Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 04
4
Thuận lẽ trời, khởi giá đi Ngũ Đài sơn
Lòng khó lường, khua môi ngoài dinh Phò mã
Khổng Tứ Trinh từ biệt ra đi ngay hôm đó, trở về nhiệm sở ở ngoài cửa Đông Hòa. Do động đất vẫn chưa dứt hẳn, Khang Hy không muốn dời qua dời lại, ngày hôm sau vẫn triệu kiến Sách Ngạch Đồ, Hùng Tứ Lý bàn việc tại cung Trữ Tú. Ngụy Đông Đình và mấy đại thị vệ đứng hầu bên ngoài cũng cảm thấy rất tiện lợi. Theo quy định cung nữ không gặp quan bên ngoài, Hoàng hậu dẫn đám người quý phi làm lều tạm thời trú ở cái sân nhỏ sau cung Chung Túy trước Phật đường nơi nàng Tô tu hành. Thái hoàng Thái hậu không có nơi nào đi, ngồi không thấy buồn bèn dẫn nàng Tô tới phía trước cung Trữ Tú xem Khang Hy làm việc.
Đợi Hùng Tứ Lý, Sách Ngạch Đồ làm lễ chào Thái hoàng Thái hậu xong, Khang Hy mới ngồi xuống, lẳng lặng nhìn nàng Tô. Từ khi có sự cố về hôn nhân với Ngũ Thứ Hữu, đã hơn nửa năm rồi. Gần đây tâm trạng nàng Tô có khá hơn lúc Ngũ Thứ Hữu mới rời kinh, đi đứng có vẻ cứng rắn hơn nhiều, bộ quần áo màu đen nổi lên gương mặt xanh xao, không còn tái xanh hơn được, làm người ta không dám nhìn thẳng, chỉ có tâm tính vẫn mang vẻ lạnh lùng đạm bạc, tạo nên cảm giác nghiêm nghị cao xa.
“Hoàng đế đã qua thử thách, so với trước tiến bộ hơn nhiều, hôm qua hai việc xử trí đều tốt.” Thái hoàng Thái hậu vừa ngồi xuống vừa mỉm cười nói với Sách Ngạch Đồ và Hùng Tứ Lý đứng bên cạnh, “Tứ Trinh văn võ toàn tài, gả cho Tôn Diên Linh, có thể khớp được dây cương cho con ngựa hoang. Minh Châu nói trong tờ sớ trước rằng con người Vương Phụ Thần này làm việc nghiêm túc, đối với bạn tin cẩn, rộng lượng với người, nghiêm đối với thuộc hạ – cũng khá đấy!” Rõ ràng là có ấn tượng rất tốt đối với Vương Phụ Thần.
Hùng Tứ Lý khom người cười theo đang định đáp lời, Khang Hy lại nói: “Bà nội nói đúng, nhưng cũng không được sơ hở. Cháu sau khi gặp Tôn Diên Linh mấy lần, thấy người này rất kiêu, lâu dài chưa chắc là không sinh chuyện. Vương Phụ Thần thì lại cung kính, nhưng “cung” chưa chắc đã “trung”, anh ta chịu ơn huệ của Ngô Tam Quế rất sâu, cháu không thể không đối với anh ta tốt hơn một chút, anh ta nếu có lương tâm thì phải tiết chế binh mã ở phía tây, sau này triệt phiên sẽ dễ dàng hơn.”
Ngụy Đông Đình đứng một bên mãi không hiểu được vì sao Khang Hy lại hậu đãi một người có tướng Lã Bố như Vương Phụ Thần, đến bây giờ mới tỉnh ra, bất giác nhìn Khang Hy với ánh mắt khâm phục. Hùng Tứ Lý nói: “Đức Vạn tuế nghĩ chu đáo, thần tình, quyết đoán sáng suốt cực kỳ! Tứ công chúa hạ mình lấy Tôn Diên Linh, phía đông có thể khống chế hai phiên Thượng, Cảnh, tây có thể chặn tay Vân, Quý, nhưng tình hình của Vương Phụ Thần lại khác với những dũng tướng dưới quyền ông như Vương Bình Phiên, Trương Kiến Huân, Cung Vinh Ngộ, Mã Nhất Quý, có người là bạn cũ của Ngô Tam Quế, có người là dư đảng của Sấm, Hiến. Vương Phụ Thần ở kinh thì như vậy, trở về khó bảo đảm không có biến cố, theo ngu ý của thần...” Nói tới đây, Hùng Tứ Lý ngần ngừ một lát.
