Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 03
3
Khổng Tứ Trinh hạ mình lấy Tôn Diên Linh
Vua Khang Hy ban thưởng cho “Diều ngựa”
Khang Hy năm thứ chín, mùa xuân hầu như đến rất muộn. Lễ hội hai rồng ngẩng đầu vào tháng hai đã qua rồi, mà tuyết đọng trên các cung điện Tử Cấm thành vẫn chưa tan hết, chiếc chum đồng to dát vàng ròng, bên rìa vẫn treo một lớp sương mỏng, nước trong chum ngày nào cũng thay vẫn thấy có màng băng mảnh như mạng nhện. Thời tiết rất khô lạnh.
Thái giám tổng quản điện Dưỡng Tâm Tiểu Mao hầu Khang Hy ăn xong bữa điểm tâm sáng, phụng chỉ đến gác tây cung Càn Thanh mang đổi cái tráp tấu sớ vua đã phê duyệt đêm qua, khi trở về khang Hy đã đi rồi. Chỉ thấy Lục cung đô thái giám Trương Vạn Cường dẫn đầu một đám thái giám: Hầu Văn, Cao Dân... đang quét dọn, lau nhà cửa bàn ghế, liền xắn tay áo cùng giúp dọn dẹp. Anh cười hỏi Trương Vạn Cường: “Trương công công, Đức Vạn tuế đi đâu?”
“Tứ Cách Cách ở Chiêu Lăng trở về, Đức Vạn tuế mừng quá, không đợi gọi kiệu đã chạy đi rồi.” Trương Vạn Cường lấy cái nghiên vuông mài mực, trả lời, “Bây giờ đang ở cung Trữ Tú, chỉ e cụ Phật bà cũng đến đó!”
Tứ Cách Cách là con gái của Định Nam vương Khổng Hữu Đức, vốn tên Khổng Tứ Trinh. Định Nam vương chết vì việc nước, Thái hoàng Thái hậu bèn đưa về cung nuôi dưỡng, xem như con mình. Cũng như nàng Tô, nàng từ nhỏ đã thấy Khang Hy lớn lên. Không hiểu vì sao, sau khi Hoàng đế Thuận Trị đi xa. Khổng Tứ Trinh tính tình cứng rắn bỗng trở nên đau buồn không vui. Nàng vốn là con gái nhà tướng, biết võ nghệ bèn cầu xin cho đi bảo vệ lăng tẩm tiên đế. Thái hoàng Thái hậu không làm cô thay đổi, bèn phá lệ phong nàng làm thị vệ bậc nhất, đưa đi Chiêu lăng, đến nay đã chín năm chưa vào kinh sư. Bây giờ đột nhiên trở về, là việc hiếm có.
Tiểu Mao không biết gốc rễ câu chuyện này, vừa pha son vừa cười nói: “Hoàng thượng cần phải nghỉ ngơi thư giãn, từ tháng năm năm ngoái việc của Ngao Trung đường cho đến nay, mỗi ngày bảy canh giờ gặp người này người nọ, phê tấu sớ, còn viết, làm toán, mấy ngày nay, hết việc này lại đến việc khác, cũng không phân biệt giờ giấc nào nữa, còn khó hơn làm nhà nghèo kiếm miếng cơm ăn! – Cả người toàn là sắt, không biết làm ra được bao nhiêu đinh?”
“Chú đừng có khéo mồm!” Trương Vạn Cường bĩu môi, cười giống vịt đực nói, “Đừng hòng ta nói lại những lời này trước mặt Hoàng đế – mà kể ra cũng đúng, ngày này năm ngoái chúng ta ai dám nghĩ là con người ngang ngược như Ngao Trung đường lại bị giết như không! Cả mấy cái quán nước bên ngoài chẳng hề có tí động tĩnh nào! – Cái hộp này để ở đây, chúng ta bây giờ liều mạng làm điều không phải, cũng là để cho Hoàng thượng vui một lát!”
