Danh Tướng Việt Nam - Chương 79: Nguyễn Biểu

IV. Lược truyện một số tấm gương anh hùng tiết tháo trong sự nghiệp đánh đuổi quân Minh

Quả cảm chiến đấu và anh dũng hi sinh vì nghĩa cả thiêng liêng là đánh đuổi quân Minh và giành độc lập cho dân tộc, ngoài các bậc danh tướng Lam Sơn (mà chúng tôi đã trân trọng giới thiệu trong tập 2 của bộ sách này), các bậc danh tướng của nhà Hậu Trần như đã trình bày ở trên, còn có một loạt những tấm gương anh hùng tiết tháo khác. Nhưng, rất tiếc là tư liệu về những người con ưu tú này của dân tộc hiện còn lưu giữ được quá ít ỏi, vì thế, trong khuôn khổ chật hẹp của lao động cá nhân, việc tái hiện tất cả những trang lí lịch cuộc đời của họ rất khó khăn. Bởi thực tế này, xin bạn đọc vui lòng thể tất cho những trang viết chỉ mới dừng lại ở mức sơ bộ sau đây.

1. Danh thần Nguyễn Biểu

Nguyễn Biểu sinh trường tại làng Yên Hồ, sau đổi tên là làng Bình Hồ, huyện La Sơn. Nay đất làng quê ông thuộc huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh của Bà. Những thư tịch về khoa cử Nho học của nước nhà hiện còn lưu giữ được không hề cho biết gì về sự đỗ đạt của Nguyễn Biểu, tuy nhiên, truyền thuyết dân gian vùng huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh và đặc biệt là các sử gia trong Quốc Sử Quán triều Nguyễn lại khẳng định rằng ông đỗ Thái Học Sinh dưới thời Trần. Xin được nói ngay rằng, tài liệu thư tịch ghi chép về khoa cử Nho học ở nước ta liên tục trong khoảng 70 năm từ 1305 đến 1375 đã hoàn toàn bị thất lạc, do vậy, nếu Nguyễn Biểu đúng là người đỗ Thái Học Sinh thì ông phải đỗ vào sau năm 1305 và trước năm 1375, tức là trong khoảng 70 năm tài liệu khoa cử bị thất lạc này. Nguyễn Biểu tham gia phong trào kháng chiến chống quân Minh từ lúc nào chưa rõ, chỉ biết rằng trong guồng máy chính quyền do Trùng Quang Đế Trần Quý Khoáng đứng đầu, ông được bổ dụng làm Điện Tiền Thị Ngự Sử.

Tháng 4 năm Quý Tị (1413), Nguyễn Biểu được Trùng Quang Đế Trần Quý Khoáng cử làm Chánh Sứ mang biểu văn và phẩm vật đi cầu phong cho mình. Nhưng, khi mới đến Nghệ An, Nguyễn Biểu đã bị Trương Phụ giữ lại. Tất cả các bộ chính sử xưa đều chỉ chép rằng sau đó ông bị Trương Phụ giết, duy có bộ ĐẠI NAM NHẤT THỐNG CHÍ (Nghệ An tỉnh) và nhiều truyền thuyết dân gian ở vùng Hà Tĩnh và Nghệ An thì nói là để uy hiếp tinh thần của quan Chánh Sứ Nguyễn Biểu, Trương Phụ liền sai làm một mâm cỗ bằng đầu người thết đãi ông! Không chút sợ hãi, Nguyễn Biểu liền dùng đũa khoét lấy mắt rồi đem chấm dấm mà ăn, vừa ăn vừa ứng khẩu khảng khái đọc bài thơ Nôm ĂN CỖ ĐẦU NGƯỜI. Trương Phụ vừa mới trông thấy vậy đã rất lấy làm khiếp phục trước khí phách hiên ngang của ông, hắn đành phải theo đúng lễ nghi dành cho việc đón sứ giả để tiếp đãi Nguyễn Biểu, chịu nhận lễ vật, chịu nhận biểu cầu phong và hứa sẽ chuyển đạt lên triều đình nhà Minh rồi cho ông ra về. Nhưng, khi Nguyễn Biểu rời khỏi dinh Trương Phụ chưa được bao lâu thì có tên phản bội là Phan Liêu (con trai Phan Quý Hựu) cũng vừa tới. Trương Phụ nhân đó hỏi hắn rằng Nguyễn Biểu là người như thế nào. Phan MLiêu vốn không ưa gì ông, bèn nói:

- Hắn là bậc hào kiệt của An Nam, nếu những kẻ như hắn mà còn thì việc đánh dẹp của thiên triều thật khó mà xong được.