“Hả?”
“Thần cho rằng để Vương Phụ Thần ở kinh sư là tốt nhất!”
Khang Hy nghe xong không nói năng gì, chỉ cúi đầu suy nghĩ rất lâu, rồi quay mặt hỏi Sách Ngạch Đồ: “Khanh thấy thế nào?” Sách Ngạch Đồ vội đáp: “Ải Bình Lương là nơi hiểm yếu đường phía tây, thần cho rằng Hùng Tứ Lý nói có lý.” Vừa nói vừa nhìn Ngụy Đông Đình cười nói: “Thần bảo đảm một người đến đó nhất định làm tốt nhiệm vụ.”
“Khanh nói là Ngụy Đông Đình?” Khang Hy quay mặt nhìn Thái hoàng Thái hậu, thấy bà đang nói nhỏ với nàng Tô, liền quay nhìn Ngụy Đông Đình, “Khanh đi được không?”
“Nô tài xin nghe theo lệnh Đức Vạn tuế!” Ngụy Đông Đình chắp hai tay, quỳ một gối nói to, “Vạn Tuế bảo nô tài đi, nô tài sẽ đi!”
“Không được!” Khang Hy suy nghĩ rất lâu, nói dứt khoát, “Kinh sư là đất gốc, nhất định phải có người như Ngụy Đông Đình bảo vệ. Vương Phụ Thần tiết chế tây lộ phù hợp hơn người khác. Đối với anh ta, Trẫm cảm phục bằng tình, gắn kết bằng ơn, thay đổi bằng đức, anh ta phải biết báo đáp. Hơn nữa bây giờ đột nhiên điều Vương Phụ Thần đi chỉ có thể tăng thêm lòng nghi sợ của Bình Tây vương...”
“Đúng!” Thái hoàng Thái hậu ngồi chuyện trò bên cạnh cắt ngang lời Khang Hy, chống tay vào thành ghế đứng lên, “Ngô Tam Quế mà triệt phiên trôi chảy thì sẽ không có việc gì xảy ra; còn nếu Ngô Tam Quế làm phản, thì chỗ Vương Phụ Thần thay ai cũng vậy thôi. Có điều Hùng Tứ Lý nói cũng đúng, bọn Vương Phụ Thần và Tôn Diên Linh đó đều xuất thân là giặc cướp, không thể không đề phòng, Tứ Trinh đi Quảng Tây chậm hơn một chút mới tốt, bây giờ không triệt phiên, và trở về không, bọn tiểu nhân xúi giục anh ta đổi ý. Ôi! những việc phiền toái ở kinh sư cũng nhiều! Bây giờ bà cháu ta muốn ra ngoài thị sát một vòng, không có người chắc chắn như Tiểu Ngụy đi theo thì các ngươi làm việc ở đây cũng không yên tâm.”
“Đi thị sát!” Sách Ngạch Đồ và Hùng Tứ Lý hầu như cùng kêu lên kinh ngạc. “Không biết cụ Phật bà và Hoàng thượng định đi thị sát hướng nào?”
“Ngũ Đài sơn.” Thái hoàng Thái hậu bưng mặt tưởng như cái tên này nói ra từ kẽ răng.
“Cụ Phật bà, Vạn Tuế” Hùng Tứ Lý hoảng kinh, bước nhanh tới một bước quỳ mọp xuống khấu đầu, ngẩng mặt lên hỏi, “Kinh kỳ vừa mới tạm yên, trong ngoài nghi ngờ, bao nhiêu việc gấp đang đợi giải quyết, không biết vì cớ gì mà đi thị sát? Thần cho rằng không đi được!” Ông quay mặt sang chất vấn Sách Ngạch Đồ đang đứng trầm ngâm bên cạnh, “Ngài là đại thần quốc gia, vì sao giờ này lặng thinh không nói?” Sách Ngạch Đồ không biết nói sao cho phải, ông cũng đã nghe phong thanh là việc “tiên đế xuất gia đi tu” trước khi lâm chung. Cha Sách Ni đã có nói mê “Ngũ Đài Sơn, Đức Thuận Trị...” Qua nhiều chứng tích, ông mơ hồ cảm thấy có ẩn tình gì trong sự “giá băng” của tiên đế. Bây giờ nghe tự miệng Thái hoàng Thái hậu nói ra ba tiếng “Ngũ Đài sơn” đã chứng thực cho suy đoán của mình. Nghe Hùng Tứ Lý chất vấn mình, nghĩ là cứ giả vờ không biết gì là tốt nhất, bèn lên tiếng phụ họa: “Nô tài thực tình cũng không rõ tại sao Thái hoàng Thái hậu và Thánh thượng phải đi thị sát Ngũ Đài Sơn.”
