị của nó ở Đàng Trong. Li Tana lập luận rằng, đó không phải là một “phong trào nông dân” do những nông dân Việt ở vùng đồng bằng phát động, mà đúng hơn là một “cuộc nổi dậy ở tỉnh thành”, tiêu biểu bởi sự tham gia của những nhóm người bất mãn ở vùng cao*. Bà chỉ tường thuật những năm đầu tiên của cuộc nổi dậy và vì thế đã nêu bật nhà Tây Sơn như một hiện tượng cục bộ, nhưng đã không đề cập đến bản chất của phong trào khi nó bành trướng ra khỏi điểm khởi nguyên của nó. Như tôi sẽ phát biểu về sau, một khi cuộc nổi dậy vượt ra ngoài cội rễ Qui Nhơn, quá trình diễn biến của nó về cơ bản sẽ chuyển qua một thế giới rộng lớn hơn của xã hội và hoạt động chính trị Đại Việt, và nó trở nên lớn mạnh hơn một cuộc nổi dậy ở tỉnh thành về cả tầm vóc lẫn ảnh hưởng.

Một nghiên cứu mới đây cũng có liên quan đến nhà Tây Sơn, mặc dù vẫn còn có tính hạn chế. Tác phẩm của Choi Byung Wook có nhan đề Southern Vietnam under the reign of Minh Mạng (1820-1841): Central Policiesand Local Response (2004) (Nam kỳ dưới triều Minh Mạng (1820-1841): Các chính sách của trung ương và phản ứng của địa phương), cũng giống như nghiên cứu trước đó của Alexander Woodside, chỉ nhắm vào thời kỳ đầu của nhà Nguyễn. Choi Byung Wook mở đầu nghiên cứu của ông bằng cách nhắm vào cuối thế kỷ XVIII và khảo sát sự hình thành của một tổ chức chính quyền ở Gia Định trong thời gian xảy ra cuộc chiến giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn. Tuy nhiên, ông đã không chứ trọng đến nhà Tây Sơn, mà chú trọng đến đối thủ của Tây Sơn là nhà Nguyễn và những người kế tục, đã thành lập một liên minh chống Tây Sơn bên trong vương quốc không đồng nhất ở phía nam Đàng Trong.

Hai công trình nghiên cứu khác bằng tiếng Anh cũng đề cập đến phong trào Tây Sơn. Đó là Beyond the Bronze Pillars: Envoy Poetry and the Sino-Vietnamese Relationship (Hawa’i, 2005) (Bên kia đồng trụ: Thi sứ và mối quan hệ Trung-Việt) của Liam Kelley, bao gồm thời đại Tây Sơn và một số danh sĩ, như một phần của một cuộc nghiên cứu rộng rãi nhằm khảo sát cái thế giới tư tưởng lớn lao hơn của vùng Đông Á tìm thấy trong thi ca Việt. Bài nghị luận mới đây của Wynn Wilcox nhan đề “Allegories of Vietnam: Transculturation and the Origin Myths of Franco-Vietnamese Relations” (Cornell, 2002) (Chuyện ngụ ngôn ở Việt Nam: Sự chuyển đổi văn hóa và những huyền thoại khỏi đầu của mối quan hệ Pháp-Việt), là một nghiên cứu sử học nhìn trực tiếp về thời kỳ Tây Sơn, sử dụng nó như một lăng kính dùng để khảo sát mối quan hệ giữa chúa Nguyên Ánh và các giáo sĩ châu Âu đã ủng hộ ông. Tuy nhiên, Wilcox ít chú trọng đến những biến động của thời kỳ Tây-Sơn, mà quan tâm nhiều hơn đến sự xuất hiện về sau của những nhân vật lịch sử quan trọng. Trong lúc cả hai công trình nghiên cứu này có tính cách quan trọng khi quan tâm nhiều hơn vào những vấn đề ở cuối thế kỷ XVIII, chúng lại không dành sự quan tâm đặc biệt cho sự nổi dậy của nhà Tây Sơn và mối quan hệ lớn lao hơn của nó trong xã hội Đại Việt.

