Dặm đường vàng - Chương 01

Chương 1

Los Angeles, 03 tháng 6 năm 1985.

Tiếng một con vật bị
đánh kêu ăng ẳng làm bà Anna thức giấc. Trước khi lên giường bà đã uống một
viên thuốc ngủ cho nên lúc này đầu óc bà vẫn còn đang lơ mơ, không biết tiếng
kêu ăng ẳng kia là có thật hay mê.

Đưa mắt sang chiếc đồng
hồ dạ quang trên bàn đầu giường, bà thấy lúc này là một giờ sáng. Trong phòng
yên ắng, bà ta tin chắc vừa rồi chỉ là nằm mê nên lại đặt đầu lên gối. Nhưng
chưa kịp nhắm mắt bà lại nghe thấy tiếng con chó kêu, lúc này chỉ là tiếng rên
rỉ nhỏ dần rồi im bặt.

“Sếp!”

Đó là tên con chó
nòi Yorkshire của cô gái bà. Nó ngủ trong cái giỏ dưới bếp. Tiếng gọi
của bà run rẩy và khi không thấy tiếng đáp lại, bà vùng đứng dậy, bước ra định
mở cửa nhưng tại sao lại bị khóa bên ngoài. Bà nghe thấy thiếng chân người đi
bên phòng khách rồi tiếng loảng xoảng. Bà hoảng hốt vội nhón chân bước nhanh ra
chỗ bàn trang điểm, nơi đặt máy đàm thoại liên lạc với phòng ngủ của cô con gái
lúc này ngủ ở cánh bên kia của tầng nhà. Bà ấn nút định nói chuyện với cô nhưng
ánh đèn đỏ báo hiệu làm việc không bật sáng.

Cố trấn tĩnh nỗi kinh
hoàng, bà bước đến máy điện thoại nhấc lên. Đây là đường dây liên lạc trực tiếp
với nhân viên trực đêm dưới tầng trực của tòa nhà cao ốc 35 tầng này. Nhưng
điện thoại cũng lại không kêu. Bà hấp tấp chạy đến nút bấm báo động đặt ở đầu
giường. Tất cả các phòng trong khu hộ sang trọng rộng chín ngàn bộ vuông này
đều có bố trí nút chuông báo động bên dưới, nơi suốt 24/24 tiếng đồng hồ đều có
cả một đội tuần tra túc trực. Nhưng bà ấn cũng chẳng thấy có hồi âm.

[Chúc bạn đọc sách vui
vẻ tại www.gacsach.com -
gác nhỏ cho người yêu sách.]

Bà Anna lắng nghe thấy
bên ngoài có tiếng thở phì phò và tiếng người nói chuyện. Ngọn đèn dầu giường
bà đột nhiên nhấp nháy rồi phụt tắt. Cả căn phòng tối om, chỉ chừa tấm bảng dạ
quang nhỏ bố trí bên cạnh nút chuông báo động. Trên tấm bảng này lắp sẵn hệ
thống theo dõi tại đủ 18 phòng của khu hộ bao gồm những máy do thám bằng tia
hồng ngoại bố trí trên trần, máy dò siêu âm đặt trong các bức tường và những
điểm thụ cảm hết sức nhạy bén dưới các tấm thảm. Bất cứ kẻ nào lọt vào một
phòng đều bị phát hiện và báo lên tấm bảng này. Nhìn vào tấm bảng, bà thấy rõ
có kẻ gian lọt vào hiện đang di chuyển trong khoảng giữa phòng khách và phòng
thư viện.

Bà Anna đang chăm chú
nhìn vào tấm bảng thì đột nhiên máy dò âm thanh bố trí trên lò sưởi lúc nãy im
ắng bây giờ vang rất to, như thể bọn gian phi đứng cách bà vài bước chân. Bà
tưởng chỉ với tay ra là chạm vào được người chúng. Nhưng rồi âm thanh đó cũng
đột nhiên tắt ngấm.