Nghe xong lời ấy, Trương Phụ lập tức sai người đuổi theo để bắt ông lại. Đến Cầu Lam thì chúng đuổi kịp ông. Nguyễn Biểu biết là nhất định mình sẽ bị chúng giết, bèn viết vào chân Cầu Lam mấy chữ Hán “thất nguyệt, sơ nhất nhật, Nguyễn Biểu tử” (nghĩa là vào ngày mồng một tháng bảy Nguyễn Biểu chết).

Khi quay trở lại gặp Trương Phụ, Nguyễn Biểu mắng rằng:

- Bên trong thì lập mưu đánh chiếm, vậy mà bên ngoài lại rêu rao là quân nhân nghĩa, đã hứa lập con cháu họ Trần lại còn chia đặt quận huyện, không chỉ cướp bóc của cải châu báu mà còn tàn hại sinh dân, thật đúng là loài giặc dữ.

Trương Phụ nghe thế thì tức giận, bèn giết ông. Các bộ chính sử xưa đều chép Nguyễn Biểu mất vào tháng 4 năm Quý Tị (1413), chỉ riêng bộ ĐẠI NAM NHẤT THỐNG CHÍ (Nghệ An tỉnh) thì nói Nguyễn Biểu mất vào tháng 7 năm Quý Tị. Do chưa rõ năm sinh nên không biết là khi mất. Nguyễn Biểu hưởng thọ bao nhiêu tuổi.

Phụ lục 5. Lời dịch và chú thích đoạn ghi chép của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn về nhân vật Nguyễn Biểu

(ĐẠI NAM NHẤT THỐNG CHÍ – Nghệ An tỉnh)

“Nguyễn Biểu người làng Yên Hồ, huyện La Sơn, từng đỗ Thái Học Sinh, thời Trùng Quang Đế nhà (Hậu) Trần được bổ làm Điện Tiền Thị Ngự Sử. Ông là người cương trực, gặp việc dám nói. Tướng của nhà Minh là Trương Phụ đóng quân ở núi Nghĩa Liệt còn Trùng Quang Đế thì đắp thành ở phía nam Chi La (nay đổi là La Sơn), hai bên cùng đối luỹ. Sau, Trùng Quang Đế đi Hoá Châu, nhà Minh lại có chiếu chỉ tìm con cháu nhà Trần nên Trùng Quang Đế sai Nguyễn Biểu làm sứ giả đi cầu phong. Khi đến trại quân của giặc, Trương Phụ bắt Nguyễn Biểu phải lạy nhưng (Nguyễn) Biểu không chịu khuất. Bọn giặc bày tiệc, nấu cỗ đầu người dọn cho ăn, (Nguyễn) Biểu biết ý, lấy đũa khoét mắt chấm dấm mà ăn, (Trương) Phụ kinh dị, bèn đối đãi theo lễ rồi cho về. (Nguyễn) Biểu đi đến Cầu Lam thì (Trương Phụ cho người đuổi kịp. Do khi ấy có con của Phan Quý Hựu là Phan Liêu (người ở Hà Hoàng, huyện Thạch Hà) đã đầu hàng giặc và đang được bổ làm Tri Phủ Nghệ An. (Trương) Phụ hỏi (Phan) Liêu rằng Nguyễn Biểu là người thế nào? (Phan) Liêu vốn không ưa Nguyễn Biểu, bèn nhân đó nói:

- Hắn là bậc hào kiệt của An Nam, nếu hắn còn thì việc đánh dẹp thật khó mà xong được.

Nghe lời ấy, (Trương) Phụ sai người đuổi theo để bắt lại. Ông nghĩ rằng thế nào cũng sẽ chết, bèn viết vào chân Cầu Lam mấy chữ: thất nguyệt sơ nhất nhật, Nguyễn Biểu tử (ngày mồng một tháng bảy Nguyễn Biểu chết). Khi Nguyễn Biểu quay lại, bị (Trương) Phụ mắng là đồ vô lễ, Nguyễn Biểu cũng nổi giận mà mắng (Trương) Phụ rằng:

- Bụng dạ thì chứa đầy mưu mô đánh cướp nước, vậy mà ngoài mặt lại giả bộ là quân nhân nghĩa. Đã hứa sẽ lập con cháu họ Trần mà còn chia đất quận huyện, không những cướp bóc của cải mà còn tàn hại sinh dân, các ngươi quả là lũ giặc tàn ngược.