“Mới đây kinh sư có động đất, bà nội định cầu phật tổ linh ứng phò trợ.” trong bụng, Khang Hy cũng cảm thấy bà nội suy nghĩ có gì khác thường, bỗng đùng một cái đề ra phải đi Ngũ Đài Sơn, vua nở một nụ cười đang định khuyên giải thì Thái hoàng Thái hậu đã cắt ngang, nói: “Hoàng đế nói đúng, đúng là có ý đó. Động đất núi sông rung chuyển, xưa nay như vậy, ta vốn không để tâm, nhưng lần này rất kỳ lạ – các ngươi xem phía tây nam, sắc mây sao đỏ như vậy? Động đến điện Thái Hòa cũng sập một nửa – các ngươi còn khuyên can, chẳng lẽ đợi cả thành Bắc Kinh đều đổ sụp mới đi cầu Phật tổ?”
“Động đất là cháu thất đức với dân làm Trời giận dữ.” Khang Hy thấy bà nội không nghe lọt ý mình, lại còn nói dông dài, liền cười, giải thích, “Hoàng tổ mẫu lo lắng thay cho cháu, có thể tới ngay chùa Đàm Chá lễ Phật, không phải cũng dốc lòng thành sao? Bà nội có tuổi rồi, sức khỏe là quan trọng nhất. Hơn nữa, kinh sư nhiều việc, chúng ta đều đi cả, thì làm sao yên tâm được?”
“Chùa Đàm Chá sao bì được với Ngũ Đài sơn?” Thái hoàng Thái hậu nói, “Ngũ Đài sơn là đạo tràng của Bồ tát Văn Thù, là nơi của Phật sống!”
Hùng Tứ Lý nghe tới đây cũng vội khuyên giải: “Theo nô tài, kinh sư động đất lần này là do Ngao Bái nhiều năm loạn chính gây ra. Trời tuy biến đổi là do con người gây ra, nhưng nếu biết tu hành, việc người cũng cứu vãn được sự biến động của trời, hà tất phải đi cầu Phật Tổ tây phương...” Hùng Tứ Lý đã trở lại cốt cách Đạo gia, lại thuyết giảng về đạo lý cảm ứng giữ trời và người. Không dè Thái hoàng Thái hậu cười nhạt, quát rằng: “Ngươi câm ngay! Ta kính Phật tổ cũng như ngươi tin Khổng Mạnh, ta không nói Khổng Mạnh sai, cũng không cho phép ngươi báng bổ tăng sư trước mặt ta!” Sắc mặt bà trắng bệch, tưởng rằng Hùng Tứ Lý là một tôi trung, nhưng lại là con mọt sách, bèn không nói nữa, quay người ngồi lại xuống ghế.
“Đây là tâm nguyện của cụ Phật bà.” Nàng Tô vốn không muốn nói gì trong trường hợp này, thấy mọi người yên lặng đến khó chịu, hai tay chéo lại nói xen vào: “Bảy ngày trước nói chuyện nhân duyên với lão Phật bà ở cung Từ Ninh, lão Phật bà nói đã nằm mộng thấy Kim giác thần tướng tới hỏi ước nguyện, lão Phật bà hứa đến Ngũ Đài Sơn cúng một tượng Phật ngọc. Bây giờ lại có chuyện động đất, thì rất nên đi Ngũ đài sơn một chuyến. “Bên ngoài lục hợp, còn có mà không bàn” Thánh nhân cũng không nói là không có quỷ thần, cho dù không tin là nó có, thì tốt nhất không nói nó không có.”