Bà ngập ngừng rồi bước
ngang qua phòng ngủ, đến cạnh cửa, áp tai vào nghe xem có thấy tiếng bước chân
hay tiếng người nói nhưng không thấy gì hết. Bà đặt bàn tay len qủa đấm cửa
xoay nhưng không được. Như thể có kẻ nào giữ bên ngoài, hoặc cũng có thể kẻ
gian xoay quả đấm ngược chiều để định vào. Đột nhiên cánh cửa bật mở. Bà tưởng
như sắp bị đánh một đòn choáng váng như nagỳ nào, nhưng bà nghe thấy giọng con
gái, cô Janna nhẹ nhàng hỏi: “Mẹ vẫn yên ổn đấy chứ ạ?”

- Ôi, ơn chúa lại là
con. - Bà thì thào run rẫy. - Có chuyện gì phải không?

- Có ai đột nhập vào
nhà ta. - Janna khẽ nói. - May con vừa về khóa trái cửa phòng ngủ lại chứ nếu
vẫn còn ở ngoài thì thật sợ quá.

- Mẹ đã ấn nút báo động
nhưng không thấy hồi âm gì hết. Chắc máy bị hỏng.

Janna bước đến máy điện
thoại, nhấc lên rồi áp vào tai.

- Máy hoạt động được
rồi mẹ ạ.

Nàng nói rồi quay số và
nghe thấy tiếng nhân viên trực đêm ở đầu dây bên kia.

Đúng 1 giờ 54, Kershaw,
quản lý kiêm bảo vệ tòa cao ốc Wellington này lên đến nơi. Gầy, cao,
trạc năm chục tuổi, ông ta mặc áo pan-to dài đến đầu gối, quần len kẻ sọc rất
nghiêm chỉnh mặc dù giữa đêm khuya. Cùng đi với ông ta là Harris, phụ trách an
ninh, to béo, vẻ mặt tươi tỉnh, bụng phệ, vươn ra khỏi thắt lưng to bản đeo đầy
các thứ lỉnh kỉnh trong đó có cả đèn pin và khẩu súng ngắn to tướng. Thấy nhân
viên trực đêm báo tin, họ vội gặp nhau trao đổi tình hình trước khi lên đây
bằng hệ thống thang máy chỉ dùng riêng cho những người sống trong tòa cao ốc
này.

Hai người đều nhất trí
rằng việc kẻ gian đột nhập vào khu hộ trên tầng thứ 35 là quá vô lý. Nhưng
người báo tin lại là Janna Maxell - Hunter, một trong những chủ nhân của tòa nhà
cao ốc Wellington này, đồng thời cũng là chủ của họ nên họ không thể
coi thường. Họ đã bàn bạc với nhau rất kỹ xem do đâu mà xảy ra chuyện vô lý
kia. Họ đi đến kết luận rằng, mặc dù họ rất lo lắng nhưng tòa cao ốc cũng như
khu hộ của gia đình cô Janna là tuyệt đối không có thể ai đột nhập được.

Ngoài đội bảo về tuần
tra 24/24, tòa cao ốc còn được trang bị cả bên trong lẫn bên ngoài bằng rất
nhiều máy thu hình liên tục hoạt động, truyền hình ảnh về những màn hình đặt
trong phòng giấy trung tâm. Trường hợp một nơi nào bị kẻ là đột nhập, chuông
báo động hoạt động và máy vi tính lập tức tổng hợp, báo tin cho biết ngay kẻ
đột nhập là ai.

- Thậm chí nếu có người
lọt qua được hàng rào nhân viên bảo vệ, - Harris lý lẽ. - thì cũng chỉ có thể
lên đến tầng gác này bằng thang máy nội bộ, mà thang máy này chỉ hoạt động khi
nhận đúng mã số từ tính.