“Thôi đi, Trương công công! Bữa nay tôi phải hỏi tội ông rồi đây!” Tiểu Mao làm cái mặt quỷ cười nói. “Lần trước cũng nói như vậy, Hoàng thượng liền sa sầm nét mặt, ông đã hoảng kinh im lặng. Nếu bữa đó tôi không sợ té rắm ra thì chẳng biết ông phải làm thế nào nữa.”
Việc đó xảy ra vào tháng tám năm ngoái. Tuần vũ Sơn Đông Vu Thành Long phụng chiếu điều làm Tổng đốc lo trị thủy, vào bệ kiến đúng lúc sáng sớm canh năm. Đêm trước Khang Hy mãi đến cuối giờ Tý đầu giờ Sửu mới đi nằm. Trương Vạn Cường và Tiểu Mao không dám gọi Khang Hy dậy, chậm đi một canh giờ, bị Khang Hy kêu lại mắng cho một hồi, nói Vu Thành Long là trọng thần triều đình, đại sứ biên cương, thái giám cản trở, khinh miệt quan to, làm hỏng việc nước việc quân trọng đại, là tội chém đầu.
Đang lúc hạch tội, Tiểu Mao nhịn không được đánh một cái rắm. Khang Hy trừng mắt hỏi: “Ngươi mắc bệnh gì vậy?” Tiểu Mao khấu đầu đáp: “Nô tài biết tội to, sợ quá...” Tiếp theo lại một tràng dài làm Khang Hy tức cười cho qua.
Bây giờ nói lại, Trương Vạn Cường còn cười nói: “Chú nhóc, cũng coi là một vai diễn! Kể tuổi tác thì nhỏ hơn một chút, nói tướng mạo thì thiên đình cũng đầy đặn, trán vuông vắn, là tướng có phúc. Chỉ đáng tiếc không còn cái đó, gỗ đàn hương đem làm chuồng ngựa phí phạm vật liệu còn không mau cút đi, chú coi đồng hồ xem, chắc là giờ Ngọ rồi!”
Tiểu Mao ban đầu còn cười hì hì, quay đầu nhìn, cây kim trên chiếc đồng hồ chuông đã chỉ giờ cuối Mùi đầu Ngọ, đã đến giờ Khang Hy xem tấu sớ, vỗ đầu nói: “Ôi, không được trễ việc!” Rồi chạy biến, thẳng một mạch tới cung Trữ Tú.
Trong cung Trữ Tú rất ồn ào, Thái hoàng Thái hậu ngồi trên chiếc ghế mềm mà Hoàng hậu Hách Xá Lý thường ngồi, phía dưới đứng một hàng có quý phi Nữu Hồ Lộc, Vệ Cung Nhân và mấy người hầu, mấy cung nữ không có phẩm trật: Mặc Cúc, Tiểu Nga, Thiền Ni, Hồng Tú cầm khăn đứng hầu đằng sau. Khang Hy đứng sau đang nhè nhẹ đấm lưng Thái hoàng Thái hậu. Nàng Tô là người tu hành. Hoàng hậu là chủ nhân, bảo mọi người ngồi. Chỉ có Khổng Tứ Trinh là khách đường xa ngồi ngang đối diện với Thái hoàng Thái hậu, tay bưng chén trà nghe Thái hoàng Thái hậu nói.
“Con đi một hơi đã ngần ấy năm, người khác sao không biết, chứ ta thấy con tính khí trước nay chẳng sửa đổi gì cả!” Thái hoàng Thái hậu cười nói. “Làm gì có đàn bà làm quan làm một đời không lấy chồng? Trong số con gái bên cạnh ta, chỉ có con và Mạn Thư là đặc biệt, còn kiêu tính hơn cả đàn ông. Cũng đừng nói Mạn Thư, bây giờ tuy còn để tóc, nhưng đã là người nhà Phật rồi. Con không lớn thêm chút nào, cô gái già hơn hai mươi rồi làm sao được? Chẳng có ai, cũng không sợ người ta kể lể sau lưng bà già này, con gái nhà mình từng đứa từng đứa đi lấy chồng cả rồi, chỉ còn một người không lấy chồng!” Nói rồi lại cười. Quay đầu lại thấy Tiểu Mao bước vào liền nói: “Đại tổng quản Tiểu Mao, lại đến thúc chủ ngươi làm công chuyện rồi hả?”
