Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 06
6
Thái tử Chu Tam thăm thú cung Ngũ Hoa
Hoàng đế Khang Hy vi hành núi Thái Hàng
Tức khắc, một trung niên trạc ba mươi tuổi dẫn theo bốn tùy tùng rất hào hứng, cười hì hì bước vào Liệt Thúy hiên. Ông cầm chiếc quạt xếp lớn, vòng tay chào, nói với Ngô Tam Quế đang ngồi ở giữa: “Cựu chủ nhân Ngũ Hoa sơn đến bái gặp Bình Tây bá!”
Không ai nói gì. Ngô Tam Quế chỉ liếc mắt nhìn vị công tử giàu có và nhanh nhảu bước vào, làm như không có chuyện gì, bưng chén trà lên hớp một ngụm. Người khách lúng túng cười, chọn một cái ghế gần bên, vén vạt sau, nâng vạt trước chiếc áo dài, ngồi chễm chệ, nhìn Ngô Tam Quế không chút yếu thế.
“Anh rất tùy tiện. Anh biết đây là đâu không?” Hồi lâu, Ngô Tam Quế mới nói dằn từng tiếng. “Anh là tiên núi nào đến Ngũ Hoa sơn của ta du lãm?”
“Ta vừa vào cửa đã thông báo rồi! Được thôi, xin nói lại lần nữa vậy.” Người khách rẹt một cái, mở tung chiếc quạt xếp, lại rẹt một cái xếp quạt lại, cười nói: “Kẻ bất tài tên thật là Chu Từ Quýnh, biệt danh Dương Khởi Long, long mạch phái đích của Hoàng đế Hồng Vũ nhà Đại Minh, Thái tử thứ ba của Hoàng đế Sùng Trinh – đất này Ngũ Hoa sơn là đất cũ của bản gia, đã không có khế ước chuyển nhượng, lại không có giấy tờ mua bán, trở thành của họ Ngô từ bao giờ, xin được thỉnh giáo!”
“Nhà ngươi quả to gan!” Thượng Chi Tín nheo mắt nhìn, nói xen vào, “Quả là lừa người, treo đầu dê bán thịt chó!” Hắn vừa nói xong, thư phòng liền nổ ra một tràng cười.
“Ngươi là Thượng Chi Tín hả.” Dương Khởi Long nói to, “Cha ngươi Thượng Khả Hỷ chẳng qua chỉ xuất thân là một phó tướng, nô tài hạng ba của nhà vua còn cao quý hơn ngươi!”
“Cao quý?” Thượng Chi Tín cười nhạt, với lên bàn lấy tờ danh thiếp đưa vào ban nãy xé tan tành, nói một cách khinh miệt, “Trên đời có hạng người không thông văn lý mà lại xưng “cao quý”, quả là trước nay chưa từng có!”
Dương Khởi Long bụm miệng cười, nói: “Tuy mới lần đầu gặp ngươi, Thượng Chi Tín, nhưng “học thức” của ngươi ta đã nghe danh – Xin hỏi, ngươi làm sao biết ta không thông văn lý?”
Thượng Chi Tín nói, bộ dạng quái gở: “Lấy ngay tấm danh thiếp này mà nói, chẳng có một chữ nào đúng đắn – theo mi nói mi thuộc dòng dõi con trời quý tộc, Bình Tây vương từng nhận tước bá tiền Minh, về nghĩa, thuộc quan hệ vua tôi, xin hỏi chữ “niên” trong danh thiếp do đâu mà có? Hả?” Thượng Chi Tín cười nhạt, rồi chỉ chữ “quyến” hỏi, “lại nói chữ “quyến” – mi họ Chu, ông ta họ Ngô, làm gì có quan hệ bà con dây mơ rễ má? Hai chữ “đồng học” cũng làm người ta buồn cười.” Thượng Chi Tín không nín được, cười ha hả, “Bình Tây vương nhà lính xuất thân, túc hạ nhờ dòng dõi âm đức tổ tông, làm sao “đồng học” được? Còn chữ “em” càng bậy bạ. Bình Tây vương tuổi hơn sáu chục, túc hạ chưa đến ba mươi, nếu mà xưng con, xưng cháu...” Nói tới đây, cả nhà Liệt Thúy hiên rộ lên những tràng cười vang dội.
