Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 02
2
Cung Càn Long mưu trí khích phiên thần
Chốn pháp trường gan dạ động lòng vua
Châu Bồi Công suy đoán không sai chút nào, Khang Hy đồng thời triệu tập tam phiên vốn muốn bắt chước Triệu Khuông Dận giành lại binh quyền trong tiệc rượu. Nhưng Châu Bồi Công lại không biết người đề xuất ý kiến này cho Khang Hy chính là Ngũ Thứ Hữu, người đã viết thư tiến cử chàng. Ngũ Thứ Hữu nguyên là danh sĩ Dương Châu, khi đi thi Hội vào năm Khang Hy thứ nhất, do viết Luận khoanh đất hại nước, Khang Hy rất ngưỡng mộ, được chọn làm thầy vua. Trước khi ông từ quan về quê cũ, đã khởi thảo cho Khang Hy Phương lược triệt phiên.
Ngô Tam Quế đã không đến, kế đoạt binh quyền của Khang Hy không thực hiện được. Lòng vua nóng bỏng cũng phải nguội lạnh lại, thay vào đó là cơn giận không ghìm nổi. Vua nén giận vui vẻ tiếp kiến Ngô Ứng Hùng thay cha làm lễ, vừa thưởng bạc vừa thưởng thuốc, hạ chiếu an ủi bệnh tình của Ngô Tam Quế. Sau khi lui về, vua cảm thấy toàn thân mệt nhừ.
Tức giận thì cứ tức giận, nhưng việc làm vẫn phải làm. Qua ngày mười tháng giêng. Khang Hy chiếu lệnh Thượng Khả Hỷ và Cảnh Tinh Trung đã về kinh vào đại nội, tiếp kiến bàn việc tại chính điện Càn Thanh. Khi đi xe ngang qua cửa Càn Thanh, Khang Hy vén tấm rèm vóc vàng nhìn ra ngoài, thấy Cảnh, Thượng hai người áo rồng hoa vàng, quỳ mọp người khấu đầu, bất giác khẽ thở dài, nói: “Hai vương đường xa tới đây, cho miễn lễ!” Nói xong, dậm chân, ra lệnh kiệu dừng, nhảy xuống, đến bậc thềm mỗi tay đỡ một người dậy, cười khà khà nói: “Trẫm không ngờ các khanh đến sớm thế. Ở kinh có dễ chịu không? Thời tiết ở đây không bằng Quảng Đông, Phúc Kiến, phải mặc thêm quần áo mới được...” Vừa nói vừa men theo hành lang thong thả bước tới điện Chính đại quang minh, giọng nói, thần sắc tỏ ra rất nồng nhiệt, thân tình. Tại phòng dâng thư các đại thần Sách Ngạch Đồ, Hùng Tứ Lý, Nghị chính vương Kiệt Thư, Nhất đẳng công Át Tất Long dẫn đầu đại thần các bộ, viện đã đợi ở cửa điện từ sớm, thấy họ đi tới vội quỳ cả xuống, đợi đến khi ba người vào trong điện mới đứng dậy nối đuôi đi vào, quỳ xuống.
“Các khanh trú ở đâu?” Khang Hy bảo Cảnh, Thượng ngồi xuống, bưng chén nước quả trên bàn nhấp một hớp, rồi mới nhìn kỹ hai vị vương gia khác họ đang ngồi trước mặt. Bọn họ đã yết kiến vua vào năm Khang Hy thứ ba, cách đây đã sáu năm tròn, Thượng Khả Hỷ thấy đã già yếu nhiều, ánh mắt không còn thần sắc như xưa, khi người nhìn, đầu cứ run rẩy, tay chân có vẻ cứng nhắc. Cảnh Tinh Trung thì đang còn sung sức, ngực nở bụng thon, ngồi trên vạt áo, ánh mắt sáng quắc nhìn Khang Hy, nghe hỏi vội nghiêng người trên ghế, cười nói: “Thượng Khả Hỷ đang ở nhà con trai, nô tài thì ở nhà người em.”