Tiểu Mao bước vào nghe câu nói đó. Vội quỳ xuống thỉnh an, cười nói: “Nô tài đâu dám! Đây là chương trình Đức Vạn tuế đặt ra!”
“Bữa nay có ta đây!” Thái hoàng Thái hậu phất tay nói. “Mấy khi Tứ cô nương trở về, để cho cô cháu họ nói chuyện thêm một lát, ngươi đứng một bên đi!”
Tiểu Mao khấu đầu đứng lên, không tiện chào hỏi từng người một, chỉ bước lên vái chào Khổng Tứ Trinh một cái, cười nói: “Tiểu Mao xin chào Tứ Cách Cách – đại sư Tô Ma Lạt Cô là dì con, đã được nghe Tứ Cách Cách và đại sư thân nhau như chị em, lại là khách xa, phải bái thêm mấy bái!” Bỗng chốc hắn lại nhận là dì nuôi.
“Đây là thái giám Tổng quản bên cạnh Hoàng thượng.” Hoàng hậu thấy Khổng Tứ Trinh không biết Tiểu Mao rồi cười nói. “Là con người cầm tinh khỉ, cầu được lệnh Mạn Thư, rất biết cách leo cao, cô Tứ nên ráng mà đề phòng!” Câu nói làm cho mọi người cả Khổng Tứ Trinh đều cười.
“Người trai trẻ vũ dũng Tôn Diên Linh này, lại là người đã từng phục vụ dưới trướng Định Nam vương. Có gặp mấy lần, cử chỉ nói năng điềm đạm lễ phép, rất hay,” Khang Hy cười theo nói với Khổng Tứ Trinh. “Bây giờ cụ Phật bà làm chủ chỉ cô Tứ cho ông ta, quả là trời đất tác thành. Cô Tứ gặp là biết thôi!”
Tiểu Mao nghe cả buổi mới hiểu là gả Khổng Tứ Trinh cho Tôn Diên Linh, bộ tướng của Tôn Hữu Đức, bất giác bật cười, quay mặt nhìn người bạn kết nghĩa của mình – cung nữ Mặc Cúc đứng hầu sau lưng Hoàng hậu – Mặc Cúc quay mặt đi không thèm nhìn anh ta.
“Cụ Phật bà, Hoàng thượng và Nương Nương đều đã nói nhiều rồi, đều là vì con,” Khổng Tứ Trinh suy nghĩ rất lâu, cuối cùng thở dài, nói. “con còn từ chối là không biết điều, vậy... vậy thì... xin tuân mệnh. Con, Khổng Tứ Trinh, cha mẹ đều mất cả, trước nay được cụ phật bà ra ơn nuôi dưỡng, coi như con gái, vốn không nên...”
“Đúng, phải như vậy chứ?” Thái hoàng Thái hậu sợ nàng lại nói chuyện cũ với Thuận Trị, thấy nàng đã chịu, mừng vui lộ trên nét mặt, bèn cắt ngang, nói, “Cuối cùng thì cũng như con ta thôi, Hoàng đế, ý ta là phong Tứ Trinh làm Công chúa Hòa Thạc, con thấy thế nào?”
“Nhi hoàng còn muốn nói gì sao?” Khang Hy rất vui. “Vốn phải là như vậy mà!”
“Tiểu Mao nghe rõ chưa?” Thái hoàng Thái hậu nói, “Tứ công chúa lấy chồng, đồ trang sức phải đặc biệt!”