Đáng ngạc nhiên hơn, và với một vài ngoại lệ, các công trình nghiên cứu bằng tiếng Pháp về thơi kỳ tiền thuộc địa của Việt Nam cũng có khuynh hướng xem nhẹ nhà Tây Sơn như thế. Một nghiên cứu của Charles Maybon vào năm 1919 với nhan đề Histoire moderne du pays d’Annam (1592-1820) (Lịch sử cận đại xứ An Nam, 1592-1820) dành nhiều chương cho thời kỳ Tây Sơn, cho dù có một cái nhìn riêng biệt về nhà Nguyễn, và một điều không làm ai ngạc nhiên, là ông nhấn mạnh nhiều đến vai trò của người Pháp*. Năm 1955, Lê Thành Khôi xuất bản Le Vietnam: Histoire et civilisation (Việt Nam: Lịch sử và nền văn minh), đưa ra một phân tích chấp nhận được về thời kỳ Tây Sơn trong khuôn khổ một quyển sách giáo khoa về lịch sử Việt Nam*. Ông Khôi miêu tả những chuyển đổi về kinh tế và xã hội gây nên tình trạng bất ổn phổ biến ở cả hai miền của đất nước và rồi đưa ra một bản mô tả có cân nhắc về cuộc nổi dậy và sự sụp đổ sau cùng của chế độ Tây Sơn. Khi chỉnh sửa lại cuốn Histoire du Vietnam (1983,1992) (Lịch sử Việt Nam), trong phần tóm lược về cuộc nổi dậy, ông Khôi vẫn giữ lại phần kể về những diễn biến của nó và những động lực làm thay đổi những diễn biến đó. Tác phẩm nghiên cứu bằng tiếng Pháp gần đây của Philippe Langlet nhan đề L’ancienne Historiographie d’état au Vietnam (1990) (Phép chép sử ở Việt Nam khi xưa) tuy chủ yếu là một nghiên cứu tỉ mỉ về dự án chép sử nhà Nguyễn thế kỷ XIX, cũng quan tâm đến quan điểm của nhà Nguyễn đối với những người đi trước họ, bao gồm nhà Tây Sơn và nhà Lê*. Langlet chứng minh rằng, các sử quan nhà Nguyễn đã phải đánh vật với vấn nạn làm thế nào để miêu tả chân dung nhà Tây Sơn, đồng thời tìm cách củng cố tính hợp pháp của chính họ đã bị làm vẩn đục bằng con đường nắm quyền lực không chính quy của họ. Cuối cùng là Yang Baoyun với chuyên khảo năm 1992 với nhan đề Contribution à Vhistoire de la principauté des Nguyễn au Vietnam méridional (1600- 1775) (Sự đóng góp vào lịch sử của vương quốc các chúa Nguyễn tại Đàng Trong, 1600-1775) là một ví dụ khác về một nghiên cứu gần đây đã tiếp cận nhưng không đề cập trực tiếp đến nhà Tây Sơn.

Như nhan đề đã gợi ra, tác phẩm của Yang ngưng ngay khi nhà Tây Sơn bắt đầu nổi dậy, và chỉ báo trước một cách vắn tắt những gì tiếp theo sau*. Theo cách này, phong trào Tây Sơn đã được các tác phẩm nghiên cứu quan trọng bằng tiếng Anh trình bày một cách rành mạch theo thứ tự thời gian và được khảo sát tương đối chi tiết hơn bằng tiếng Pháp, trong khi phần lớn giới học giả sử dụng ngôn ngữ châu Âu đã không có những nghiên cứu tỉ mỉ về phong trào.

Trên một vài phương diện, phong trào đã không đương cự nổi trước những nỗ lực có hệ thống của nhà Nguyễn nhằm xóa sạch - trong chừng mực có thể - những dấu vết của chế độ Tây Sơn*. Như David Marr đã chỉ ra: “triều Nguyễn cấm các sử gia của họ thuật lại những gì thuộc về triều đại ngắn ngủi của nhà Tây Sơn (1788-1802), thông thường đó là lề thói hàng ngày nhằm bảo tồn cho hậu thế tính liên tục thời gian từ một quá khứ xa xôi*”. Tất nhiên là sự cấm đoán này khiến cho việc nghiên cứu về thời kỳ Tây Sơn trở nên khó khăn hơn so với những thời kỳ trước và sau đó, là những thời kỳ mà các tư liệu lịch sử được biên soạn nhiều hơn và tồn tại lâu hơn. Sự thống trách cũng có thể diễn ra trước ngưỡng cửa của thời kỳ thuộc địa hóa, là thời kỳ lôi cuốn sự chú ý của giới học thuật nhiều hơn, một phần do nó kết nối trực tiếp Việt Nam với thế giới châu Âu, và tất nhiên, một phần nó được xem là khúc dạo đầu gần gũi nhất dẫn đến cuộc cách mạng bi thảm và những cuộc chiến ở thế kỷ XX. Dù với lý do nào, nước Việt Nam vào cuối thế kỷ XVIII cũng là một vùng đất chưa được khai phá hết của các nhà học thuật phương Tây.