“Mấy lời Huệ Chân đại sư đã nói được nỗi lòng của bà già ta.” Thái hoàng Thái hậu thở dài nói, “Ta đã là người gần đất xa trời rồi, còn cầu xin gì cho bản thân nữa? Chỉ mong nghiệp lớn làm vua của cháu ta được bền vững là ta yên lòng – Ngũ Đài sơn ta phải đi, Hoàng đế nếu lo không được thì ta đi một mình.”
“Cháu đâu dám vậy!” Khang Hy đứng lên nói, “Đương nhiên cháu phải đi với bà, việc ở kinh thành tạm giao cho Hùng Tứ Lý và Sách Ngạch Đồ lo liệu, phải cẩn mật một chút, thôi quyết định như vậy nhé!”
Thái hoàng Thái hậu và Hoàng đế cùng rời Tử Cấm thành đi tế giao chùa Đàm Chá là một việc từ khai quốc đến nay mới có lần đầu, cho nên bộ Lễ tấu nghi lễ “đại giá” long trọng nhất. Theo nghi thức đời Thanh, Hoàng đế đi thị sát gồm có bốn bậc, cúng giao dùng “đại giá”, hội triều dùng “pháp giá”, ngày thường ra vào dùng “loan giá”, đi chơi dùng “kỵ giá”. Cho nên Thánh chỉ đã xuống, cả triều đình bận rộn, trước nha môn bộ Lễ, ban ngày ngựa xe nhộn nhịp, ban đêm đèn đuốc sáng trưng, các Thượng thư, Thị lang, chủ sự các ty người Mãn, người Hán cả ngày thâu đêm thảo các cáo chế, sắp xếp thứ bậc các ban cho bá quan, sắp xếp bảo vệ chỗ nghỉ chân cho Hoàng đế và các lễ tiết nghi thức đưa đón... người nào cũng mệt mỏi rã rời, liên tiếp bận rộn bảy ngày mới coi như tạm ổn. Quan viên lớn nhỏ, bá tánh dân đen Bắc Kinh nghe nói là “đại giá” vì có động đất, nói là đi lễ Trời cúng Tổ, cầu phước hộ dân, đều vô cùng kính phục, giương mắt nhìn cảnh náo nhiệt.
Tiếp được ý chỉ đưa tiễn xa giá rời thành, phò mã Hòa Thạc, Thái tử thái bảo Ngô Ứng Hùng mới canh tư đã dậy chuẩn bị sẵn sàng. Anh là viên quan lớn tán trật nhất phẩm, theo lý phải mặc áo dài chín xà năm móng, khoác áo tiên hạc, nhưng bộ Lễ đặc biệt cho biết, Ngô Ứng Hùng phải mặc thêm áo khoác vàng và lông trĩ hoa hai mắt, anh vừa nghe đã biết là điển lễ đặc biệt. Vốn là việc vui mừng, nhưng anh có nỗi niềm thầm kín, bản thân ẩn náu kinh sư chỉ mong không ai chú ý, càng ít người biết càng tốt. Bây giờ Hoàng đế hạ chỉ đặc biệt cho riêng mình, đối với anh, không phải là việc tốt lành. Hơn nữa trang phục quá rực rỡ, trăm quan nhìn vào sẽ nghĩ như thế nào?
Từ khi Ngao Bái rơi đài, Ngô Ứng Hùng trước nay yên lành bỗng cảm thấy bất an. Hình như có một sức mạnh đáng sợ nào đó mai phục xung quanh nơi ở của anh. Hai chữ “Tam phiên” cũng càng ngày càng làm anh cảm thấy đáng sợ. Nhưng thư cha gửi tới không nói triều đình có việc gì động tĩnh khác thường. Anh tin rằng nếu triều đình có động tĩnh gì, cha anh sẽ biết rất nhanh. Ở Bắc Kinh, ngoài đường dây tai mắt anh ra, không biết có bao nhiêu người ngấm ngầm phục vụ cha anh.
Ngõ Thạch Hổ trong cửa Tuyên Võ cách Tử Cấm thành không xa. Lòng dạ ngổn ngang trăm mối, Ngô Ứng Hùng đến trước cửa Chính Dương bèn xuống kiệu đi bộ, bộ Lễ sắp xếp vị trí cho anh ở Thiên An Môn, phía đông cầu Kim Thủy. Vị trí hiển hách này, anh cảm thấy mình không tương xứng.