“Dạ!” Tiểu Mao vội đáp, “Nô tài xin lo chu toàn việc của công chúa Hòa Thạc, tặng năm ngàn bạc…” “Mười ngàn!” Khang Hy nói lớn.
“Dạ – mười ngàn!”
Nàng Tô vốn ngồi yên bên cạnh, nghe tới đây, bỗng cười nói: “Chị Tứ, lần này em không kể là người đi tu hay không đi tu, phải tặng chị một câu, người ta đều phu quý phụ vinh, còn chị thì chồng quý nhờ vợ!”
“Đã đến giờ rồi.” Khang Hy cười quay ra trước vái Thái hoàng Thái hậu nói, “cháu phải đến điện Dưỡng Tâm, có mấy tờ sớ, bữa nay phải phê cho xong. Vốn định hôm nay gặp Vương Phụ Thần, Đề đốc Thiểm Tây, ngày mai gặp Tôn Diên Linh...”
Lời chưa dứt, đã nghe văng vẳng từ hướng đông nam tiếng kêu như bò rống. Mấy người trong điện ngơ ngác, tiếp theo tiếng kêu càng to hơn càng ngày càng đến gần, cung điện bắt đầu rung chuyển, mấy chiếc đèn lồng treo ở góc điện lắc lư như đưa võng, mấy cánh cửa cũng rung lên bần bật như lên cơn sốt rét. “Trời ơi!” Tiểu Mao kêu lên thất thanh, “Cái gì thế này?”, mặt trắng bệch ra, Nữu Hộ Lộc bước loạng choạng ngã lăn ra đất.
“Động đất!” Hoàng hậu Hách Xá Lý hoảng hồn đứng lên nghiêm giọng nói, “Tiểu Mao, Mặc Cúc! Mấy đứa đỡ cụ phật bà, Hoàng thượng đi ra ngoài mau!” Đang nói thấy Mặc Cúc sợ điếng người đứng đực ra, vội bước sải tới, cùng với Tiểu Mao, mỗi người một bên dìu Thái hoàng Thái hậu nhanh chóng chạy ra ngoài sân. Bây giờ Nữu Hộ Lộc và Mặc Cúc mới tỉnh ra vội vàng đến dìu Khang Hy, thì Khổng Tứ Trinh đã cắp đi rồi. Hai người bèn ra lệnh cho thái giám, cung nữ bưng mấy cái ghế chạy vội ra, đặt trên khoảng đất trống cách xa các vách tường. Lúc này Khang Hy trấn tĩnh lại, bước tới mấy bước, bỗng cười nói với Nữu Hộ Lộc: “Các ngươi gọi đây là cái gì? Chạy loạn không ra chạy loạn, ăn xin chẳng giống ăn xin!”
Hai tiếng sấm rền trời phát ra từ lòng đất nhấc bổng mọi người như nhảy lên, nhà ở của dân chúng đổ rầm hàng loạt, bốc lên khói bụi đầy trời, trùm đen kín cả vùng Tử Cấm thành, rường cột cung điện kêu răng rắc. Trong điện Trữ Tú, hoàng hậu, quý phi và mọi người có mặt điếng lặng đứng giữa sân vườn đang rung chuyển kịch liệt. Thái hoàng Thái hậu và nàng Tô ngồi xếp bằng, chắp tay, nhắm mắt, lâm râm niệm Phật. Chỉ riêng Khang Hy ngồi giữa điềm tĩnh ngước đầu nhìn trời.
“Vạn tuế!” Từ cửa Thùy Môn cung Trữ Tú, tiếng Hùng Tứ Lý vọng vào, “Thần Hùng Tứ Lý, Sách Ngạch Đồ, Kiệt Thư xin đến hầu giá!”
“Vào đi!” Khang Hy nói to. Ba vị đại thần khom người bước vào, thấy Khang Hy không việc gì, bất giác thở dài, lần lượt quỳ xuống.