Khang Hy gật đầu cười. Cảnh Tinh Hà, em Cảnh Tinh Trung và Thượng Chi Lễ, con thứ ba Thượng Khả Hỷ và Ngô Ứng Hùng đều là chú dượng của vua, ở trong phủ Phò mã tại kinh sư, là đại thần tán trật. Hai người này đều là những công tử phóng đãng ngâm hoa vịnh nguyệt, ngoài thơ rượu ra, không biết gì về chính trị, nói theo lời Hùng Tứ Lý “hơi có phong độ người Tấn, quyết không có oai phong quan Hán”. Không sánh được với Ngô Ứng Hùng, bề ngoài có vẻ thực thà, nhưng ngấm ngầm giao du rất rộng với các quan to Tuần vũ ngoài biên, vài ba ngày lại có thư từ với Vân Nam. Nghe Cảnh Tinh Trung nói, Khang Hy ngẫm nghĩ giây lát, quay mặt bảo Tiểu Mao, Tổng quản thái giám điện Dưỡng Tâm đứng bên cạnh: “Truyền phủ Nội vụ, ban cho hai vị Phò mã mỗi vị ba trăm lạng bạc.” Rồi quay qua hai vị Cảnh, Thượng cười nói: “Trẫm biết các khanh tiêu pha nhiều, đừng trách Trẫm keo kiệt. Hai vị phò mã nhân phẩm, tài học đều tốt, cố rèn luyện mấy năm nữa, Trẫm sẽ cho họ chia nắm việc các bộ, viện...” Nói xong lại cười.
“Hai người này tốt”, tức nhiên là nói Ngô Ứng Hùng “không tốt”. Thượng Khả Hỷ thấy Cảnh Tinh Trung không nói gì, vội cười nói: “Chúng nô tài dù có ba vạn bạc cũng không vinh dự bằng ba trăm lạng. Lần này về kinh, nghe Chi Lễ nói Đức Vạn tuế rất chăm lo chính sự, mỗi ngày làm việc đều tới canh hai, nô tài xin mạo muội nói hỗn một câu, Đức Vạn tuế bây giờ còn trẻ mà không biết chăm lo sức khỏe mình, đến cái tuổi như lão già này thì mới biết! Vạn tuế gánh trên người ức triệu bá tánh, càng phải giảm bớt nhọc nhằn mới đúng.”
“Trẫm đâu phải không biết hưởng phúc? Công việc nhiều quá không thể đặng đừng!” Khang Hy mắt sáng lên nhìn ra ngoài cung, tuyết trắng xóa một màu, nói chậm rãi: “Quỷ La sát quấy nhiễu biên cương đông bắc, năm ngoái chiếm Mộc thành của ta, giết chết hai ngàn bá tánh của ta. Bọn quỷ dữ này lấy xác người chết chất thành giàn để thiêu người sống. Cát Nhĩ Đơn không biết nghe lời ai dám tự xưng Hán không cần xin Thánh chỉ, lại cấu kết với Đệ Ba Tang Kiệt ở Tây Tạng, có ý lấn về đông, nhằm thôn tính Mạc Nam, Mạc Bắc của ta – Các khanh đều thuộc làu sử Hán, trong nước xảy ra những việc như vậy, chẳng lẽ Trẫm chỉ nhìn mà không lo?” Vua thở ra một hơi dài, nói tiếp, “Còn Hoàng Hà, Hoài Hà, mùa thu năm ngoái đê bị vỡ mấy chục nơi, trong nha môn Tuần vũ Hà Nam, bùn đất dày đến hơn một trượng, hơn hai trăm ngàn bá tánh bỏ nhà đi lánh nạn...” Khang Hy lắc đầu, yên lặng.
“Vạn tuế!” Nội đại thần, đại học sĩ Sách Ngạch Đồ quỳ trước cửa điện bỗng lê gối tiến lên phía trước, cao giọng tâu, “Sứ thần Cơlani nước La sát sắp về nước, trước khi đi muốn xin yết kiến Hoàng thượng, thỉnh chỉ nên như thế nào?”