“Ngô công!” Sách Ngạch Đồ đã đứng bên cầu từ trước, thấy anh đi lại, nét mặt hớn hở chạy ra đón. “Xin qua đây với chúng tôi cùng hầu giá.” Ngô Ứng Hùng ngước đầu nhìn thấy Sách Ngạch Đồ và Hùng Tứ Lý cũng mặc triều phục mới toanh, áo khoác vàng, đứng ngang hàng bên nhau, vội vã đáp lễ, cười nói: “Ngô Ứng Hùng đâu dám đứng ngang hàng với hai vị Phụ chính, Sách đại nhân đừng trêu cười,” Hùng Tứ Lý cười nói: “Ông đừng khách sáo, đây là ý chỉ Ngụy Đông Đình vừa truyền xuống. Ông là người Thiên tử chí thân, lại là đại thần triều đình, xét kỹ ra, những người như chúng tôi sao bì kịp!”
“Sách đại nhân,” Ngô Ứng Hùng thấy Hùng Tứ Lý lấy ống tẩu đồng hút thuốc, vội lấy bật lửa trong túi ra châm lửa cho Hùng Tứ Lý, rồi quay người hỏi Sách Ngạch Đồ: “Sao lâu nay không thấy Minh Châu đại nhân? Đi Thiểm Tây vẫn chưa về sao?” Sách Ngạch Đồ cười nói: “Còn lâu, Tổng đốc Sơn, Thiểm Mạc Lạc đi Sơn Tây rồi, còn chưa về Tây An,” Hùng Tứ Lý từ từ nhả khói ra, nói lạnh lùng: “Còn phải xem, đường sá dễ đi thì về sớm hơn một chút, còn nếu gặp chuyện rắc rối như ở trấn Ô Long thì phải chậm thêm mấy ngày.”
Đây là nói chuyện Minh Châu dùng kiếm Thiên tử chém quan Tây tuyển ở trấn Ô Long. Sách Ngạch Đồ cười không quay mặt lại. Ngô Ứng Hùng lòng nặng trĩu, cảm thấy những lời này rất khó đối phó, dù là chỉ trích Minh Châu, hay là kín đáo phê bình quyền Tây tuyển của Ngô Tam Quế, đều cũng không thích đáng. Anh tủi thân, lấy hơi cười nói: “Bất kể là bộ Lại cử tới hay gia phụ chọn ra, đều là mệnh quan của Đại Thanh. Phàm thuộc loại tham quan ô lại, đều nên chém cả. Gia phụ viết thư tán dương Minh đại nhân chấp pháp vị công, loại giặc hại dân như Tri phủ Trịnh Châu, gia phụ mà biết thì cũng không dung tha. Nếu không thì còn gì đạo trời phép vua?” Hùng Tứ Lý cười cười, còn muốn nói gì nữa, bỗng Sách Ngạch Đồ kéo tay áo hai người nói: “Hai vị yên lặng, Hoàng thượng sắp ra rồi!” Ba người không nói chuyện nữa, vung tay áo khoác, lần lượt quỳ xuống. Từ Thiên An Môn đến cửa Chính Dương, hàng trăm đại thần các bộ, viện, quan viên tỉnh ngoài về kinh làm việc, thấy ba người quỳ xuống liền yên lặng, nhất tề quỳ xuống im lặng đợi xa giá.
Không bao lâu, mấy chục thị vệ trong cung hàng ngũ chỉnh tề từ trong cửa cung đi ra, dẫn đầu là Tiểu Mao lớn tiếng truyền chỉ: “Thánh giá sắp tới, bá quan hầu đợi!” Nói xong phẩy phất trần lui vào trong. Liền theo sau, chấp sự phủ Nội vụ rao truyền từng tiếng từng tiếng một.