Dương Khởi Long trừng mắt nhìn Thượng Chi Tín, theo học lực kiến thức của hắn, phê bác Thượng Chi Tín không phải chuyện khó, nhưng hắn không muốn làm như vậy, hắn cần phải ra sức suy nghĩ thêm về con người này, vì sao khác biệt ghê gớm với tin tình báo mà hắn nhận được. Dương Khởi Long nhanh chóng trở lại phong độ của mình, hắn lạnh lùng cười nói: “Các ngươi chỉ biết tỉa tót từng chữ, nhưng không biết biến hóa theo tùy lúc! Ta lấy vua làm tôi, lấy lớn theo nhỏ, hạ thấp tôn quý miễn cưỡng theo thói tục, trong đó có điều kỳ diệu làm sao các ngươi hiểu được!”
Ngô Tam Quế nghe tới đây, cười khanh khách, nói: “Bất kể ngươi là người thế nào, đã tới đây rồi, thì xin ngồi qua bên này nói chuyện!”
Dương Khởi Long không nói cũng không dời chỗ ngồi, chỉ nhẹ nhàng phủi bụi trên vạt áo, giơ chân lên, người hơi ngửa về sau. Phong độ ung dung bất cần đó quả có khí thế con rồng cháu phượng.
Lưu Huyền Sơ ngồi đối diện hơi chếch, không ngừng liếc nhìn người khách không mời, nhớ lại những điều lan truyền trong dân gian về “Thái tử Chu Tam”. Có người nói khi Sùng Trinh lâm nguy, đã lần lượt giết các hoàng tử, công chúa trong cung, có người nói, bà vú ôm Tam thái tử trốn ra khỏi Tử Cấm thành, cũng có người nói bà vú đánh tráo, giấu được binh Thanh đuổi theo, nhưng phải bỏ đi đứa con ruột thịt của mình... Đối với việc Dương Khởi Long bỗng nhiên xuất hiện, ông cảm thấy hơi bất ngờ. Ông không sợ khách đến là Thái tử Chu Tam thật, mà sợ Tổng đốc Vân Nam, Biện Tam Nguyên giở cái trò quỷ, sai người đến nghe ngóng. Suy nghĩ rất lâu, Lưu Huyền Sơ mới thừa cơ xen vào một câu hỏi: “Ngài là thái tử tiền Minh, vậy có gì làm bằng chứng?”
Dương Khởi Long cười, đưa ra chiếc quạt xếp trong tay, mở ra xem mới phát hiện là chiếc quạt làm bằng xương. Quạt này vốn là vũ khí, trên quạt có một câu thơ:
Nước sông xanh, trên sông người nào thổi sáo ngọc? Thuyền con xa đưa khách tiêu tương. Hoa lau ngàn dặm sương trắng dưới trăng, dáng vẻ đau thương, triều Minh cách trở quan san.
Ngô Tam Quế đã thấy rất nhiều bút tích của Sùng Trinh, nên vừa ngó qua đã biết là thứ thiệt. Những vật này trong phủ ông lưu giữ rất nhiều, vì sợ gây nên tâm trạng bất an nên nhiều năm không động tới. Nhìn ngắm rất lâu, Tam Quế xếp quạt trả lại cho Dương Khởi Long nheo mắt quỷ quyệt cười nói: “Lời này đã không có đầu đề, cũng không đề năm tháng, lại viết trên những vật có sẵn của người trước, cho là ngự bút của Tiên hoàng, cũng không đủ làm bằng chứng – Ta ở đây có đến nửa hòm loại vật như thế này!”
“Tôi đoán ngài cũng khó tin.” Dương Khởi Long cẩn thận rút trong túi ra một tờ trát mặt lụa màu vàng bìa cứng chữ vàng, hai tay dâng lên đặt trên bàn, dùng tay lau qua mới đưa cho Ngô Tam Quế: “Bình Tây bá nên xem cái này.”
“Ngọc điệp!” Mắt Ngô Tam Quế bỗng sáng lên, vội đưa hai tay ra đỡ, xem xét tỉ mỉ, trên có viết: Chu Từ Quýnh, mẹ ruột là Cầm phi, sinh vào giờ Ngọ, ngày Nhâm Tý tháng ba năm Sùng Trinh thứ mười bốn tại cung Trữ Tú. Bà đỡ: Lưu Vương Thị, thái giám chấp sự: Lý Tằng Vân, Quách An có mặt hiện trường. Giao đông xưởng, Cẩm y vệ và Cầm phi mỗi người giữ một bản, lưu hồ sơ theo quy định.