NGƯỜI VIỆT NAM CHÉP SỬ VỀ THỜI KỲ TÂY SƠN

Trái ngược với các đồng nghiệp phương Tây, các sử gia Việt Nam đã chép sử thời kỳ Tây Sơn một cách tỉ mỉ hơn, việc giải thích về cuộc nổi dậy cũng đáng chú ý hơn và thường dẫn đến những cuộc tranh cãi phức tạp. Thật vậy, thời kỳ này và những biến động kèm theo nó là điểm cốt yếu trong các câu chuyện kể về lịch sử xuất hiện trong các bộ sử chép về sau. Điều đáng tranh cãi là những vấn đề về tính hợp pháp về chính trị, về sự phân ly và hợp nhất quốc gia, những xung đột và đối đầu trong xã hội. Sự dính líu của '‘người ngoài” trong những tranh chấp về chính trị ở Việt Nam, từ việc chúa Nguyễn Ánh liên minh với người Xiêm vào đầu thập niên 1780 đến sự tín nhiệm của ông đối với các lính đánh thuê người Pháp, và cuộc xâm lăng qui mô lớn của quân Trung Hoa nhân danh triều đại nhà Lê vào những năm cuối cùng của thập niên này, tất cả đã khơi mào cho những xung đột xoay quanh vấn đề chủ nghĩa quốc gia. Những tranh chấp về việc chép sử này đã bắt đầu trước khi tàn dư của những cuộc xung đột đã được giải quyết xong và tiếp tục cho đến ngày nay, và đó là truyền thống chép sử đầy tranh cãi mà cuộc nghiên cứu của tôi đã đóng góp vào. Trong việc phân tích về nhà Tây Sơn, tôi tìm cách tạo sự cân bằng giữa hai thái cực, một mặt là sự quỷ hóa và phỉ báng nhà Tây Sơn của nhà Nguyễn sau khi kế tục họ về mặt chính trị, một mặt là sự vinh danh cùng tôn kính của các sử gia Cộng sản trong thế kỷ XX, những người xem công cuộc cách mạng của họ là sự thừa kế tinh thần cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn.

Vào thế kỷ XIX, triều Nguyễn mà người sáng lập từng chống lại nhà Tây Sơn và cuối cùng lật đổ được chế độ này, đã miêu tả họ như là “giặc cướp*” hay “phiến loạn*”, bác bỏ mọi ý niệm cho rằng nhà Tây Sơn đã xây dựng một triều đại hợp pháp. Thêm vào đó, các sử quan triều Nguyễn lập luận rằng, việc tham gia của dân chúng vào phong trào Tây Sơn lúc đầu là sản phẩm của sự lừa gạt, về sau là do bị cưỡng bách*. Cách chép sử này rõ ràng là nhằm chính thống hóa sự cầm quyền của nhà Nguyễn, chủ yếu cũng là sản phẩm của một thắng lợi quân sự*. Tính chính thống của nhà Nguyễn kết hợp với sự thất trận của nhà Tây Sơn là điều mà Nola Cooke gọi là “huyền thoại phục hưng”, theo đó, các nhà cai trị mới họ Nguyễn đã phục hưng một chính thể do tổ tiên họ thiết lập hơn là kế tục vương quyền đó nhà Lê để lại*.

Xét về mặt chính thống, triều đại mới có thể chọn ưu tiên cách giải thích này, vào lúc mà những truyền thuyết phổ biến xoay quanh nhà Tây Sơn bắt đầu đưa ra một cách giải thích nhằm lý tưởng hóa phong trào nổi dậy, và người dân vùng Bình Định* tìm cách phục hồi tên tuổi những ai được xem là anh hùng hào kiệt của địa phương*. Thêm vào đó, việc nhà Nguyễn tự đặt mình ra ngoài khuôn khổ nhà Lê cũ đã khiến một vài danh sĩ Bắc hà viết riêng những tác phẩm về chế độ Tây Sơn vốn là một triều đại ngắn ngủi được chính thức mô tả là bất hợp pháp*. Vì thế, việc ghi chép lịch sử về phong trào Tây Sơn ở thế kỷ XIX khá phức tạp và nhiều mâu thuẫn, hậu quả của những góc nhìn và mục tiêu chính trị khác nhau.

Hình 2: Tượng vua Quang Trung, một sự miêu tả cách điệu hình ảnh của người em trong gia đình Tây Sơn, nằm trong một vị trí thuộc Bảo tàng Quang Trung, được xây dựng trong khu phức hợp của anh em Tây Sơn.(Ảnh của tác giả.)