“Ông ta hiện ở đâu?”
“Đang hầu chỉ ở Ngọ Môn.”
“Bảo ông ta vào!” Khang Hy nói, “Cũng nên hiểu một chút hắn là cái giống gì?”
“Dạ!” Sách Ngạch Đồ khấu đầu, đứng lên vái chào, khom người lui ra đi truyền chỉ.
“Hoàng thượng phải ra uy.” Hùng Tứ Lý khấu đầu nói. “để chứng tỏ khí thế thiên triều!”
Khang Hy hơi suy nghĩ, nghiến răng cười: “Hắn không đáng! Uy thế bây giờ cũng chỉ là tâng bốc hắn!” Rồi nghe tiếng truyền từ bên ngoài vào: “Sứ thần nước La sát vào cung khấu kiến!” Mọi người ngoảnh mặt nhìn, một người gầy như que củi, dáng cao lêu nghêu, bước chân ngập ngừng, nhìn qua ngó lại, đi vào cửa Càn Thanh, không nói năng gì.
Cơlani đi vào Tử Cấm thành như người mộng du. Hắn ngạc nhiên về sự giàu có ở đây. Đâu đâu cũng đầy rẫy đồ mỹ nghệ vàng, bạc, tinh xảo tuyệt vời, bức tranh rồng mây cuộn trên cột điện, những chiếc đỉnh lớn dát vàng, những chum vàng chói mắt, ngọc như ý khảm đá quý sáng ngời, các loại đồ sứ quý giá, to lớn..., bất kỳ một món nào mang về được cũng đủ làm cho hắn trở thành một nhà phú hào châu Âu đếm được trên đầu ngón tay.
…… Nhưng sự uy nghi thâm nghiêm ở đây đã làm hắn bớt đi một phần ngạo mạn. Bắt đầu từ Ngọ Môn, hai hàng thân binh đứng thẳng, lưng đeo đai đao rộng bản thả tua dài. Thị vệ ngự tiền người nào cũng giống như tượng đồng, đứng thẳng tay sờ chuôi kiếm, không hề chớp mắt. Trong cung điện to nhường này, mấy chục vị trọng thần triều đình lông mũ sặc sỡ quỳ thành hai hàng không nghe thấy một tiếng động. Những hạc đồng kim ngao đặt trước cửa điện tỏa khói hương nghi ngút thơm lừng, tạo nên không khí trang nghiêm cung kính. Cơlani xem đến mê mẩn tâm thần, vừa bước vào cửa điện đã như vấp ngã, người đụng mạnh vào khung cửa, mất một lúc mới bối rối đứng vững lại. Hắn nhún vai, ngửa hai bàn tay, hỏi Sách Ngạch Đồ cùng hắn đi vào: “Các hạ, tôi phải làm thế nào?” Mọi người trong điện kinh ngạc khi nghe hắn nói tiếng Hoa rành rõi như vậy.
“Theo nghi thức lễ Đại Thanh chúng tôi quy định,” Sách Ngạch Đồ nói lạnh lùng, “làm lễ yết kiến lần đầu, ba quỳ chín lạy trước Hoàng đế.”
Thấy một người tóc vàng mắt xanh, mũi lõ, mặc áo đuôi én ngắn tay, cũng trịnh trọng vung “tay áo móng ngựa”, Khang Hy suýt bật cười. Đợi hắn làm lễ xong đang định nói thì Cơlani đã tự bò dậy, lớn tiếng hô: “Ôi! Bát Cách Đức Hãn (Hoàng đế Trung Quốc) được yết kiến ngài trong cung điện thần kỳ mê hồn này, tôi cảm thấy vô cùng vinh hạnh! Tôi thay mặt Sa hoàng toàn đại Nga La Tư chí thánh vô thượng Alếchxây Mikhailôvich đại công gửi đến nhà vua lời thăm hỏi cao cả nhất!” Nói xong liền giang hai tay định bước tới ôm hôn nồng nhiệt Khang Hy.