Quản trị trưởng Kershaw
dẫn họ đến cửa vào khu cửa bọc đồng nặng nề, báo tin họ đến và nghe thấy tiếng
Janna đáp, bảo họ sang gặp nàng ở phòng ngủ nằm ở cạnh bên trái của tòa nhà.
Sau tiếng bật khẽ cho biết ở khóa điện tử đã bắt đầu hoạt động, tiếng rè rè nổi
lên và lát sau cánh cửa từ từ hé mở. Hai người đàn ông bước vào khu hộ sang
trọng, rất ngạc nhiên thấy phòng khách tối om. Phụ trách an ninh Harris bấm đèn
pin rọi thành một vòng tròn rộng, thấy đồ đạc bị gãy, vải bị xé, sách vở quăng
xuống sàn và mặt kính bàn nước bị vỡ.

- Lạy Chúa tôi!

- Lục soát tất cả các
phòng xem! - Kershaw gầm lên. - Kẻ nào gây ra những chuyện này tất vẫn còn lẩn
quẩn quanh đây thôi!

Rút khẩu súng ngắn ra
khỏi bao, Harris thận trọng bắt đầu cuộc điều tra, trong khi viên quản lý kiêm
bảo vệ bước qua những đồ đạc bị gẫy, đi về phía phòng ngủ phía Đông. Gõ nhẹ vào
cánh cửa rồi xưng danh, ông ta bước vào bên trong. Đột nhiên ánh sáng lóe lên
và ông nhìn thấy hai người phụ nữ đứng bên cửa sổ.

- Sao ông lâu thế? -
Anna cau mặt nói.

- Nhân viên trực đêm
báo tôi biết là tôi đến đây ngaỵ.

- Cả tôi lẫn cô Janna
đều ấn chuông báo động.

- Dưới kia không nghe
thấy chuông reo và nhân viên canh gác hành lang dưới nhà thề rằng không có ai
vào hoặc ra khỏi tòa nhà này suốt trong bốn tiếng đồng hồ qua, kể từ khi y nhận
bàn giao phiên trực. - Ông Kershaw bướng bỉnh đáp.

Janna im lặng một lúc
rồi mới nói:

- Ông nên xem xét lại.
Rõ ràng hệ thống an ninh ở tòa nhà này có trục trặc.

- Vâng, tôi sẽ kiểm tra
lại toàn bộ hệ thống.

- Nhưng phải làm tuyệt đối kín đáo. - Janna nhắc.
- Nếu chuyện này lộ ra ngoài, sẽ tai hại vô cùng. Hãng công nghiệp Ngôi Sao mà
tôi là chủ đã đầu tư trên một trăm triệu đôla vào tòa nhà cao
ốc Wellington này. Mà muốn bán nó được giá thì điều kiện quan trọng
nhất là chúng ta phải bảo đảm an toàn tuyệt đói cho người chủ tương lai của nó…

Janna ngừng nói dở chừng vì thấy khuôn mặt tái
nhợt của Harris hiện ra trên ngưỡng cửa phòng ngủ. Ông ta nói giọng khàn đặc:

- Bên kia có một thứ
tôi nghĩ bà và cô nên sang nhìn qua một cái.

Cả bốn người sang phòng
thư viện và thấy xác con chó Sếp của Janna bị đánh đập tàn bạo đang còn nằm
trong vũng máu trên tấm thảm đắt tiền của hãng Aubusson.

- Lạy Chúa tôi! - Janna
hét lên đau đớn.

Nàng đăm đăm nhìn con
vật chừng một phút rồi từ từ ngước mắt lên nhìn vào một điểm trên tường. Kẻ nào
đã dùng máu con chó vẽ nguệch ngoạc lên đó một chữ thập ngoặc của Đảng Quốc Xã.