Hai mạch dẫn giải không chính thức này bắt đầu xuất hiện một cách rõ ràng hơn vào đầu thế kỷ XX khi sự suy yếu về mặt chính trị của nhà Nguyễn dưới sự thống trị của thực dân Pháp tạo điều kiện cho trước tiên là các sử gia theo chủ nghĩa dân tộc và sau đó là các sử gia Mác-xít đưa ra những giải thích khác hơn, khi họ khảo sát phong trào Tây Sơn dưới ánh sáng của cuộc cách mạng Việt Nam.

Giới nghiên cứu đầu thế kỷ XX bắt đầu bỏ qua quan điểm coi nhà Tây Sơn như ''giặc cướp” hay "phiến loạn”. Thay vào đó, do ít bị ràng buộc bởi những mối quan tâm về ý thức hệ của một triều Nguyễn đã suy yếu, họ cho rằng anh em nhà Tây Sơn đã mưu cầu một quyền lực chính trị hợp pháp*. Cùng lúc với sự xuất hiện khuynh hướng đó, các tài liệu vào đầu thế kỷ XX không bàn đến vấn đề hỗ trợ của dân chúng cho phong trào. Thật vậy, các tài liệu có liên quan đến người nông dân hầu như biến mất hoàn toàn trong tác phẩm của hai nhà viết sử nổi bật vào đầu thế kỷ XX là Phan Bội Châu và Trần Trọng Kim, khi mà họ có thể bàn luận một cách thoải mái hơn về các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự thời kỳ Tây Sơn*. Phải chờ đến năm 1938, trong tác phẩm Việt Nam văn hóa sử cương, Đào Duy Anh mới cho rằng chính sự tham gia của nông dân đã mang lại sức mạnh và thắng lợi của phong trào Tây Sơn*. Dù vậy, phải đến sau Thế chiến thứ hai, tiếp theo cuộc cách mạng của những người Cộng sản và mối quan hệ mạnh mẽ của họ với nông thôn Việt Nam, việc miêu tả nhà Tây Sơn như một “cuộc nổi dậy của nông dân” hay “phong trào nông dân” bắt đầu xuất hiện trong giới học thuật Việt Nam. Những biểu hiện này thường được quảng bá bởi các nhà sử học Cộng sản vào nửa sau thế kỷ XX, và ngày nay chi phối các cuộc thảo luận có liên quan đến thời kỳ Tây Sơn.

Những nhà học thuật đó hào hứng miêu tả cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn như một cuộc cách mạng*, hoặc trung dung hơn, là phong trào nông dân*. Cả hai cách diễn tả này cho thấy là người nông dân Việt Nam đã ủng hộ các nhà lãnh đạo phong trào Tây Sơn và chính thể của họ sau đó. Các nhà sử học Cộng sản lập luận rằng người nông dân đã háo hức ủng hộ các nhà lãnh đạo ngay trong thời kỳ đầu của cuộc nổi dậy, tiếp sau là sự hợp tác của giới nông dân hợp nhất trong những nỗ lực hào hùng nhằm thống nhất đất nước và đánh đuổi ngoại xâm - quân Xiêm năm 1785 và quân Tàu năm 1789. Cách phân tích này dẫn đến lập luận cho rằng động cơ (hợp tác) của người nông dân xuất phát từ hành động của họ. Vì thế, sự kiện những đạo quân nông dân chiến đấu chống lại sự xâm lược của người Xiêm (hay người Tàu) được giải thích như sự tiêu biểu của một cuộc chiến đấu bảo vệ nền độc lập quốc gia. Tương tự như vậy, việc quân đội Tây Sơn vượt qua lằn ranh chia đôi hai nhà Trịnh-Nguyễn vào năm 1786 được miêu tả như sự thể hiện niềm khát khao cháy bỏng được nhìn thấy sự thống nhất đất nước hơn là theo đuổi một cách tầm thường sự giàu có, quyền lực, và cả sự trả thù.