Phía dưới đóng ngọc tỷ của Sùng Trinh “hưu mệnh đồng thiên” – tuy cách đã ba mươi năm nhưng màu son vẫn tươi đỏ mới nguyên. Bây giờ không còn gì nghi ngờ, khách đích xác là thái tử Chu Tam!
Tay Ngô Tam Quế hơi run, đầu cũng hơi choáng váng, sững sờ trả ngọc điệp cho Thái tử Chu Tam, rồi bỗng đổi sắc mặt, nói: “Con cháu tiên hoàng đều đã về trời, con cháu họ Chu đã chết hết, di vật tiên hoàng rơi vào tay những người họ khác, cũng là chuyện thường tình.”
“Ha ha ha ha!” Dương Khởi Long ban đầu ngẩn ra, sau đó phá lên cười to, “Bình Tây bá, kiến thức hạn hẹp quá! Nhà họ Chu ta đâu có bị chém chết hết! Từ tiên Thái tổ là Hoàng đế Hồng Vũ lên ngôi đến nay đã truyền mười bảy vị, người được phong làm vương khắp các quận thành danh tiếng trong thiên hạ, hai trăm năm nay sinh con đẻ cháu không biết bao nhiêu mà kể! Chỉ riêng một phủ Nam Dương, phủ đệ cũ của Đường vương, con cháu họ Chu đã có hơn mười lăm ngàn người. Ngài nói con cháu tiên hoàng đã chết hết, Chu mỗ tôi lại đang ở trước mặt!” Nói xong thở dài, rồi tiếp, “Trên đời điếc nhất là người giả điếc, câm nhất là người giả câm, ngốc nhất là người giả vờ ngốc. – Tôi nếu không thấy ngài Bình Tây bá đang gặp nguy hiểm thì đâu chịu đem tấm thân ngàn vàng đi vào nơi bất trắc của ngài!” Thái tử Chu Tam coi như chung quanh không người, lời tuôn ra như nước chảy thao thao bất tuyệt. Trên có Cảnh Tinh Trung, Thượng Chi Tín, dưới có Hồ Quốc Trụ, Hạ Quốc Tướng, mấy người đều biến sắc, chỉ riêng Lưu Huyền Sơ vẫn ngồi vững vàng, tỉnh bơ.
“Vậy sao?” Ngô Tam Quế làm như không hiểu, nhìn ra tả hữu, nói, “Ngô Mỗ ta nay đang là một vị vương, có quân đông, ngồi trấn lớn, là bức bình phong tây nam của triều đình. Hoàng Thượng đối với ta nghĩa tình như cốt nhục, công danh hiển hách, tước vị tôn quý, còn có tâm sự khó khăn gì mà phải giả câm giả điếc, giả vờ ngu dại ngốc nghếch?”
“Ôi, thật đáng để cho người ta hâm mộ!” Thái tử Chu Tam nói giọng móc hông, bĩu môi cười nói, “Chức đã cực cao, tước đã cực quý, triều đình có ơn không chỗ gia thêm, mới khắc hai chữ “tam phiên” lên cột, tối sớm niệm chú, mới đưa một Ngô Ứng Hùng túc trí đa mưu cung dưỡng trong cửa Huyền Võ! Mấy người các vị tụ hội ở đây là để bàn thảo làm sao báo đáp triều đình Thanh đấy chứ!”
“Cả gan!” Ngô Tam Quế đùng đùng nổi giận, đập bàn một cái thật mạnh, bút nghiên chén đĩa nhảy lên rõ cao, “Chưa nói nhà người chưa chắc đã thật, cho dù đúng thật là Thái tử Chu Tam, thì làm sao nào? Ta hiện nay đường đường là Bình Tây vương nhà Đại Thanh! Từ xưa, trời không có hai mặt trời, dân không có hai chủ, một nước hưng, một nước vong, có vua thánh hiền thay thế, đó là đạo lý trời đất không có gì nghi ngờ! Cho dù Hoàng đế Sùng Trinh đến đây, chẳng qua chỉ là tiểu dân dưới quyền cai trị của ta – phạm thượng làm loạn, phỉ báng đương kim Hoàng đế, tội không thể tha. Bay đâu!”