Lúc 9 giờ 45, bà Anna
Maxell-Hunter ngồi lại bàn trang điểm tô vài nét cuối cùng lên khuôn mặt. Nét
đã hóp và những quầng dưới mi mắt chứng tỏ đêm qua bà không ngủ được chút nào,
mặc dù viên quản lý và người phụ trách an ninh quả quyết rằng họ đã lục soát
khắp tòa nhà nhưng không thấy dấu hiệu nòa chứng tỏ có kẻ bên ngoài đột nhập.
Janna xin ở lại với mẹ nhưng bà Anna biết rằng sáng hôm sau con gái bà còn có
cuộc họp Hội đồng quản trị của hãng Ngôi Sao tại văn phòng hãng tại khu phố
Century nên kiên quyết bắt con phải cố ngủ lấy một giấc.

Trước khi rời về phòng
mình, Janna đã gọi điện cho trung úy Joe Dawson, một người bạn tin cẩn. Nhưng
anh ta không có mặt ở Sở Cảnh sát vì đang phải công cán tại khu phố thương mại
của thành phố Los Angeles này. Janna nhắn lại rằng khi nào ông ta về,
xin gọi điện ngay cho nàng. Mãi đến 8 giờ 30 khi Janna rời khỏi tòa nhà cao ốc
đi họp, trung úy Dawson vẫn chưa gọi điện tới.

Bà Anna ngồi mấy tiếng
đồng hồ liền chờ trời sáng và cố không suy nghĩ gì hết. Có quá nhiều điều bà đã
muốn quên đi ngưng chúng cứ từ quá khứ hiện về trong trí óc bà. Khu người Do
Thái cư trú ở thành phố Vacsava cháy trụi, những đứa trẻ bám chặt vào thành cửa
sổ của những ngôi nhà đang cháy bùng bùng, trong khi bọn lính Đức dùng chúng
làm bia để tập bắn.

Rồi một người mẹ bịt
miệng đứa con mới đẻ để nó khỏi khóc, làm lộ nơi trú ẩn bí mật của những người
Do Thái trong một hầm cố thủ nằm dưới đất và đứa bé ngạt thở đã chết…

Bà nhìn vào tấm gương
trên bàn trang điểm. Sáu mươi tuổi, lại đã trải qua bao nhiêu lần bị đánh đập
tra tấn, vậy mà bà vẫn còn đầy sức hấp dẫn. Gò má cao, làn da căng và mêm mại
chưa hề có vết nhăn, trừ vài nếp rất mảnh dưới mi mắt và trên trán chỉ lộ rõ
khi bà cau mặt hoặc đang đăm chiêu. Sau cái đêm khủng khiếp vừa qua, bà Anna
nhận thấy những nếp nhăn đó hằn sâu thêm và cặp mắt nâu sẫm hiện lên vẻ mệt
mỏi, khiến bà miết mãi miếng bông tẩm dầu hạt dẻ vẫn không sao xóa đi được.

Chải xong làn tóc người
thợ làm đầu riêng của bà đã mất công cả tuần mới nhuộm hết những sợi trắng, bà
đứng lên bước sang phòng khách. Tại đây mụ quản gia kiêm đầu bếp da đen to béo
Sarah đang chỉ dẫn cho một tốp thợ dọn dẹp. Trước khi vào đây, những người này
phải thề sẽ không hở ra với ai.

- Họ phải làm cả ngày
hôm sau mới xong được. - Mụ Sarah nói lè nhè bằng giọng cổ họng của dân
miền Nam nước Mỹ.

Bà Anna nói:

- Không sao, họ đã biết
phải làm gì rồi mà. Mụ cứ để mặc họ. Nếu trung úy Dawson gọi điện
đến, mụ trả lời ông ta rằng cô Janna làm việc ở trụ sở văn phòng hãng còn tôi
thì đi có việc chừng một tiếng thì về. Nói với ông Trung úy rằng chúng tôi sẽ
biết ơn nếu ông ấy đến được đây, càng sớm càng tốt.

- Thưa bà, vâng.