Trong việc nhận định của các nhà chép sử Cộng sản về nhà Tây Sơn, người nông dân xuất hiện như những gương mặt anh hùng, cao thượng và dũng cảm, thề hứa vì công bằng kinh tế và xã hội, vì một đất nước thống nhất không bị ngoại bang can thiệp vào. Người nông dân trong thời đại Tây Sơn được miêu tả như những người tiên phong trong cuộc cách mạng được họ ủng hộ vào thế kỷ XX, cho dù sự thất bại cuối cùng trong việc chuyển đổi cơ cấu chính trị và kinh tế được xem như một chỉ dấu của sự hạn chế mạnh mẽ mà thời khắc lịch sử này đã áp đặt lên họ. Họ lập luận rằng cuối cùng chỉ có Đảng (Cộng sản) mới vượt qua được những giới hạn về nhận thức đã từ lâu kìm hãm óc sáng tạo của người nông dân. Sự miêu tả giới nông dân thế kỷ XVIII như những người ở bậc dưới của thang xã hội, cao thượng và kiên định, những người ủng hộ trung thành nhà Tây Sơn, có vẻ như đã biến họ trở thành kẻ đồng lõa với sự áp bức mà chính họ là nạn nhân, vì thời đại Tây Sơn rõ ràng là thời kỳ của vô vàn khổ nhọc và khó khăn của người nông dân. Đó là thời kỳ mà lợi ích của sự nổi dậy, nếu quả thực có thể nhận thấy được, cũng hiếm khi vượt quá cái giá lớn lao mà nhóm người này phải trả.

Trong nhiều bài viết, người nông dân được đồng nhất với những người lãnh đạo họ, và điều này cho thấy rằng động cơ của các nhà lãnh đạo (chứ không phải của người nông dân) bằng cách này hay cách khác, cũng tiêu biểu hoặc phù hợp với động cơ của những người theo họ (thường khi là miễn cưỡng). Vì thế, cụm từ “Tây Sơn” thường được dùng để chỉ toàn bộ phong trào, người lãnh đạo cũng như người đi theo, được xem như có cùng quyền lợi như nhau, hoặc ít nhất cũng chồng chéo nhau, trong khi trên thực tế, các nhà lãnh đạo cuộc nổi dậy thường không mấy quan tâm đến những người đi theo họ. Những người này thường tỏ ra miễn cưỡng hoặc bị cưỡng bức nặng nề. Cho dù một vài nhà viết sử Việt Nam gần đây bắt đầu có một cái nhìn phê phán hơn về thời kỳ Tây Sơn, song không có một sự tái khảo sát một cách có hệ thống về thời kỳ này, hoặc sách về cuộc nổi dậy vẫn chưa được xuất bản*. Các tác phẩm vào cuối thập niên 1980 vốn tiêu biểu cho đợt cuối cùng những câu chuyện kể về phong trào Tây Sơn, tiếp tục coi đó như một hành động kiêu hùng được dẫn dắt bởi chủ nghĩa dân tộc nhằm bảo vệ đất nước và quyền lợi của giới nông dân bị áp bức*.

NGUỒN TƯ LIỆU VÀ ĐỐI TUỢNG NGHIÊN CỨU

Công trình nghiên cứu này dựa vào nhiều nguồn tư liệu, bao gồm tư liệu từ văn khố và tư liệu in tại Việt Nam và châu Âu. Tôi dựa nhiều vào các tư liệu Việt Nam cùng thời với nhà Tây Sơn và các biên niên sử của triều đình nhà Nguyễn vào cuối thế kỷ XIX để có những phác thảo rõ ràng về cuộc nổi dậy và những biến động quan trọng do nó gây nên. Tôi bổ sung những tư liệu này bằng việc đọc nhiều bài viết của các chứng nhân là các giáo sĩ người châu Âu (chủ yếu là người Pháp), những người đã trải qua các biến động vào thời kỳ này. Các bài tường thuật của những giáo sĩ này đặc biệt có giá trị trong việc cung cấp một cái nhìn ở cấp làng xã về những biến động thường chỉ được biên niên sử Việt Nam miêu tả một cách sơ lược. Dù nguồn tư liệu châu Âu có một khuynh hương riêng và phản ánh cái ưu thế của người đứng ngoài cuộc, nhiều giáo sĩ là những người cư trú lâu năm ở Đại Việt, nói được tiếng Việt và có một cảm nhận đặc biệt rõ ràng về sự phát triển chính trị ở cả cấp làng xã lẫn cấp quốc gia. Những tư liệu của các giáo sĩ đặc biệt giúp tôi viết ra một tác phẩm tương đối chi tiết về ảnh hưởng của cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn đối với người Việt bình thường, cùng với phản ứng của họ.

Soạn thảo dựa vào những nguồn tư liệu như thế, công trình nghiên cứu này không thừa nhận những miêu tả về nhà Tây Sơn bằng cách cho rằng cuộc nổi dậy và chính thể mà nó tạo ra có một cấu trúc thật phức tạp và nhiều thành phần tham gia, thường những mục tiêu mâu thuẫn nhau không cho phép giải thích một cách quá đơn giản như các nhà sử học từ trước tới nay thường làm.