Nhưng hắn mới bước tới hai bước liền dừng lại. Khang Hy vẫn ngồi yên lặng. Con người mắt đen sâu không thấy đáy, ánh lên những tia sáng không giận mà đầy uy lực, làm hắn sợ không dám khinh suất. Hắn đứng sững một hồi, rồi thẹn thùng cười nói: “Nhiệt tình của chúng tôi thể hiện trên hành động phóng khoáng, nhiệt tình của người Trung Quốc nằm trong cái đẹp tự nhiên, trong cái hàm súc, cao cả, khiến người ta phải khâm phục, mà không với tới được... Tôi nghĩ là tôi phải trở lại theo cách thức của quý quốc!” Nói xong liền quỳ xuống.
“Cơlani,” Khang Hy cuối cùng cũng lên tiếng. “Ngươi cầu gặp ta có việc gì?”
“Tôi cầu gặp Bát Cách Đức Hãn,” Cơlani nói, “để xin thông cảm về chuyện vùng Amua, xin Bác Cách Đức Hãn sáng suốt lựa chọn!”
Amua tức là lưu vực Hắc Long Giang. Khang Hy bỗng bật cười: “Vùng đất Hắc Long Giang xưa nay vốn là đất nước Trung Quốc, có can hệ gì với nước La sát của ngươi, cần Trẫm phải “thông cảm” nỗi gì!”
“Đương nhiên,” Cơlani nhún vai, “Tôi không có ý phủ định lời của Hoàng thượng, nhưng vùng đất đó đối với nước Trung Quốc giàu có và rộng lớn của các ngài, chẳng qua chỉ là chút xíu...” hắn tìm không ra từ ngữ Trung Quốc thích hợp, đành giơ ra ngón tay út để so sánh, “còn đối với nước chúng tôi thì lại rất lớn, chúng tôi giao dịch với châu Âu cần có hàng da, ngài có hiểu rõ không? Còn quý quốc thì cần biên cương yên ổn...”
Không đợi Cơlani nói hết, Khang Hy bèn lạnh lùng vặn lại một câu: “Ngài nói như vậy thì cái gì ngài cần ngài đi cướp, phải không?” Tiếng phải không cuối cùng bỗng thét cao hẳn lên, rung chuyển cả chính điện cung Càn Thanh.
“Không, không... không phải... phải!” Nhà ngoại giao uốn lưỡi vòng vo này sợ giật nảy mình, cuống quít đáp. Qua một khoảnh khắc hoảng hốt, Cơlani cứng rắn lên. “Xin bệ hạ nghe tôi nói hết, tôi vâng mệnh Sa hoàng chuyển lời cho Bệ hạ, Bác Cách Đức Hãn nên lấy vùng đất hoang lạnh đó làm điều kiện trao đổi, cầu được ân sủng và quan tâm của Sa hoàng, chỉ như vậy mới bảo đảm hòa bình và yên ổn trong nước của Bệ hạ.”
“Quả là kỳ lạ,” Khang Hy nhìn chúng thần, “nước ta sóng yên biển lặng, có gì không yên ổn? Cho dù có việc gì cũng chỉ là việc nhà của Thiên triều, có can hệ gì với La sát các ngài?”
“Tôi là ngoại thần của ngài, không ngại nói thẳng cho ngài biết.” Cơlani cười ngạo mạn, “Địa vị của Đại Hãn không vững chắc, mọi người đều biết, mấy vị Vương gia phía nam quý quốc đang chuẩn bị một cuộc phản loạn chưa từng có...”
“Ha ha ha ha!” Khang Hy bỗng lớn tiếng cả cười, chỉ Thượng Khả Hỷ và Cảnh Tinh Trung hỏi Cơlani, “Ngài có biết hai vị này?”
Cơlani nhìn qua hai người Cảnh, Thượng, nhún vai lắc đầu: “Tôi chưa có vinh hạnh ...”
“Họ là những Vương gia “phản loạn” mà ngài nói đó.” Khang Hy cười nói, “Vua tôi chúng tôi bây giờ đều ở đây, ngài nói xem, chúng tôi không yên ổn chỗ nào?”