Mới vừa qua giờ Ngọ, động đất càng dữ dội. Lầu Ngũ Phụng nguy nga, nhà dân lớn bé đủ loại, hàng quán hai bên dãy phố, lầu gác nhà cửa đổ sụp xuống, đất chỗ thấp chỗ cao; trên trời, bụi vàng cuốn lên lẫn cùng mây hồng sẫm phủ đen cả bầu trời; mây gió sấm chớp đồng loạt thét gầm, ánh chớp xanh tím lóe lên chiếu sáng từng gương mặt sợ hãi của người dân trên đường phố. Một vùng từ cửa Vĩnh Định, cửa Cáp Đức đến cửa Tây Trực dân cư dày đặc, người ta dìu già bế trẻ, cụm sát vào nhau, các cháu bé giãy giụa khóc thét lên trong lòng mẹ, người lớn thì đứng đực ra bất động, mắt nhìn lên trời, cầu xin bình yên. Xa gần vang vọng tiếng nhà cao sập đổ ầm ầm, cả một thành Bắc Kinh bàng hoàng, khủng khiếp, gà bay chó sủa như tiếng gầm gào của sói lang.
Lễ hợp cẩn giữa thị vệ bậc nhất Tổng lãnh cung Thiện Phốc Ngụy Đông Đình và em họ Sử Giám Mai vừa được ba ngày, do nhà gái Sử Giám Mai không còn ai, phu nhân Hùng Tứ Lý bèn đưa cô về nhà, đứng ra làm lễ hồi môn. Nguyên đã nói trước là ngày mai trở về, nhưng động đất xảy ra, Sử Giám Mai đâu còn nghĩ đến việc gì nữa, bèn lấy trong chuồng ngựa nhà họ Hùng một con ngựa màu mận đỏ tròng yên cương vào, thúc điên cuồng, phi như bay về phủ đệ của Ngụy Đông Đình ở cầu Hổ Phường. Vừa qua cửa Tây Trực đã thấy chồng mình tay cầm bảo kiếm đang cùng một viên quan võ mũ đỏ hai tay cầm kích, sống mái với nhau trên ngựa, liền dừng ngựa đứng nhìn chăm chú.
Viên quan võ này khoảng hơn bốn mươi tuổi, cao hơn Ngụy Đông Đình một cái đầu, nửa người ngồi vững như tượng thép trên mình con ngựa chiến, mặt trắng không râu, lông mày như con tằm nằm ngang, tay chân lanh lẹ, hai tay kích bạc múa vù vù như gió. Ngụy Đông Đình là thị vệ võ thuật cao nhất bên cạnh vua Khang Hy, nhưng vì không rành đánh nhau trên ngựa, nên dù gắng sức vẫn không thể áp thế được đối phương. Sử Giám Mai tay không, bèn rút trên đầu tóc ra một chiếc trâm bạc, làm ám khí, vung tay ném vào sau lưng người đó. Không ngờ, ông ta lựa thế quay người lại, trâm bạc bay sà mặt đất kêu vút, đụng phải thanh kiếm của Ngụy Đông Đình bay đi mất tăm. Sử Giám Mai tức mình, rút phựt chiếc thắt lưng bạc, quay người nhảy vào vòng chiến. Đang đánh chưa phân thắng bại, bỗng nghe một trận cười giòn vang lên từ cửa thành: “Ha ha ha... Hiền đệ Hổ Thần, tân hôn Yến Nhĩ, vợ chồng quả là hào hứng, cùng đánh với “Diều ngựa” ở Quan Tây!”
“Đồ Quân môn!”
Ba người cùng dừng tay, thấy Đề đốc Cửu môn Đồ Hải với bộ đồ tướng, mang kiếm hẳn hoi, tay cầm chiếu thư, hô to: “Thánh chỉ: Triệu Vương Phụ Thần lập tức vào yết kiến!”