Cuộc nổi dậy, về sau biến thể thành một loạt những chế độ chính trị, chẳng những cố liên hệ đến giới nông dân, mà còn với nhiều nhóm chính trị và xã hội khác, mỗi nhóm chịu ảnh hưởng sâu sắc, trên một phương diện nào đó, bởi những sự kiện đã diễn ra từ mùa xuân năm 1773. Điều mà tôi muốn nói ra ở đây là cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn không chỉ có liên quan đến người nông dân mà còn nhắm đến sự tham gia của họ trong suốt một quá trình dài. Thật vậy, chính những người lãnh đạo phong trào, tức ba anh em nhà Tây Sơn, không đơn thuần là nông dân hay ngươi làm nông, cho dù họ thường lặp đi lặp lại rằng họ có gốc nông dân. Đúng hơn là nên coi họ thuộc về tầng lớp quý tộc nhỏ ở nông thôn, với người lớn tuổi nhất là Nguyễn Nhạc vốn là một người buôn bán trầu cau kiêm nghề thu thuế theo thời vụ cho triều đình nhà Nguyễn. Hơn thế nữa, cả ba anh em nhận được sự giáo huấn đáng kể của một bậc thức giả khả kính đã xa lánh khỏi những cuộc tranh chấp nội bộ trong triều đình nhà Nguyễn, về sau là người cổ vũ cho anh em Tây Sơn tiến hành cuộc nổi dậy. Lai lịch anh em nhà Tây Sơn cho thấy rõ rằng, trong lúc dựa vào người nông dân để bổ khuyết quân đội của họ và để ý đến một vài mối quan tâm của người nông dân, bản thân họ không phải là nông dân.

Khi cuộc nổi dậy bắt đầu, các lãnh tụ Tây Sơn nhanh chóng đi sâu vào khung cảnh rộng lớn của xã hội Đàng Trong, về sau, khi phong trào lan ra đến Đàng Ngoài, họ buộc phải đối phó với những phức tạp xã hội ở đó. Họ khá thành công trong việc tuyển mộ những người ủng hộ, từ những nông dân người Việt ở vùng đồng bằng, những thương buôn người Hoa ở vùng duyên hải, đến những thành viên trong gia đình hoàng tộc Chăm và các bộ tộc vùng Tây Nguyên. Mỗi một nhóm này có những mục tiêu khác nhau, họ kết hợp với nhau chủ yếu do bất bình với cung cách quản lý tồi nền kinh tế Đàng Trong của các chúa Nguyễn về các mặt thương mại, thuế khóa và tiền tệ. Anh em nhà Tây Sơn có thể lôi cuốn những nhóm chiết trung như thế theo mình, chính là vì họ đáp ứng quyền lợi riêng của mỗi nhóm và đưa những mối bất bình riêng của mỗi nhóm vào chương trình hành động của họ. Chính những lực lượng tham gia đông đảo này buộc các nhà lãnh đạo Tây Sơn phải kết nối lại một chương trình hành động đầy tham vọng và thường mâu thuẫn nhau. Chính vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi các nhà lãnh đạo phong trào Tây Sơn không thể đáp ứng hết kỳ vọng của những người đã tham gia cuộc nổi dậy từ lúc ban đầu.

Sau này, có vẻ như những người hưởng lợi nhiều nhất từ sự nổi dậy của nhà Tây Sơn là những người lãnh đạo của phong trào này và những kẻ ủng hộ ưu tú của họ. Cho dù một số nhóm cấp dưới cũng được hưởng lợi vào một số thời điểm, ở một số nơi, từ việc làm của nhà Tây Sơn - chẳng hạn như những lúc cần phục hồi trật tự, hoặc các cơ hội thu tóm chiến lợi phẩm do nhiều chiến dịch quân sự mang lại - những lợi ích đó hiếm khi có tính hệ thống và dài lâu. Những cuộc tái phân phối tài sản ban đầu và thủ tục bãi bỏ gánh nặng thuế khóa khiến họ có biệt danh “những kẻ cướp nhân từ", đã sớm nhường chỗ cho những đòi hỏi của chính quyền quân nổi dậy ít nhất cũng phiền hà như những gì mà chính thể do họ thay thế từng làm, và có lẽ còn hơn thế nữa, vì những đòi hỏi này thường được đưa ra trong khuôn khổ những chiến dịch hành quân kéo dài nhằm thu thuế và bắt người dân làm lao động cực nhọc.