“Hả?” như bị một cú đấm quá mạnh, Cơlani đang quỳ bỗng nghiêng người. Do Sách Ngạch Đồ phong tỏa hắn nghiêm ngặt, Cảnh Tinh Trung, Thượng Khả Hỷ vào triều, hắn hoàn toàn không nghe một chút tin tức gì. Mặt Cơlani trắng bệch như tuyết, hắn nói lắp bắp: “Đó là tin đồn... xin Bác Cách Đức Hãn và hai vị tha lỗi. Có điều...” Mặt hắn lại có một chút máu, “tôi cảnh báo hoàng thượng, quân Côdắc hùng mạnh của chúng tôi do tướng lĩnh nổi tiểng Pakhalốp dẫn đầu đã tiến đóng ở vùng Amua rồi, nói như người Trung Quốc các ngài, gọi là “ai thuận theo thì sống, bằng nghịch lại thì chết”!”
Lời chưa nói hết, Khang Hy đập bàn “rầm” một tiếng, đứng lên bước xuống ngự tọa, đi mấy bước, chỉ tay Cơlani nói: “Mi trở về báo cho Mikhailôvich, Trung Quốc không có nội loạn, nếu có Trẫm cũng tự giải quyết được, khỏi cần các ông là ngoài ngàn dặm phải điên cuồng lo lắng việc này! Thiên triều Hoa Hạ chúng ta, là thánh địa mà vạn quốc làm lễ thần phục, bảo ông ta sớm dẹp ý ngông cuồng, yên phận mà giữ đất! Nếu không sẽ có một ngày binh xa gặp nhau, mới biết Đại Thanh và thiên uy khó phạm – Cứ vào sự hỗn xược của nhà ngươi hôm nay ta vốn có thể chặt đầu ngươi để răn đe, nhưng nghĩ cái nghĩa xưa nay, hai nước thông giao, không giết sứ giả, tha cho ngươi khỏi chết – Bay đâu!”
“Dạ!” đám thị vệ Ngụy Đông Đình, Lang Thẩm, Mục Tử Húc, Tố Luân đã sốt ruột chờ đợi, nghe Khang Hy gọi, vội đồng thanh dạ ran như sấm.
“Giải hắn tới trạm dịch.” Khang Hy quay lưng lại Cơlani lạnh lùng bảo, “hạn trước giờ Ngọ ngày mai phải rời kinh sư! Hừ, Trẫm không tin cái tên Pakhalốp này, lại có kết thúc tốt hơn tên Stêpanốp?”
Một trận chiến ngoại giao dao môi kiếm lưỡi đã kết thúc. Khang Hy vẫn chưa nén được cơn tức giận, đưa mắt nhìn các đại thần trong điện, không nói một lời.
“Vạn tuế!” Cảnh Tinh Trung quả thật chịu không nổi ánh mắt áp đảo của Khang Hy, cuối cùng mở miệng nói, “Nước La sát vô lễ như vậy, Hoàng thượng sao không đưa binh thảo phạt?”
“Trẫm cũng có chỗ khó khăn!” Khang Hy ngón tay gõ nhịp vào nắp chén trà, không cố ý cũng nhìn Thượng Khả Hỷ một cái, nói “Nước nhà bị Ngao Bái loạn chính, nguyên khí chưa phục hồi, trong chốc lát điều binh, điều lương đều khó. Không nắm chắc phần thắng, lẽ nào Trẫm tùy tiện xuất binh?”
Việc xảy ra trong điện Càn Thanh hôm nay, trong lòng Thượng Khả Hỷ, Cảnh Tinh Trung đều sáng tỏ như ban ngày, đâu đâu cũng đều nói chuyện “triệt phiên”. Từ khi vua Vĩnh Lịch nhà Minh chết, phía nam thực chất không đánh giặc gì mà ba phiên vương nắm mấy mươi vạn quân ngồi hưởng lương hướng của triều đình, còn kẻ ngoại địch phía bắc thì không sức chống cự! Dù trong lòng rất rõ, hai vị Cảnh, Thượng lại không chịu nói ra. Thượng Khả Hỷ không có cách nào vì binh quyền ông ta đã bị ông con lớn Thượng Chi Tín đoạt hết sạch; Cảnh Tinh Trung đã sẵn ý đồ, hành sự theo ánh mắt chỉ huy của Ngô Tam Quế – binh Ngô Tam Quế còn nhiều hơn tổng số binh của hai phiên bọn họ, dại gì mà Cảnh Tinh Trung lại xuất đầu lộ điện chơi trội hơn người?