“Dạ có!” bọn thị vệ xông lên hô vang như sấm rền, “Xin đợi lệnh Vương gia!”
“Bắt lấy nó!”
Tình hình bỗng chốc trở nên nguy cấp, Thái tử Chu Tam bị Bảo Trụ ngồi bên nhẹ nhàng tóm lấy, thuận tay ném một cái ngã nhào vào hai tên thị vệ, hai tay bị trói ngoặt ra sau lưng. Bốn tên tùy tùng của Thái tử Chu Tam thấy chủ bị bắt, kêu lên một tiếng rút dao xông lên áp sát Ngô Tam Quế, bị Hoàng Phủ Bảo Trụ đứng đằng trước lấy kiếm chặn lại. Mười mấy tên thị vệ, có người đỡ Lưu Huyền Sơ, có người bảo vệ Cảnh Tinh Trung, Thượng Chi Tín, có người rút dao chặn đánh, trong khoảnh khắc, Liệt Thúy hiên đao kiếm chạm nhau loang loáng.
Nhưng cuộc chiến nhanh chóng phân rõ. Mấy người Thái tử Chu Tam dẫn theo tuy võ nghệ cao cường, nhưng lính cận vệ của Ngô Tam Quế cũng vô cùng dũng mãnh, cuối cùng do nhiều ít quá chênh nhau, họ bị đánh bật ra ngoài Liệt Thúy hiên. Ngô Tam Quế, Cảnh Tinh Trung và Thượng Chi Tín được Bảo Trụ hộ vệ ung dung ngồi trước hiên xem đấu.
Hạ Quốc Tướng thấy bốn tùy tùng của Thái tử Chu Tam bị mười mấy người vây đánh đang ráng sức liều chết, bèn bước tới trước Thái tử Chu Tam nói: “Bảo chúng dừng tay, nếu không, một dao đi đời nhà ngươi!”
Thái tử Chu Tam tuy bị trói, nhưng nét mặt vẫn cao ngạo, trong lúc dao kề cận cổ cũng chỉ cười nhạt nói: “Chết là bổn phận của đại trượng phu! Làm cái kiểu xấu xa đó để làm gì!” Nói xong kêu to: “Thượng Hiền, các ngươi đi đi, chẳng có gì đáng lo đâu!” Lời vừa dứt, người có tên Thượng Hiền chắp hai tay, nói to: “Thiếu chủ, chú ý giữ gìn, chúng tôi xin đi, Ngô Tam Quế, ông dám động chủ ta một sợi lông, ta lập tức biến Ngũ Hoa sơn của ông thành biển lửa!” Nói xong bốn người nhún người nhảy phóc ra khỏi rừng đao kiếm, xung khỏi trùng vây. Hoàng Phủ Bảo Trụ hét to một tiếng: “Đánh thắng ta rồi hãy đi!” Nói xong rút kiếm định nhảy xuống thềm quyết đấu, nhưng bị Lưu Huyền Sơ ngồi bên ngăn lại, nói hổn hển: “Tướng quân, ông không biết sự việc bên trong, ông bảo vệ Vương gia là được rồi.”
“Bây giờ ngài còn nói gì nữa?” Ngô Tam Quế thấy bốn tên tùy tùng ung dung xuống núi, cũng không cho lệnh truy đuổi, quay mặt nói với Thái tử Chu Tam, “Còn dám vô lễ không?”
Thái tử Chu Tam không quay mặt lại, mỉm cười ngâm rằng:
Cây già rễ cuộn chiếm lòng khe, ngàn trước đen sì sương phủ che.
Một sớm cầm rìu tự phát dọn, cành đâu quạ trú lúc quay về?
Ngâm xong liền nói: “Ý trời ta biết, ý ta người biết, chỉ vậy mà thôi, đâu có việc gì khác?”
“Dẫn đi!” Ngô Tam Quế ra lệnh, mặt lạnh như tiền.
“Lão bá,” Cảnh Tinh Trung nhìn theo bóng Thái tử Chu Tam đi xa dần, nói: “Con người này không dễ xử đâu, để lại trên Ngũ Hoa sơn không ích gì, còn giết đi hay thả ra đều làm triều đình nghi ngờ.”