Ngụy Đông Đình và Vương Phụ Thần sánh vai cùng vào. Lúc này chấn động đã dứt, chung quanh cung Trữ Tú đã trở lại yên tĩnh. Thỉnh thoảng còn vọng lại những rung động nhẹ làm các cánh cửa kêu cót két, nhưng không còn đáng sợ. Bên ngoài thềm đỏ, hai mươi cung nữ, bốn mươi thái giám xếp hàng quanh Khang Hy như các ngôi sao chầu quanh mặt trăng, hai chiếc quạt quý, một bình phong lụa dài bọc ở phía sau. Kiệt Thư, Hùng Tứ Lý và Sách Ngạch Đồ ưỡn người quỳ một bên. Mọi việc tiến hành không khác các buổi chầu thông thường.
Ngụy Đông Đình do có mấy ngày không vào chầu, thấy Khang Hy, làm lễ một quỳ một lạy rồi đứng hầu một bên Khang Hy. Vương Phụ Thần lần đầu tiên vào yết kiến, hồi ở Thiểm Tây hàng ngày có nghe nói một số chuyện bí mật trong cung cấm, như Thánh thượng nhận một cử nhân thi rớt Ngũ Thứ Hữu làm thầy ra sao, một mình tính kế, dùng một thiếu niên tân tiến mưu mẹo bắt Ngao Bái như thế nào. Nhưng bây giờ thực sự gặp mặt những người này, thì vừa kích động vừa hiếu kỳ. Một mặt anh làm lễ yết kiến ba quỳ chín lạy, một mặt lén nhìn, thấy Khang Hy chân đi ủng đen trong lót vóc xanh, mình mặc áo dài lụa màu đỏ sẫm, ngoài có áo khoác đơn màu xanh thêu rồng vàng, cả người không chói sáng ngọc ngà châu báu, nhưng toát vẻ quý phái, phong độ nhàn nhã, mỉm cười nhìn anh làm lễ. Khang Hy thấy Vương Phụ Thần không ngớt liếc nhìn mình, bèn nghiêng người cười nói: “Vương tướng quân, mời đứng lên nói chuyện!”
Vương Phụ Thần dạ to một tiếng rồi đứng lên.
“Quả là nhân tài tốt tướng! Đã từng nghe tướng quân vai gấu lưng hổ, quả nhiên danh tiếng không sai!” Khang Hy vừa mau miệng khen ngợi, vừa cười ha hả, đi đến bên Vương Phụ Thần, chăm chú nhìn, nói, “Nghe nói khanh vì không phụng đặc chỉ, bị Ngụy Đông Đình chặn đấu nhau ngoài cửa Tây Hoa, chẳng hay thua thắng thế nào?”
“Ngụy tướng quân là cây cột ngọc chống trời trước giá Thánh thượng, thần sao sánh nổi!” Vương Phụ Thần hoàn toàn không nghĩ Khang Hy thân mật như vậy, tâm lý căng thẳng đã dịu lại.
“Cũng chưa chắc như vậy đâu.” Khang Hy ngước đầu nhìn bầu trời đã vàng rực, nhẹ nhàng thở ra. Vừa rồi nghe bẩm phía đông điện Thái Hòa đã sụp đổ, cung Dục Khánh chỉ có điện Thuần Vu không hư hại, lòng vua thấy nặng nề, suy nghĩ một lát rồi chuyển sang việc khác, hỏi: “Trẫm đã sai Nạp Lan Minh Châu đến Thiểm Tây bắt Tổng đốc Sơn Thiểm Mạc Lạc và Tuần vũ Bạch Thanh Ngạch về kinh hỏi tội. Khanh từ bên ấy trở về, việc này làm ra sao?”
Vương Phụ Thần không nắm rõ ý câu hỏi của Khang Hy, chưa trả lời ngay, một lúc lâu mới tâu: “Bạch Thanh Ngạch đã bị cách chức giam giữ, Mạc Lạc trước khi Khâm sai đại thần đến đi thị sát Sơn Tây chưa về, Minh đại nhân đã sai người đi gọi.”