“Trời phải mưa, con gái phải gả chồng, cứ để hắn đi!” Khang Hy cười nói một câu hai nghĩa. Thấy hai người Cảnh, Thượng giả vờ đui điếc, vua bỗng nổi nóng, cảm thấy không thể cứ tỏ ra mềm mỏng, ánh mắt như điện, lướt nhìn hai Vương gia, cười nói, “Trẫm mời ba vị phiên vương về kinh vốn muốn cùng bàn bạc việc này. Ngô Tam Quế “bệnh” rồi, hai vị lại không thể hoàn toàn quyết định được. Nói là ba phiên thực và chỉ còn một phiên rưỡi, nghĩ ra cũng hay. Trẫm chẳng lẽ không trị được ngay cả tên hề gây rối La sát này?” Ý vua định nói “Trẫm đây chẳng lẽ không bày được tiệc Hồng môn” nhưng đã vội sửa lại ngay.
“Nô tài trước khi đến đây đã sai người đi Vân Nam thăm Tam Quế.” Thượng Khả Hỷ cười nói, “Ngô Tam Quế quả có đau mắt, năm trước còn bị sốt rét, vì bệnh không về chầu chứ không có ý gì khác.”
“Không nói việc này nữa.” Khang Hy thở ra. “Làm sao Trẫm lại lôi nó ra? Ý của Trẫm là xin đừng hiểu lầm, Trẫm hiện nay không có ý triệt phiên, mà dù có triệt phiên cũng phải quang minh chính đại, triều đình quyết không thể làm chuyện thỏ chết giết chó, chim hết cất cung! Trẫm trước nay được dạy dỗ, phải lấy lòng thành đối với người – trước phải ý thành lòng thẳng, rồi sau mới trị nước bình thiên hạ! Tam phiên không phụ Trẫm, Trẫm lẽ nào lại phụ các khanh. Các khanh cũng mệt rồi, ta dừng ở đây.”
Chiều hôm sau, Khang Hy mặc thường phục đi đến nha môn bộ Hình ở con hẻm thợ dây, ngồi nhàn nhã uống trà trong nhà khách lớn sau phòng hành chánh, đợi kết quả xét xử vụ Phó Hồng Liệt. Bốn vị thị vệ bậc một, Ngụy Đông Đình, Lang Thẩm, Mục Tử Húc và “Lừa bướng” thấy vua như bộn bề tâm sự, người nào cũng ngồi ngay ngắn lặng yên.
Bỗng nhiên, một võ quan cao to hùng hục đi vào, thở hổn hển, ngồi phịch xuống chiếc ghế trước mặt Khang Hy, tâm thần bất an ngóng nhìn ra ngoài, quay mặt nói với Khang Hy: “Này, quan lớn các anh bao giờ ra – Hả, Chúa thượng!”
“Đồ Hải đấy à?” Khang Hy thấy anh ta mặt trắng bệch, quên cả quỳ xuống, bèn cười nói, “Tên nô tài này sao không ở phủ Đề đốc Cửu môn, chui vào nha môn bộ Hình này làm gì?”
Đồ Hải vội vàng quỳ xuống, mồ hôi trán vã ra: “Bẩm Vạn tuế, nha môn bộ Hình đang thẩm xét Phó Hồng Liệt – Nô tài đến xem xem Ngô Chính Trị...”
“Ngươi quan hệ thế nào với Ngô Chính Trị? Làm sao lại liên can tới Phó Hồng Liệt, ngươi quan tâm việc này là thế nào? Đề đốc Cửu môn với tay quá dài chăng?”