“Tôi thấy giết thì tốt.” Hồ Quốc Trụ nói, “Cái chết không có chứng cứ, triều đình không vì một việc nhỏ này mà trở mặt với Vương gia.” Thượng Chi Tín cười lộ cả hàm răng: “Phải giữ cho kỹ, đừng để hắn trốn mất.”
“Lưu Huyền Sơ tiên sinh thấy thế nào?” Ngô Tam Quế hơi mỉm cười quay hỏi Lưu Huyền Sơ.
“Vương gia đã có ý định sẵn,” Lưu Huyền Sơ nói, “thì cần gì phải hỏi nữa?”
“Hả?”
“Vương gia ra một chiêu “bắt, tha Tào” diễn cũng khá,” Lưu Huyền Sơ thấy không có người ngoài, vỗ tay cười nói, “ngay cả vị Thái tử Chu Tam này cũng không nhận ra, còn anh Hồ Nhân thì thực thà bịt tai đánh trống!”
Ngô Tam Quế bất giác thấy nặng nề, tâm tư của mình bị một tay bệnh hoạn nhìn thấy rõ ràng, không thể không khâm phục óc xét đoán của ông ta. Ông bật lửa, kéo rột roạt mấy hơi thuốc, nhả khói ra nói: “Lưu tiên sinh quả là tri kỷ, nhân có tên họ Chu ở đây, mấy người có thể làm bạn với hắn, nhị vị hiền điệt cũng có thể nói chuyện với hắn.”
“Cái gì? Nhân hắn ở đây?” Bảo Trụ như rơi vào chín tầng mây, kinh ngạc hỏi: “Hắn có thể trốn khỏi Ngũ Hoa sơn của chúng ta?”
“Sau ba ngày sẽ thả hắn!” Ngô Tam Quế cười nói, “Xin mời Hồ tiên sinh làm việc này – nhưng phải làm cho thật đẹp, làm cho người của chúng ta cũng tưởng hắn bệnh chết là tốt nhất.”
“Vừa rồi tai mắt nhiều quá, nên chỉ có thể làm như vậy.” Lưu Huyền Sơ thấy Hoàng Phủ Bảo Trụ và Hồ Quốc Trụ vẫn tỏ ra mù tịt, bèn cười nói nhẹ nhàng, “Có gì khó hiểu đâu! Người này sống có tác dụng hơn là chết, thả ra hay hơn là nhốt...” Ngô Tam Quế cười to nói tiếp: “Để cho hắn tới Bắc Kinh gây sự, đem rủi ro tới cho Khang Hy. Xem nhà vua có còn chú ý chuyện triệt phiên?”
Ngô Tam Quế nghiến răng ngẩng đầu, ánh trời chiếu lên Ngũ Hoa sơn, tô lên một nét viền đỏ sẫm trên ngọn cây, nóc nhà, đỉnh núi. Yên lặng rất lâu, ông mới nói rít qua kẽ răng mấy tiếng: “Hãy đợi đấy!”
Chuyến đi “ve vàng lột xác” của Khang Hy sau khi đến chùa Đàm Chá, đã rời kinh được bảy ngày, đó là lần thị sát đầu tiên của Khang Hy từ khi điều hành triều chính. Bà cháu, con dâu, thêm một người tu hành Tô Ma Lạt Cô ngồi hai chiếc xe nhẹ, có Ngụy Đông Đình, Lang Thẩm dẫn theo hai nhăm, hai sáu tên thị vệ đều mặc thường phục cưỡi ngựa màu đen, mũ nhỏ, rất giống kiểu gia quyến phủ vương công trong kinh ra ngoại thành dâng hương lễ Phật. Hai đại thị vệ Mục Tử Húc và Lừa bướng chỉ đưa họ đến chùa Đàm Chá “tế giao” thôi, rồi huênh huênh hoang hoang bảo vệ loan giá không người trở về đại nội, cũng là rất nghiêm ngặt.
Sau khi rời kinh, Khang Hy sai Ngụy Đông Đình đi tiền trạm, hàng ngày, việc ăn ở nhà khách đều chuẩn bị trước, buổi tối tới là nghỉ chân. Khang Hy tự cưỡi một con ngựa hoa đen, ăn mặc như một công tử nhỏ, đi từ từ sau xa giá Thái hoàng Thái hậu. Cũng may có Ngụy Đông Đình không ngại vất vả, sau khi đặt trước việc ăn ở liền trở lại đón cả đoàn cùng đi, mọi việc ăn ở, cung ứng, bố phòng, bảo vệ đều được sắp xếp đường hoàng ngăn nắp. Cho nên ngay cả Thái hoàng Thái hậu cũng không thấy mệt khổ suốt chặng hành trình.