(Trương) Phụ bắt Nguyễn Biểu trói ở chùa Yên Quốc rồi giết đi. Đến đời Lê Hồng Đức, ông được tuyên dương tiết nghĩa. Triều đình sai lập đền thờ ông ở thôn Bình Hồ. Ông có hai con. Con trưởng là (Nguyễn) Tồn Trực làm quan đời Lê, kiêm coi sổ sách quân dân đạo Hải Tây. Con út là (Nguyễn) Hạ làm Tuần Kiểm Sứ. Cháu xa là Nguyễn Phong đỗ Tiến Sĩ trong đời Quang Hưng, làm quan đến chức Thái Thường Tự Khanh, sau khi mất được tặng hàm Công Bộ Hữu Thị Lang.”[665]

Phụ lục 6A. Bài thơ ăn cỗ đầu người của Nguyễn Biểu[666]

Ngọc thiện trân tu đã đủ mùi[667]

Gia hào thêm có cỗ đầu người.

Nem công chả phượng còn thua béo,

Thịt gấu gân lân hẳn kém tươi.

Ca lối Lộc Minh so cũng một[668]

Vật bày thỏ thủ bội hơn mười.[669]

Kia kìa ngon ngọt tày vai lợm

Tráng sĩ như Phàn tiếng để đời.[670]

Phụ lục 6B. Bài họa thơ của Trùng Quang Đế[671]

Nguyên văn bài thơ tiễn của Trùng Quang Đế:

Mấy vần thơ cũ ngợi Hoàng hoa[672],

Trịnh trọng rày nhân vẳng khúc ca.

Chiếu phượng[673] mấy hàng tơ cặn kẽ,

Vó câu nghìn dặm tuyết xông pha.

Tang bồng đã bấm lòng khi trẻ[674],

Khương quế[675] thêm cay tính tuổi già.

Việc nước một mai công ngõ vẹn.

Gác Lân[676] danh tiếng dõi lâu xa.

Nguyên văn bài hoạ của Nguyễn Biểu:

Tiếng ngọc từ vâng trước bệ hoa,

Ngóng tai đồng vọng thuở thi ca.

Đường mây gió kị lần lần trải,

Ải tuyết cờ mao thức thức pha.

Há một cung tên lồng chí trẻ,

Bội mười vàng sắt đúc gan già.

Hổ mình vả thiếu tài chuyên đối[677].

Dịch lộ[678] ba ngàn dám ngại xa.

Phụ lục 7. Văn tế Nguyễn Biểu

Trùng Quang Đế Trần Quý Khoáng

Than rằng:

Sinh sinh hoá hoá, cơ huyền tạo mờ mờ,

Sắc sắc không không, bụi hồng trần phơi phới.

Bất cộng thù, thiên địa chứng cho,

Vô cùng hận, quỷ thần thề với.

Nhớ thuở tiên sinh cao giơ mũ trãi,

Chăm chắm ở nơi đài gián, đành làm cột đá để ngăn dòng.

Tới khi tiên sinh xa gác vó câu, hăm hăm chỉ,

Cán cờ mao bỗng trở gió vàng bèn nên nỗi.

Thói tinh chiên Hồ tặc chỉn hăm,

Gan thiết thạch Tô Công dễ đổi.

Quan Vân Trường gặp Lữ Mông dễ sa cơ ấy,

Mảng thấy chữ “phệ tề hà cập” dạ những ngùi ngùi.

Lưu Huyền Đức giận Lục Tốn mong trả thù này,

Nghĩ đến câu “thường đảm bất vong” lòng thêm dọi dọi.

Sầu kia khôn lấp cạn dòng,

Thảm nọ dễ xây nên núi.

Lấy chi báo chưng hậu đức, rượu kim tương một lọ,

Vơi vơi mượn chuốc ba tuần.

Lấy chi uỷ thửa phương hồn, văn dụ tế mấy câu,

Thăm thẳm ngõ thông chín suối.

Phụ lục 8. Bài cầu siêu cho Nguyễn Biểu

Thiền Sư chùa Yên Quốc

Chói chói một vừng tuệ nhật,

Đùn đùng mấy đoá từ vân.

Tam giới soi hoà trên dưới,

Thập Phương trải khắp xa gần.

Giải thoát lần lần nghiệp chướng,

Quang khai chốn chốn mê tân.

Trần quốc xảy vừa mạt tạo,

Sứ Hoa bỗng có trung thần.

Vàng đúc lòng son một tấm,

Sắt rèn tiết cứng mười phân.

Trần kiếp vì đâu oan khổ,

Phương hồn đến nỗi trầm luân.

Tế độ dặn nhờ từ phiệt,

Chân linh ngõ được phúc thần.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3