“Dạ!.. Nô tài đáng chết! Sinh tiền Ngô Lục Nhất nói họ Phó là người trung lương. Hôm nay hội thẩm, thần không yên lòng, định đến tìm Ngô Chính Trị hỏi thăm tin tức...” Nói xong khấu đầu lia lịa.
“Đứng dậy, đứng sang bên kia!” Khang Hy chọc cười nói, “May mà ngươi cũng xuất thân võ tướng, một chút tài ứng biến cũng không có, ngươi đến gõ cửa nha môn pháp ty Ngô Chính Trị không sợ Trẫm trị tội sao?”
“Nô tài không dây dưa gì với Phó Hồng Liệt, vả lại nô tài không chủ trương triệt phiên, chính kiến cũng bất đồng.” Đồ Hải đứng lên, dần dần bình tĩnh lại, khuôn mặt tím đen hơi run lên, anh cúi người đáp, “Phó Hồng Liệt dâng thư là vì quốc gia xã tắc. Nói đúng, Thánh thượng thừa nhận; nói không đúng, Thánh thượng bỏ đi, thần cho rằng…”
“Ngươi không cần nói nữa.” Khang Hy cắt ngang lời Đồ Hải, “Ngươi đến văn phòng truyền chỉ: Trẫm cần gặp Phó Hồng Liệt.” “Hả?” Đồ Hải rất bất ngờ, thấy nét mặt Khang Hy không có biểu hiện gì, vội đáp, “dạ!”.
Phó Hồng Liệt cùng Đồ Hải bước vào. Chân ông mang xích lớn nặng hơn bốn mươi cân, kêu rổn rảng trong căn phòng yên tĩnh, tuy bước đi có loạng choạng, nhưng nét mặt rất bình tĩnh như đứa trẻ vừa ngủ dậy. Thượng thư bộ Hình và các Thị lang, Khoa đạo Mãn Hán, một đám quan viên vì không có lệnh vào trong đều đứng cả ở sân giữa bộ Hình, hướng lên trước khấu đầu, rồi lùi xa ra một bên, thấp thỏm nhìn vào gian phòng khoảnh khắc trở thành phòng khách cao nhất.
“Phó Hồng Liệt,” Khang Hy mân mê chuỗi hạt thiết triều, nói với Phó Hồng Liệt đang quỳ dưới đất, “bây giờ, ở đây ngươi đang nghĩ gì?”
“Thần mang tội đang nghĩ...” Phó Hồng Liệt hơi run, ông hoàn toàn không nghĩ là Khang Hy hỏi câu này, bất giác ngước nhìn Khang Hy, nói. “Ở đây từ hôm qua tới nay, vẫn là nơi nhà nước nắm hình pháp, từ đây tới nơi yên nghỉ chỉ gần trong gang tấc. Hàng ngàn, vạn tên gian ác nhận tội tại đây, cũng có những chí sĩ lương thiện hàm oan chịu nhục... Ở đây thần mang tội không ngờ được gặp mặt Thánh thượng, nói được bầu tâm sự, thần tuy chết cũng vui lòng!”
“Ngươi có tâm sự gì phải nói?” Khang Hy biến sắc nói, “Ngươi chẳng qua chỉ là một Tri phủ quèn, dám nói bậy chuyện quốc gia đại sự, ly gián vua tôi gây bất hòa, chẳng phải chết vẫn chưa hết tội sao!” Giọng nói không cao nhưng có sức nặng, mấy người Đồ Hải, Ngụy Đông Đình bất giác nổi da gà.
“Thánh thượng nói sai rồi!” Phó Hồng Liệt mắt sáng quắc, quyết liều phản kháng. Mọi người có mặt đều giật mình kinh hãi, Phó Hồng Liệt nói tiếp: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách, vả lại thần nhận chức nơi thôn dã. Chính mắt thần đã thấy Ngô Tam Quế và cha con Thượng Khả Hỷ làm việc trái khoáy, hoành hành phi pháp, nếu ngậm miệng không nói là có tội khi quân; còn nói thẳng phạm thượng, lại bị tội nói bậy làm loạn chính sự – quả là tiến thì thân chết, mà thoái thì tâm chết, thân chết và tâm chết cái nào tốt hơn? Cầu xin Thánh thượng minh xét!”