Thời tiết đang mùa xuân sớm, xa giá vào đến vùng Thái Hàng, liền thấy lạnh rét thấu xương. Khang Hy ngồi trên ngựa, tay vén rèm che nhìn tới trước, một con đường xe đi quanh co uốn lượn vươn tới nơi xa tít tắp, ngựa ngự ngày nào cũng được uống nước có trứng gà, nhưng bước đi ngày một trơn, mũi thở ra khói trắng. Tuyết dồn lại hai bên đường đi trắng xóa, từng bụi, từng lùm cây gai, sơn trà, cây dẻ, hạnh hoang, anh đào hoang vẫn đứng trơ trơ như sương khói mông lung trên triền núi tuyết. Hoa tuyết vụn nát như bụi khói bay theo gió lơ lửng dưới chân ngựa. Thấy đoàn ngựa xe tiến lên chậm chạp, Khang Hy và các thị vệ đều xuống ngựa, dắt cương đẩy xe tiến lên từng bước. Bỗng chiếc xe phía trước dừng lại. Thái hoàng Thái hậu vén màn nhô đầu ra hỏi: “Hoàng đế, khí trời rất lạnh, đã thấy mệt rồi chứ? Lên xe ngồi với bà đi.”
Khang Hy mặt bị lạnh đỏ ửng, một tay cầm roi, một tay để trước miệng hà hơi cho ấm, nghe Thái hoàng Thái hậu hỏi mình liền phấn khởi cười nói: “Bà cứ ngồi, cháu không lạnh cũng không mệt. Nhìn thấy sắp có tuyết rơi, cháu muốn xem xem cảnh sắc “tuyết rơi quan ải ngựa không bước”!”
Thái hoàng Thái hậu ngước mặt nhìn trời, quả thật mây đen bốn phía, gió bắc nổi lên, nói vẻ lo lắng: “Chỉ sợ đi càng chậm hơn.” “Không sao”, Khang Hy cười nói, “tối nay không tới huyện Phồn Trĩ được, chúng ta sẽ nghỉ đêm ở một cái quán nhỏ đồn Sa Hà, Tiểu Ngụy đã sắp xếp chu đáo rồi.”
Không bao lâu, hoa tuyết rơi lả tả. Ban đầu chỉ như bụi phấn bay, càng về sau rơi càng mạnh. Chỉ thấy ngàn hoa bay lượn, quỳnh ngọc loạn xạ, thành cục thành hòn múa may trong gió. Người xưa nói: “Yến sơn hà tuyết to như chiếu”, ai không biết tuyết Thái Hàng sơn “vỡ vụn tung rơi”, mênh mang mù mịt, trời đất cả không gian như cuốn xoáy thành một mớ hỗn loạn. Mở mắt ra nhìn, núi tuyết mịt mù, cây càng mờ ảo, đường sá rối loạn, sông càng mênh mang. Chẳng trách một hiệp khách giang hồ như Lý Thanh Liên trước cảnh đó cũng thốt lên “rút kiếm nhìn quanh, lòng mờ mịt”. Khang Hy từ nhỏ sống trong cung cấm ra vào chỉ trong mấy tấc đất nội thành, làm gì thấy được cảnh tượng tráng lệ đẹp mắt thế này? Nhà vua sung sướng hoa chân múa tay, vừa lội tuyết tiến lên, vừa quay người hỏi Lang Thẩm: “Ngươi có còn nhớ bài thơ mùa đông năm ngoái ta cùng Ngũ tiên sinh ở nhà Sơn Cô Bạch Vân quan ngắm tuyết làm không?”
Lang Thẩm vội cười theo nói: “Bài thơ hay của chủ nhân, nô tài đâu dám quên!” Nói xong liền ngâm:
Sương ngưng tuyết rắc mịt mù, sáng ra màu trắng lấp đầy xóm thôn.