Các nhà lãnh đạo Tây Sơn chẳng bao giờ thực hiện một sự thay đổi sâu rộng nào để cải tiến thân phận của giai cấp nông dân, như những cuộc cải cách ruộng đất qui mô hay tái phân phối tài sản. Ngay cả trong những ngày đầu của phong trào Tây Sơn, những người lãnh đạo cuộc nổi dậy cũng chỉ tái phân phối những tài sản có giá trị thấp, hoặc lúa gạo, hơn là cấp cho người nông dân các chứng thư ruộng đất. Có một khoảng thời gian ngắn họ điều chỉnh mức chịu thuế của người dân ở Đàng Ngoài và nỗ lực kích thích thương mại, song đó là những mưu chước nhằm đối phó với những cuộc khủng hoảng đang diễn ra hơn là đưa ra những cải tổ một cách có hệ thống. Dù gì thì sự tương hợp về quyền lợi giữa các nhà lãnh đạo phong trào Tây Sơn với những người theo họ trong những năm đầu tiên của phong trào cũng nhanh chóng biến mất và những gì được coi như một “phong trào nông dân” trong những ngày đầu cũng sớm biến thành một thực thể chính trị phức tạp và rối rắm ngày càng tiêu biểu cho quyền lợi của những nhà lãnh đạo chính trị cao cấp mưu cầu quyền lực để đạt được mục đích của mình. Sau nữa, cần minh xác rằng cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn cũng giống như nhiều "phong trào nông dân” khác, không thể được xem như sự biểu lộ ý chí tập thể của giới nông dân. Ngay trong thời kỳ đầu, khi số người đi theo còn ít, phong trào có khuynh hướng theo chủ nghĩa bình quân và những nhà lãnh đạo của phong trào còn cố chứng tỏ mình, song cái chủ nghĩa bình quân đó sớm dẫn đến sự xung đột giữa khát vọng của những nhà lãnh đạo Tây Sơn với kỳ vọng của những người nông dân phục vụ trong quân đội của họ. Nói cách khác, một cuộc nổi dậy khỏi đầu bởi (và kể cả cho) người nông dân không có nghĩa là nó sẽ vẫn còn giữ cái danh nghĩa “phong trào nông dân”. Như Michael Adas đã có lý khi viết rằng:

“Xem xét kỹ nhiều cuộc bạo loạn được quy cho người nông dân gây ra, hoặc những cuộc nổi dậy đòi ruộng đất, người ta có thể kết luận rằng trên thực tế các cuộc xung đột này là hậu quả mối hận thù giữa những phe phái quyền lực hoặc các cuộc chống đối triều đình, trong đó, có sự dính líu bất đắc dĩ của những người lính gốc nông dân hoặc giới nông dân. Ngoại trừ những cuộc nổi dậy quan trọng trong đó người nông dân tập hợp quanh một đấng cứu tinh hay những nhà lãnh đạo có uy tín đấu tranh để lật đổ những kẻ cầm quyền bất tài hay tàn bạo, căn nguyên và hậu quả của những cuộc đấu tranh đó rất ít được người nông dân quan tâm đến, hoặc không dính đáng bao nhiêu đến thân phận của tầng lớp dân cày”.

Trong khi xét trên một vài phương diện, phong trào Tây Sơn thuộc về trường hợp ngoại lệ như Adas đã miêu tả - theo đó, phong trào được dẫn dắt bởi “những nhà lãnh đạo có uy tín đấu tranh để lật đổ những kẻ cầm quyền bất xứng hay tàn bạo” - nó cũng biểu thị những yếu tố cùa điều mà Adas gọi là "mối cừu hận giữa những người có quyền lực trong xã hội hoặc những cuộc đấu tranh chốn cung đình”. Như sẽ nói rõ trong công trình nghiên cứu này, nhà Tây Sơn dính líu rất nhiều vào những cuộc tranh chấp ngôi vị diễn ra trên lãnh thổ của cả chúa Nguyễn lẫn chúa Trịnh. Và cho dù có thể nói rằng các lãnh tụ Tây Sơn đã tận dụng các cơ hội này cho những mục tiêu riêng của họ, cũng lại có thể cho rằng họ đã bị các đối thủ lôi kéo vào các cuộc tranh giành quyền lực và đến lượt họ lôi kéo người nông dân tham gia vào những cuộc đấu tranh do họ gây ra.