Lọng rồng đã đi ra Thiên An Môn. Ngô Ứng Hùng là người có ý tứ, xem xét kỹ lưỡng: Đi đầu là lọng cán gấp, chín rồng vàng sáng trên xe bốn ngựa, tiếp đến lần lượt là hai lọng tứ chi màu xanh sáng, hai mươi lọng chín rồng cán thẳng (chia năm màu xanh, đỏ, đen, trắng, vàng), lọng vuông tám màu thuần tía, tám màu thuần đỏ theo sau... Đúng vào giờ Thìn, mặt trời chiều sáng rực, gió nhẹ thổi, tua lọng phất phơ như múa, cảnh tượng rất đẹp mắt. Lọng hoa qua hết, thì đến 72 chiếc quạt cung đình, có chiếc viết chữ thọ, có chiếc vẽ đôi rồng, lông trĩ, lông công, hoa văn loan phượng, chiếc nào cũng rực rỡ chói mắt. Tiếp đến là 16 tấm phướn to, trên viết những chữ như “giáo hiếu” “biểu tiết” “minh hình” “bật giáo” “hành khánh” “thi huệ” “bảo công” “hoài viễn” “chấn võ” “phô vãn” “nạp ngôn” “thời thiện”... Các thứ cờ tứ kim tiết, tứ nghi hoàng xưởng, bác kỳ đại đạo, trên cờ có vẽ các loài chim: phượng, hạc tiên, chim công, nhạn vàng, trĩ trắng; các loài thú may mắn: kỳ lân, sư tử, gấu đỏ, gấu vàng, tê giác... khiến người xem hoa mắt. Nghi thức phía trước đi qua rất dài, phía sau vấn nối theo dằng dặc. Ngô Ứng Hùng thở dài, nghĩ thầm: “Hèn chi Hán Cao Tổ thấy Tần Thủy Hoàng đi thị sát phải than rằng “đại trượng phu phải như vậy”!” Khi định thần trở lại, một trăm hai mươi lá cờ đã đi qua, Ngụy Đông Đình khí thế hiên ngang cưỡi con ngựa vàng dây cương nạm vàng, phía sau, Mục Tử Húc, Lang Thẩm, “Lừa bướng”, Triệu Phùng Xuân dẫn bốn mươi thị vệ, đều mang binh phục giáp vàng, đỉnh đỏ lông xanh, hàng trăm tên cấm quân tay cầm đủ loại binh khí cung tên giáo mác... hùng hùng hổ hổ đi theo sau. Chỉ có mỗi một cây thương đuôi báo. Ngô Ứng Hùng biết một cây nữa đã ban cho Vương Phụ Thần, bất giác cười gằn một tiếng. Lúc này trong thành ngoài thành chiêng trống rền vang, một tiếng hò như núi lở. Khang Hy ngồi trên chiếc xe đi đầu liên tiếp gật đầu vẫy tay đáp lại. Ngô Ứng Hùng thấy Khang Hy đang nhìn mình, vội vàng dập đầu trên đá cứng mấy cái, hô liền: “Vua ta vạn tuế: Vạn vạn tuế!” Mãi đến lúc xa giá qua hết, anh mới dám ngước đầu lên.
Và mãi đến quá trưa, Ngô Ứng Hùng mới hòa vào đám bá quan cụt hứng nặng nề lê bước về tới hẻm Thạch Hổ. Tướng công Lang Đình Khu môn khách đã đợi hầu ở cửa từ sớm, thấy Ngô Ứng Hùng thất thểu trở về, vội chạy ra cười nói: “Ông chủ đã trở về! Tuy không xa nhưng đi cả buổi đủ mệt rồi, sao không đi kiệu?”
“Không mệt.” Ngô Ứng Hùng một bầu tâm sự, cười lạnh nhạt nói, “Mọi người đều không ngồi kiệu, nổi bật quá – phải rồi, Châu Toàn Bân có tới đây không? Ông ta nói bữa nay tới thăm.” Lang Đình Khu cười nói: “Đến từ sớm rồi, theo ý của ngài để ông ở Háo Xuân hiên!” Hai người vừa nói vừa đi vào trong, quanh co một hồi, đến cửa thứ hai bỗng thấy một người chắp hai tay nói: “Thiếu phó, vất vả quá!” Vừa nói vừa ngẩng đầu lên. Ngô Ứng Hùng nhìn chăm chú. Ông ta mặc áo dài lụa màu đỏ sẫm, ngoài khoác áo vóc xanh da trời, chân mang đôi giày kiểu kinh, dưới cái mũ vỏ dưa lộ ra một cái đuôi sam muối tiêu dài tới giữa lưng. Người này chính là Châu Toàn Bân, viên ngoại lang bộ Công gần đây rất năng lui tới. Ngô Ứng Hùng cười khách sáo vừa nói: “Để ông phải đợi lâu” vừa mời vào trong.