Sao không thổi điệu Trâu Dương, đẩy lùi giá lạnh trần gian được mùa.>
“Thật khổ cho ngươi nhớ được kỹ càng.” Khang Hy khen ngợi, “Lúc đó Ngao Bái chưa trừ được, có lòng nào mà nghĩ tới thơ, bài thơ này làm không có khí thế, cái gì “mịt mù”? Làm sao bì được một chút xíu so với cảnh tượng nơi này lúc này? Sau đó, Hàn lâm Lý Vân Thanh có làm một bài thơ họa lại, trong có nói “Hoa tuyết muốn cùng hoa mai rụng, ý xuân còn muốn kéo mùa đông”, lúc đó cảm thấy cao quý có phong cách hàn lâm, còn khen tán mấy câu. Bây giờ nhìn lại, chỉ là tiểu xảo thôi. Đáng tiếc tài năng Ngũ tiên sinh, ông mà đến được nơi này, không biết sẽ làm thơ hay như thế nào?” Lang Thẩm nghe xong vội nói: “Chủ nhân nói rất phải. Ngũ tiên sinh có phong cách sen xanh, chỉ tiếc phúc mệnh không tới, không được thường ở với chủ nhân.”
Đang nói thì Ngụy Đông Đình mình đầy tuyết, từ trên đường núi đi xuống, vừa làm lễ chào Khang Hy, vừa cười nói: “Chủ nhân phấn khởi quá, tuyết to như thế này vẫn không chịu lên xe – quán trọ phía trước đã xếp đặt ổn rồi, đêm nay nghỉ ở đồn Sa Hà, tiếc là mình đặt chậm một chút, trong quán đã có người, không thể đuổi họ đi.”
“May mà anh còn trở lại!” Lang Thẩm cười nói, “Đang cùng chủ nhân nói chuyện thơ, chủ nhân còn nhớ Ngũ tiên sinh đó!”
“Những lời vừa nói, nô tài có nghe thấy.” Ngụy Đông Đình cười nói, “Anh Lang, lời nói đó có lý, Hùng đại nhân cũng có nói với nô tài, Ngũ tiên sinh mà gặp thời chiến quốc, sắp xếp liên kết dọc ngang, cũng có thể đạt được ước vọng, nhưng nay trong thời thịnh trị, mà cậy tài khinh người thì không phải là kiểu cách vương thần.”
“Hả?” Khang Hy dừng bước, ngập ngừng một chút rồi bước tiếp, “Hùng Tứ Lý cũng nói vậy sao?” Ngụy Đông Đình, Lang Thẩm rất tình cảm với Ngũ Thứ Hữu, lúc nào cũng thăm dò ý của Khang Hy, nghe hỏi vậy không hiểu vua có ý gì, hai người nhìn nhau không dám trả lời. Khang Hy giẫm lên tuyết đọng kêu rạo rạo, ngẫm nghĩ rồi nói: “Lời này không đúng, phúc mệnh chỉ nói với người dân thường, vua với quan nắm quyền tạo hóa và cũng nói như vậy thì là không biết mệnh trời. Nếu Hoàng đế cũng nói với quần thần, người nào có phúc, người nào mệnh bạc, há chẳng oan ức những tài năng trong thiên hạ? Hùng Tứ Lý học vấn khá, không thể không biết điều này. Ông ta nói như vậy tất biết các khanh nói lại với ta, vẫn còn phải suy đoán! Cái sai của Ngũ tiên sinh là quá coi thường lý học, Hùng Tứ Lý làm sao biết ý sâu của ta khi cho Ngũ tiên sinh về quê! Buồn cười, một kẻ sĩ xuất sắc như Ngũ tiên sinh, Trẫm há không biết dùng sao?”
“Nô tài học cạn ít hiểu, đâu biết được Thánh minh sáng suốt!” Lang Thẩm trong bụng rất mừng, vội nói, “Ngay những người hiền tài như Hùng đại nhân, Sách đại nhân, cũng chưa chắc lĩnh hội hết ý tứ sâu xa của chủ nhân.” Ngụy Đông Đình sợ Lang Thẩm nói toẹt ra những điều đã nghe được, cũng vội nói: “Chúng nô tài thì biết cái gì, ý đồ mưu lược của chủ nhân sâu xa minh mẫn lắm!”
Khang Hy nghe bất giác cười thầm, thấy tuyết rơi càng lúc càng to, liền lấy tay vịn vai Ngụy Đông Đình, từng bước trèo lên núi.