Điểm nhấn của công trình nghiên cứu này là những động lực xã hội tiềm tàng của cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn, và lần lượt mở rộng sang những chương khảo sát các nhóm xã hội khác. Để xây dựng một bối cảnh cho bài phân tích này, Chương I cung cấp một cái nhìn lịch sử rộng lớn về thời kỳ Tây Sơn, khảo sát những nguyên nhân chính của cuộc nổi dậy, rồi phác họa những nét đại cương về diễn biến của cuộc nổi dậy. Chương II khởi sự một cuộc khảo sát chặt chẽ hơn về nhiều khía cạnh của cuộc nổi dậy, bắt đầu với các nhà lãnh đạo là ba anh em ở ấp Tây Sơn, xem họ đã xây dựng tính chặt chẽ của phong trào như thế nào. Trong Chương III, tôi lập luận rằng lời hứa của phong trào khi khởi sự như chấm dứt nạn tham nhũng, hủy bỏ thuế má bất hợp lý, và tái phân phối tài sản cho dân sẽ sớm nhường bước cho những thực tế đời sống tăm tối dưới một chế độ gần như lúc nào cũng có chiến tranh. Tôi khảo sát vấn đề mà người nông dân, hiểu theo nghĩa rộng, đã bị tác động như thế nào và phản ứng ra sao trước “phong trào nông dân” này- Cuối cùng, Chương IV quay sang nghiên cứu về nhiều người sống ở nơi mà tôi gọi là bên lề xã hội Việt Nam vào thời kỳ này. Họ là những người Công giáo Việt Nam, các bộ tộc thiểu số, những kẻ không được luật pháp che chở, và bọn cướp biển, với mối quan hệ phức tạp giữa họ với các lãnh tụ Tây Sơn.

Tài liệu phân tích này gợi ra rằng tâm điểm cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn là một loạt những tác động qua lại giữa các lãnh tụ cuộc nổi dậy với nhiều nhóm khác nhau trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Đôi khi sự tương tác đó thể hiện dưới hình thức hòa hợp giữa hai bên, có khi họ thương lượng với nhau về mối quan hệ giữa hai bên. Trong những trường hợp khác, các lãnh tụ Tây Sơn kết nạp một số nhóm hoặc người cầm đầu của nhóm, và trong nhiều trường hợp, tùy vào hoàn cảnh, nhà Tây Sơn dựa vào sự áp bức để đạt được mục tiêu của họ. Như vậy, thông qua sự hòa hợp, sự thương lượng, sự kết nạp, và áp bức, các nhà lãnh đạo của phong trào nổi dậy có khả năng tự biến đổi - ở một chừng mực nào đó - thành những nhà cai trị “Việt Nam”, ngay vào lúc đất nước vẫn còn chia cách và chiến tranh.

Công trình nghiên cứu của tôi cũng không thừa nhận ý niệm về chủ nghĩa biệt lệ* của nhà Tây Sơn thường thấy trong phương pháp chép sử của người Cộng sản Việt Nam, cho rằng chính thể Tây Sơn và chính sách, sự cư xử của họ đối với người nông dân tốt hơn những chính thể mà họ thay thế, hoặc những chính thể tiếp sau họ. Có rất ít trường hợp chế độ nhà Tây Sơn đi chệch hướng hành động của những người đi trước, nhất là trong việc chọn lựa danh xưng các chức vụ trong chính quyền, và ở một qui mô nhỏ hơn là việc họ sử dụng chữ Nôm trong một số văn kiện của chính quyền. Nhưng nhìn chung, anh em nhà Tây Sơn không phải là những nhà canh tân và điều không làm ai ngạc nhiên là chính thể mới của họ chấp nhận cung cách và lề thói của những người đi trước họ, bao gồm cả cơ cấu hành chánh lẫn nhiều thứ lễ phục. Những gian khổ mà người nông dân phải đương đầu như lao động khổ dịch, thuế má gia tăng vô tội vạ, bắt lính triền miên, được nhân lên dưới chính quyền Tây Sơn, song chúng cũng tương tự với những gì họ đương đầu dưới chính quyền các chúa Trịnh và sau đó, dưới chính quyền nhà Nguyễn vào thế kỷ XIX.

Cuối cùng, tôi lập luận rằng thay vì xem cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn là tiêu biểu cho sự chiến thắng của tầng lợp nông dân đã chịu đựng khổ sở lâu ngày, chúng ta nên hiểu điều này như một thử thách về quyền lực trước một chế độ chính trị suy yếu. Những người tiến hành cuộc nổi dậy được khích lệ bởi những dấu hiệu cho thấy là một thử thách như thế có thể đạt đến thành công. Cuộc nổi dậy không phải là một phong trào về mặt tư tưởng tìm cách kết nối một chương trình hành động đồng nhất. Nói đúng hơn, đó là một biến động diễn ra trong những tình huống luôn thay đổi, bởi ý muốn thất thường của nhà lãnh đạo, và phản ứng của những người ở phía đối địch. Việc nghiên cứu này sẽ đề cập đến một số vấn đề phức tạp, mặc dù không thể dẫn chứng hết bằng tư liệu.

Báo cáo nội dung xấu