“Trẫm không hỏi việc đó.” Khang Hy cười nói, “Sớ vạn dân của bá tánh Tây An gửi đến, ca ngợi hai người này thanh liêm, khẩn cầu triều đình miễn tội. Khanh ở Bình Lương nhiều năm, Trẫm muốn hỏi có đúng vậy không?”
“Thưa đúng vậy!” Vương Phụ Thần và Mạc Lạc trước nay bất hòa, nhưng Mạc Lạc là quan thanh liêm, dân hai tỉnh Sơn, Thiểm đều công nhận, nên không nói dối được. Ông uống mấy ngụm nước, thông giọng rồi nói tiếp: “Mạc Lạc làm quan nhiều năm, làm lễ mừng thọ cho mẹ phải mượn năm mươi lạng bạc, lần này lục soát tịch thu phủ Bạch Thanh Ngạch chỉ còn mười sáu lạng bạc, đó là sự thực, thần không dám giấu diếm!”
“Nghe nói khanh và Mạc Lạc bất hòa?”
“Bẩm Hoàng thượng.” Vương Phụ Thần vội quỳ xuống nói. “Việc thần với tướng quân Mạc Lạc, Ngõa Nhĩ Cách là chuyện riêng tư, Hoàng thượng ý muốn nói việc nước, thần không thể bỏ tư vì công, cũng không dám bỏ công vì tư.”
“Tốt!” Khang Hy vỗ đùi tán thưởng, quay người ngồi xuống ghế dựa, nói to, “Quốc gia đại thần, chỗ dựa quan trọng của xã tắc, phải có phong độ như vậy – khanh xuất thân thế nào?”
Hỏi tới lai lịch, Vương Phụ Thần hơi run, liên tiếp khấu đầu đáp: “Ông nội thần hèn mọn, xuất thân là lính kho.”
Người xuất thân lính kho thì giàu mà hèn, tuy có tiền nhưng bị người ta coi thường. Vì kho bạc là nơi quan trọng, sợ lính kho ăn cắp, khi ra vào bị khám xét không để một đồng. Nhưng tiền lương hàng tháng lại không thể đủ ăn cho cả nhà, đành phải dùng đá, củ hành nhét vào cho hậu môn to lên, mỗi lần đi ra đều nhét bạc thỏi vào hậu môn đem ra. Đó là điều bí mật mà ai cũng biết, Vương Phụ Thần trước nay xem đó là việc vô sỉ nhục nhã, rất kỵ nói tới. Nhưng Hoàng thượng hỏi đến không thể không nói thật, cho nên hai tiếng “lính kho” chưa ra khỏi miệng, nước mắt đã lưng tròng, giọng nói cũng nghẹn cứng.
Khang Hy cũng bất ngờ, ngẩn ra một lúc rồi thở dài: “Trẫm không biết khanh xuất thân hèn mọn như vậy.” Rồi cao giọng nói dõng dạc: “Xưa nay, có biết bao các đấng trượng phu vĩ đại, hào kiệt anh hùng xuất thân còn hèn mọn hơn khanh nữa! Đấng anh hùng chỉ lo không lập nên sự nghiệp, các việc khác đều không đáng kể. – Trương Vạn Cường!”
“Có nô tài!”
“Truyền ngay ý Trẫm, cho cả nhà Vương Phụ Thần phủ Nội vụ đổi hộ tịch theo cờ, sửa lệ…” Khang Hy suy nghĩ một lát, cảm thấy đã gia ân tình nghĩa thì phải cho khá hơn một chút, bèn nói cả quyết, “cờ đỏ chính quân Hán!”
Trương Vạn Cường dạ một tiếng, cúi chào rồi lui ra. Vương Phụ Thần cảm động nước mắt đầm đìa, chỉ dám nuốt lệ cúi lạy, nếu không sợ thất lễ trước nhà vua thì đã khóc lên thống thiết.