Mụ quản gia da đen đáp,
mắt vẫn nhìn lên bức tường của phòng thư viện chưa sạch hết vết máu chó. Mụ nói
thêm:

- Thời buổi bây giờ
không đâu có thể yên ổn.

Bà Anna nhìn đám thợ cọ
rửa căn nhà một năm nay là nhà của bà. Riêng tầng 35 này đã trị giá 20 triệu
đôla và là khu hộ đắt nhất trong số những khu hộ cùng loại trên thế giới. Mỗi
khu hộ chiếm cả một tầng chiếm cả một tầng có mười phòng ngủ, một hầm chứa rượu
trang bị hệ thống làm lạnh, hàng chục giá đèn bằng pha lê (trong đó có một chiế
bị kẻ đột nhập làm vỡ), một phòng chiếu phim, một sân trời trồng cây cảnh, giữa
là bể bơi, một trung tâm video nổi, một phòng tắm hơi, một bể thả cá nhiệt đới
lồng kính cao mười lăm bộ, một phòng bày các tác phẩm mỹ thuật trị giá 8 triệu
đôla và mười hai phòng tắm có trang bị robine hình cá heo dát vàng 24 kara.

Đưa mắt kiểm lại toàn
bộ lần cuối cùng, bà Anna rời khỏi khu hộ, chậm dãi theo lối đi tải thảm ra nhà
để xe. Nhà để xe bố trí theo chiều dài của tầng gác và trang bị hệ thống thang
máy khổng lồ để đưa xe hơi từ tầng trệt lên đến tầng thứ 35 này. Đây là nét độc
đáo của tòa cao ốc Wellingtonnày, khiến nó nổi tiếng ngay từ khi mới bắt
đầu thi công, cách đây mười tám tháng. Nhiều người giàu kếch xù đang thương
lượng mua từng của tòa cao ốc này để ở chỉ vì họ có thể đưa xe hơi lên tận tầng
của họ và khi ra khỏi xe, họ chỉ phải đi vài bước là vào đến khu vực cư trú,
đồng thời lúc nào cũng yên tâm là xe của mình được cất nơi an toàn. Chính vì lẽ
đó mà họ sẵn sàng bỏ ra những khoản tiền lớn.

Lái xe của bà Anna đã
mở sẵn cửa chiếc xe hơi Rolls Royce sang trọng, kính cẩn đỡ khuỷu tay bà chủ,
dìu bà ngồi vào ghế sau.

Trận đánh đập tra tấn
bà Anna ngày xưa khiến cánh tay phải của bà bị liệt và thỉnh thoảng bà bị cấm
khẩu mất một lúc. Nhờ được đình trị đặc biệt tại Viện chỉnh âm nên bà mới có
thể cử động tương đối bình thường và phát âm được cả một câu, chỉ thỉnh thoảng
bà mới nói lắp một chút.

Bà Anna hơi lên gân một
chút lúc thang máy bắt đầu tụt xuống, và lúc thang máy chạm mặt đất, khẽ nảy
lên rất nhẹ. Sáng nay là thứ hai nên xe cộ không đông đúc lắm và cũng bị ách
tắc ít hơn so với cùng thời gian năm ngoái khi thế vận hội được tổ chức tại
thành phố Los Angeles này. Bên ngoài tời nắng gay gắt nhưng máy điều
hòa vẫn làm trong xe mát rượi. Xe chạy một lúc trên đại lộ Wilshire, nằm giữa
khu rừng phí Tây và khu biệt thự sang trọng nổi tiếng thế giới Bervely Hills.
Đại lộ này cũng vô cùng nổi tiếng và được mệnh danh là “Dặm đường vàng” nhờ vô
số cao ốc nằm hai bên đường và mỗi tầng là một khu hộ rộng rãi, sang trọng.
Quãng đường này còn vượt những khu biệt thự sang trọng nhất thế giới, chẳng hạn
đại lộ Foch ở Paris và những khu phố lừng danh bên công viên Mahattan
hoặc đại lộ số 5 ở New York.