“Thiếu phó,” hai người ngồi lại ở Háo Xuân hiên, Châu Toàn Bân lấy nắp chén gạt lá trà, cặp mắt ti hí hơi sưng, ông ta đi thẳng vào đề, chỉ một câu nói đã làm Ngô Ứng Hùng run rẩy cả người: “Ngài có biết không? Chu Tam thái tử đã đi tới chỗ lệnh tôn đại nhân ở Ngũ Hoa sơn Vân Nam, chắc chắn bài bản làm ở đó còn huyên náo hơn cả việc đi thị sát tế giao lần này!”
“Tôi không hiểu ý túc hạ muốn nói gì.” Ngô Ứng Hùng làm con tin ở kinh sư hơn hai mươi năm rồi, rất biết thuật che dấu ý nghĩ thật tình, trong lòng tuy kinh sợ, nhưng nét mặt vẫn lạnh như tiền, “Việc này tôi không biết, và cũng không tin. Nếu quả có thật thì tôi nghĩ vị Tam thái tử hành tung đáng nghi này cũng sẽ lên núi dễ mà xuống núi khó! Túc hạ vốn là cháu nhà Châu Quý phi của Hoàng thượng Sùng Trinh nhà Minh trước, tôi không hiểu ngài đến nói với tôi việc này để làm gì, không muốn nghe, cũng không dám nghe. Nếu túc hạ không ngại vất vả từ lầu trống tây đến để nói mấy lời này, thì tốt nhất là trở về nghỉ cho khỏe!” Anh nói một hơi dài, đến đây mới ngừng lại, hút một hơi thuốc, qua làn khói dày đặc nhìn xem phản ứng của Châu Toàn Bân.
Châu Toàn Bân cũng đang quan sát phản ứng của Ngô Ứng Hùng: Cái anh chàng thấp lùn xấu tướng, người béo to phục phịch, mắt to lông mày mảnh, môi dày, mới nhìn rất trung hậu mộc mạc, không ngờ lại khác hẳn thói quen chậm chạp thường ngày, trở nên thẳng thắn dựng lên “bức tường” chắn làm hắn vấp phải dội ngược lại. Châu Toàn Bân hơi sựng lại, rồi nói lạnh nhạt: “Không dám nghe có thể là đúng, còn không muốn nghe thì... Thế tử điện hạ từ sau khi động đất, vì sao ngày nào cũng một người một ngựa phi nhanh đi Vân Nam? Đáng tiếc, phải mất mấy ngày mới có ý kiến trả lời của Bình Tây vương. Hai nhà chúng ta đều là cựu thần tiền Minh, ngày thường vẫn có tình giao hảo xưa, ngại gì không nghe hết ý kiến của tôi?”
Ngô Ứng Hùng vừa nghe vừa chăm chú gảy vết dầu dính trên dọc tẩu, nói khoan thai: “Động đất ở Bắc Kinh, tôi sợ Vân Nam cũng có chấn động, viết thư về báo gia phụ, thì có gì lạ?”
“Núi đồng ngả về tây, thì chuông phía đông cũng bị...” Châu Toàn Bân chồm người tới trước, nói: “Té ra Thế tử cũng lo lắng sợ Vân Nam động đất? Điều này nghĩ giống triều đình rồi. Nếu không Vạn Tuế hà tất phải đưa quân lính bộ sậu thân hành đến Ngũ Đài sơn cầu phúc?”
“Ngũ Đài sơn?” Ngô Ứng Hùng chớp đôi lông mày, trong khoảnh khắc mới thấy được nỗi lòng bề bộn ngổn ngang của anh, nhưng chỉ trong khoảnh khắc, anh lập tức trở lại thái độ bình thường. “Ngũ Đài sơn vốn là nơi thánh địa của Phật tổ. Đi đến đó đủ thấy tấm lòng lo dân của Thái hoàng Thái hậu và Hoàng thượng.” Châu Toàn Bân vội tiếp lời: “Đâu chỉ là lo dân, mà còn lo nước nữa! Động đất đến từ tây nam, trời biến động cảnh báo, Vương Phụ Thần phía tây, nhà họ Cảnh, họ Thượng phía nam đều tới, chỉ riêng Lệnh tôn phía tây nam không tới! Ngô thế tử xem cả thiên hạ, lẽ nào không thấy Thánh thượng đi lần này có tính xa, mưu sâu?” vừa nói vừa nhìn Ngô Ứng Hùng. Ngô Ứng Hừng cười mỉa mai hỏi: “Ngài mới là người nhìn cả thiên hạ! Không biết nhặt từ đâu mấy câu chuyện đùa này?”