Khang Hy cảm thấy lòng mình như từ trên cao rơi tõm xuống. “Xả thân vì nghĩa” bốn chữ như dòng điện lóe lên làm lòng vua đau dữ dội: một con người như vậy, mãi đến hôm nay mới phát hiện! Vừa ngẫm nghĩ một lát, lên giọng quát to với bên ngoài: “Ngô Chính Trị, khanh vào đây!” Ngô Chính Trị “dạ” một tiếng, vội vàng chạy vào, chưa quỳ xong đã nghe Khang Hy hỏi: “Các khanh định xử Phó Hồng Liệt thế nào?”
“Chém ngang lưng!” Ngô Chính Trị đáp không cần suy nghĩ.
“Không thể nhẹ hơn một tí sao?”
“Bẩm Vạn tuế, thần chỉ biết định tội theo luật.” Ngô Chính Trị nói, “Ơn huệ do ở trên, giảm nhẹ hình phạt phải do Hoàng thượng đặc chỉ.”
“Ừm. Vậy thì... giết bêu chợ nhé.” Khang Hy hình như thở dài, nhìn lại Phó Hồng Liệt nói, “Vừa rồi ngươi nói rất đúng, Trẫm giữ toàn thây cho người – đừng trách Trẫm ác độc, triều đình có cái khó của triều đình – ngươi có nói gì nữa không? À, mẹ già, con dại của ngươi, Trẫm bảo bộ Hộ quan tâm chăm sóc...” Khang Hy vừa nói vừa nhìn chăm chăm Phó Hồng Liệt.
“Thần mang tội không nói gì nữa...” Phó Hồng Liệt nghe nói đến mẹ già, con dại, đau buồn như hàng vạn mũi tên xuyên vào tim. Ông nuốt nước mắt cố nén không khóc, chỉ cúi đầu làm đại lễ ba quỳ chín lạy, run rẩy nói, “Tạ ơn...” Đứng lên vái dài Đồ Hải và Ngô Chính Trị, nuốt lệ cười nói: “Anh Ngô, anh Đồ, người anh em xin từ biệt!” Rồi lê xích, ngẩng đầu bước ra ngoài sảnh.
“Dừng lại!” Khang Hy bỗng đứng lên quát to. Mặt vua bỗng đỏ ửng, bước tới mấy bước, ánh mắt như dòng điện nhìn trừng trừng Ngô Chính Trị, vội vàng ra lệnh, “Mở xích cho ông ta!” Vừa nói vừa bước gần tới chỗ Phó Hồng Liệt, nhìn hai viên quan tư đạo luống cuống mở khóa bỏ xích, vừa vịn vai Phó Hồng Liệt nói, “Tốt! Quả nhiên can đảm chói ngời, quả là trượng phu lẫm liệt! Giết một bầy tôi như ngươi, Trẫm há chẳng thành ông vua Kiệt Trụ?”
Phó Hồng Liệt sững sờ trước một việc không thể ngờ tới, đợi khi hiểu ra, làm sao khống chế được mình nữa, liền nằm dài ra đất lớn tiếng khóc ròng.
“Ngươi hãy tạm trú tại Bắc Kinh.” Khang Hy đỡ Phó Hồng Liệt dậy, phủi bụi đất trên cánh tay ông, nói nhỏ, “Bạn bè ngươi làm việc ở Bắc Kinh không ít, còn có Chu Quốc Trị cũng đã điều đến Bắc Kinh. Ngươi hãy tới nhà họ nghỉ dưỡng sức khỏe, có tấu chương, kiến nghị gì, hãy tạm giao Đồ Hải trình lên, Trẫm cần dùng người, con người đầu cứng như đá này, sai ngươi về làm quan ở Quảng Tây, ngươi dám không?”
“Nô tài có gì không dám?” Phó Hồng Liệt cười to nói.