- Thưa bà chủ, tôi có
cần đợi ở đây không ạ? - Người lái xe hỏi trong lúc anh ta hãm xe từ từ rồi đỗ
hẳn trước Trung tâm Simon Wiesenthal trên đại lộ West Pico, cách khu phố
biệt thự vài ngã tư.

- Tôi chưa biết khi nào
xong việc. - Bà Anna đáp. - Tốt nhất là sau đây chừng một tiếng thì anh quay
lại đón tôi.

Sau khi được người lái
xe dìu ra, bà đứng lại một lúc. Mỗi năm bà đến đây một lần và đã bao nhiêu năm
rồi, vậy mà bà vẫn không sao ghìm được nỗi hồi hộp. Bà cố trấn tĩnh, bước lên
những bậc thang dẫn tới cửa tòa nhà.

Bà Deborah Epstein,
giám đốc điều phối của Liên hiệp Holocaust đã đích thân ra đón bà Anna ngoài
cửa.

- Chào bà Anna! Hôm nay
trông bà mạnh giỏi quá. Ông Rabbi Hier đi vắng nhưng đã dặn trợ lý của ông tiếp
bà.

Bà Anna đáp lễ rồi theo
bà giám đốc vào nhà. Hôm nay là ngày gặp gỡ hàng năm của những người Do Thái
sống sót sau vụ diệt trủng của phát xít đức trong Đại chiến thế giới lần thứ
hai. Gần nửa thế kỷ trôi qua vậy mà bao nhiêu người vẫn chưa tìm lại được gia
đình và bạn bè. Hàng trăm máy vi tính tônge hợp tất cả những dự liệu thu nhập
được trên khắp thế giới trong một năm qua để tìm ra lời giải đáp cho hàng vạn
câu hỏi của khách hàng. Họ đến đây từ khắp nước Mỹ, thậm chí khắp thế giới,
mong tìm thêm một chút tin tức về người thân của họ.

Bà Anna ghé vào phòng
lưu niệm và dừng lại lâu lâu trước tấm ảnh chụp đã ố vàng và nhận ra bà ngày đó
cùng những thành viên của tổ chức Do Thái kháng chiến ở Ba Lan.

Đi ngang qua những ông
già bà cả hom hem ôm ghì lấy nhau, hỏi thăm tin tức của nhau và của những ngưòi
họ cùng quen biết, cuối cùng bà vào phòng giấy của Chánh văn phòng trung tâm.
Viên trợ lý của ông ta tiếp bà rất niềm nở, rõ ràng đã được cấp trên căn dặn là
một vị khách đã đóng góp hàng triệu đôla cho hoạt động của trung tâm cần phải
được tiếp đón theo cách đặc biệt ân cần.

Ông ta đưa bà một phong
bì to đựng những tài liệu Trung tâm thu thập được liên quan đến số phận những
người bà muốn biết tin tức.

Lúc bà Anna về đến tòa
cao ốc Wellington, đám thợ đã đang lục tục ra về. Mọi vết tích đập phá đã
được dọn sạch. Tấm kính ở bàn nước đã được thay. Chỉ còn lại vết dầu loang trên
tấm thảm người ta dùng để tẩy vết máu chó và vết vôi mới quét phủ lên hình chữ
thập ngoặc trên tường.

- Họ bảo đợi khô sẽ
quét thêm lớp nữa. - Mụ Sarah nói. - Chỉ chúa Trời mới hiểu tại sao họ không
dùng nước vôi đặc hơn.

Bà Anna nhìn thấy hình
chữ thập ngoặc nét vẽ nguệch ngoạc vẫn còn mờ mờ. Bà cau mặt nói:

- Mụ bảo ông Kershaw là
tôi yêu cầu quét vôi lại toàn bộ căn phòng này.