“Một là an ủi nỗi lòng người Bắc Kinh.” Châu Toàn Bân không để ý mấy câu nói móc hông của Ngô Ứng Hùng. “Hai là đi phía tây thị sát tình hình dân và quan lại. Đường phía tây là con đường Bình Tây vương lấy Tam Tần, tiến về kinh sư! Xem ra cách bước sau triệt phiên không còn xa nữa!”
Ngô Ứng Hùng đầu tiên ngẩn ra, rồi bật cười khanh khách, chỉ vào Châu Toàn Bân nói: “Ngài nói cái gì vậy? Triệt phiên hay không triệt phiên là việc của triều đình, gia phụ lấy Tam Tần làm gì? Gia Tổ, gia phụ vì nhà Minh trước đã giữ Bắc đại môn mấy mươi năm, đến khi thậm cấp chí nguy mới phong cho gia phụ tước Bình Tây bá, sau khi quy thuận Thiên triều, mới được tước Vương! Ngài biết được là nhà họ Ngô tôi với họ Châu ngài giống nhau sao?”
“Ớt đỏ thì đáng tiền, còn người đỏ thì nguy hiểm.” Bữa nay Châu Toàn Bân quyết tâm mở cánh cửa Ngô Ứng Hùng cho Chu Tam thái tử, nên không chịu nhượng bộ, “Thế tử mới vừa nói là đúng. Bình Tây bá đã là “Vương” rồi, chẳng phải là người số cực đỏ chăng?”
“Nói tầm bậy!”
“Tầm bậy hả?” Châu Toàn Bân đứng lên, chụp cái mũ vỏ dưa lên đầu, cười khanh khách, “Ngô lão bá hổ cứ Vân Nam, binh quyền to, ngồi điện bạc, còn chưa thỏa mãn, vẫn còn giấu triều đình luyện sắt, nấu muối, đúc đồng làm tiền, tự trưng thu lương thực, tự chọn quan, kháng lệnh không vào triều, đó mới là tầm bậy!” Nói xong vòng tay chào định bước đi.
“Cần gì phải vội vàng!” Ngô Ứng Hùng vội đứng lên kéo lại, cười nói: “Hãy nói xong đã.”
“Cũng được.” Châu Toàn Bân thấy anh ta nhũn lại, bất giác có hơi đắc ý, “Hoàng thượng tuổi tuy nhỏ, nhưng quyết đoán lanh lợi, thông minh mưu trí ngài đã biết rồi đó, làm sao chịu để cho lệnh tôn cứ làm như vậy mãi? Chuyến đi về tây này của Hoàng thượng chỉ có hại mà không có chút lợi nào đối với Bình Tây vương, mong Bình Tây vương, Ngô thế huynh cố lo cho mình, xin lỗi không dám nói nhiều!” Nói xong ngẩng đầu ngâm to mấy câu:
Không tranh thói phồn hoa
Mấy cành khoe sắc thắm
Nụ lạnh muộn càng thơm
Khen người trải gió sương.
“Ngô công, Ngài có biết bài thơ này ai viết cho ai không?” Ngô Ứng Hùng ngạc nhiên nói: “Chỉ biết là Thánh thượng làm, còn viết cho ai thì không rõ.”
“Cam Văn Côn!” Châu Toàn Bân cũng không quay đầu, nói to: “Tổng đốc Vân Quý Cam Vân Côn!” Nói xong nghênh ngang bỏ đi. Ngô Ứng Hùng chắp tay sau lưng đứng trên bậc thềm mỉm cười nói: “Không tiễn.” Trong bụng thầm nghĩ: “Ông chủ nhỏ của ngươi còn lắm trò chưa giở ra đấy, đồ lưu manh, ngươi đợi mà xem!”