“Khanh cứ làm việc của mình,” Khang Hy nói trầm tĩnh, “Trẫm vốn muốn giữ khanh làm việc tại triều, nhưng Bình Lương là nơi hiểm yếu, không có chiến tướng giỏi giang như khanh, Trẫm càng không yên lòng. Phía tây, phía nam việc phiền phức còn nhiều, triều đình phải trông cậy vào “diều ngựa” là khanh!”
Người ngoài nghe mấy câu nói nhẹ nhàng bình dị, nhưng “phía tây” Vương Phụ Thần nghe ra như tiếng sấm sét. Anh đã theo Hồng Thừa Trù chinh nam, sau khi bình định Giang, Triết thì quy theo Bình Tây vương tiết chế Ngô Tam Quế. Ngô Tam Quế đối với Vương Phụ Thần dưới cờ của mình đã nhường cơm sẻ áo, còn tốt hơn con cháu trong nhà, dù đã điều đi Bình Lương, mỗi năm Ngô Tam Quế còn tiếp tế cho mấy vạn lượng bạc. Cho nên Khang Hy nói câu này là có ý vậy. Vương Phụ Thần đương nhiên đã nghe là hiểu, không thể không tỏ thái độ. Nghĩ vậy, Vương Phụ Thần vội dập đầu nói: “Hoàng thượng ủy thác thần giữ cửa buồng, gửi gắm tâm phúc cho thần, đối với thần ơn cao như núi tình sâu như biển, trên tới tổ tông, dưới xuống con cháu, thần mà vong ơn phụ nghĩa, chẳng những không thể nhìn mặt thế gian, mà cũng không dám ngó tới tổ tông! Xin Chúa thượng yên lòng. Hễ phía tây, phía nam có việc, thần dẫu tan xương nát óc cũng không phụ ơn Thánh thượng!”
“Không phải Trẫm không tin mọi người,” Khang Hy có hơi xúc động, hai mắt ánh lên tia sáng, chỉ lúc này mới thấy được sự lão luyện chín chắn không tương xứng với tuổi đời nhà vua, “Trẫm quả không nỡ để một người tài như khanh phải rời xa kinh sư chịu khổ sở ở nơi biên thùy.” Vừa nói vua vừa lấy sau ghế ra một cặp thương dài bốn thước bằng bạc, rồng cuộn đuôi báo, ngẫm nghĩ rồi đặt lại chỗ cũ, cất cao giọng nói, “Cặp thương này do tiên đế tặng Trẫm để hộ thân, mỗi lần Trẫm đi ra đều để chúng trước ngựa, – Trẫm biết khanh ở ngoài đó sống không được như ý, sắp đến sẽ điều Mạc Lạc về kinh, lương thưởng cũng phải đưa trước một ít đi cứu cấp. Không còn cách nào khác, một năm rưỡi tiền đều bị người ta lấy mất – khanh là quan do tiên đế giữ lại, ban cho vật khác thì không có gì quý giá. Ta chia cho khanh một cây thương, khanh đem tới Bình Lương, thấy thương như thấy Trẫm. Trẫm giữ một cây thương bên mình, thấy thương như thấy khanh...” Vừa nói, giọt lệ to như hạt ngọc tràn ra, Khang Hy xúc động vì lời nói của mình.
“Thánh ân sâu nặng!” Vương Phụ Thần mặt trắng bệch, xúc động khóc nấc, “Nô tài dù tan xương nát thịt, cũng không báo đáp được mảy may. Nguyện xin đem hết sức phục vụ Hoàng thượng!” Vừa nói, hai tay run rẩy đỡ nhận cây thương, từ từ quay gót lui ra. Vừa ra đến cửa Thùy Hoa, không nén nổi tình cảm xúc động, đã bưng mặt khóc nức nở.