Mụ quản gia da đen nói:

- Lúc bà chủ đi vắng,
ông trung úy Dawson có đến đây. Ông ta có xem tất cả nhưng bảo có
việc bận nên phải đi, lát nữa ông ta sẽ quay lại.

- Lúc nào ông trung úy
đến, mụ mời ông vào phòng thư viện gặp tôi. - Bà Anna nói. - Và nếu chuông điện
thoại kêu thì mụ rút phích ra. Hôm nay tôi không muốn tiếp ai hết, ngoài ông
trung úy Dawson.

Bà Anna đóng cửa phòng
thư viện rồi ngồi vào ghế bành bọc da ngay bên cửa sổ. Bà nhìn qua ô cửa ra cả
một bức tranh toàn cảnh từ biển Thái Bình Dương đằng sau khu Malibu đến những
tòa nhà chọc trời bằng kính lấp lánh dưới khu phố thương mại của thành phố Los
Angeles, bao gồm toàn bộ khu biệt thự Beverly Hillls với vô số bể bơi nằm giữa
những vườn cây xanh um của những biệt thự mỹ lệ, trông tựa như những viên ngọc
gắn trên nền trời xanh thẳm. Phong cảnh tuyệt đẹp nhưng hôm nay bà dửng dưng
bởi đầu óc vẫn còn bị ám ảnh bởi những vật trưng bày trong phòng lưu niệm của
Trung tâm Wiesenthal.

Bật ngọn đèn đọc sách
đồng thời ấn nút cho tấm rèm từ từ khép lại, bà nhấc chiếc phong bì. Bên trong
là ba cặp hồ sơ, mỗi cặp đựng tấm ảnh chụp một phụ nữ kèm theo những bản sao
chụp nhiều tư liệu gốc cùng cả một bộ ảnh sinh hoạt ở khu Do Thái tại thành phố
Vacsava thời đó, do một phóng viên mặt trận người Đức chụp. Một ông già Do Thái
bị tên lính Quốc xã đá. Một đám trẻ nhỏ Do Thái chìa những bàn tay chỉ còn da
bọc xương hứng nước uống. Những ngôi nhà cháy trụi. Một chữ thập ngoặc vạch
nguệch ngoạc lên tường của một ngôi nhà thờ đạo Do Thái vắng tanh…

Bà Anna nhìn các tấm
ảnh, đặc biệt chăm chú ngắm ba tấm chân dung phụ nữ. Nhưng có tiếng mở cửa, bà
ngẩng lên và nhìn thấy trung úy Dawson đang bước vào. Anh ta mặc quần
Jean và áo sơ mi lao động cổ bẻ, chứng tỏ anh đã hết giờ công vụ chỉ huy đội
Đặc nhiệm của Sở Cảnh sát Los Angeles.

- Chào bà Anna, tôi đã
nói chuyện với cô Janna. - Anh nói. - Cô bảo tôi nên mặc thường phục nên tôi
mặc thế này.

- Mụ quản gia bảo lúc
nãy ông có đến đây?

Viên trung úy gật đầu:

- Tôi đã thấy tất cả
rồi.

- Vậy theo ông thì đêm
qua đã xảy ra chuyện gì vậy?

- Buổi tối cô Janna
vắng nhà nên không kể được gì cho tôi nghe. Nhưng tôi đã hỏi ông quản lý và ông
phụ trách an ninh. Bây giờ tôi muốn được nghe bà, thưa bà Anna

- Được. - Bà nói. -
Nhưng tôi nghĩ nên kể hết với ông từ đầu.

Trung
úy Dawson ngồi xuống ghế bọc da khác, chờ đợi. Bà Anna ngồi im chừng
vài ba phút mới bắt đầu kể. Thoạt đầu giọng bà ngập ngừng, nhưng dần dần trôi
chảy. Vừa nói bà vừa như hồi tưởng lại những chuyện suốt hơn bốn chục năm qua.

Báo cáo nội dung xấu