Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 07

7

Đồn Sa Hà bình phẩm trà Mã Chính

Đêm gió tuyết lòng lo nhớ dân lành

Chủ tớ ba người bám theo xa giá, đội mưa tuyết vừa đi vừa nói chuyện, mãi đến cuối giờ Thân mới tới đồn Sa Hà trên bờ sông Hô Đà. Cả người Khang Hy như bọc trong một lớp tuyết, cẩn thận giẫm trên mặt sông đã đóng băng như mặt kính, vừa hỏi Ngụy Đông Đình: “Đồn Sa Hà thuộc huyện nào?”

“Bẩm ông,” Ngụy Đông Đình thấy đã đi vào nơi dân cư thưa thớt, nói chuyện phải vô cùng cẩn thận, chỉ gọi Khang Hy một cách mơ hồ là “ông”, “thuộc địa phận Phồn Trĩ, huyện lệnh là Lưu Thanh Nguyên. Đồn Sa Hà này là thị trấn lớn số một của Phồn Trĩ, đêm nay chúng ta nghỉ tại quán cũ Đức Hưng, nhà ngang có mấy tên buôn ngựa ở, nhà chính để riêng cho chúng ta, ông cứ yên tâm.”

Lúc này đã là giờ Dậu, theo mọi ngày thì đã tối từ lâu rồi. Vì có tuyết, ánh tuyết phản chiếu, cửa nhà hai bên phố đều còn thấy mờ mờ. Phố lớn không một bóng người, cũng không ghe thấy tiếng chó sủa. Ngụy Đông Đình điều động xe cộ, giỡ hành lý, bố trí canh gác. Chủ quán nghe ồn ào đã xách đèn lồng cười hì hì ra đón, hỏi chào bằng giọng Ngũ Đài: “Tuyết to như thế này, các ông đi đường vất vả! Tôi cứ tưởng là nghỉ ở trạm ngoài rồi! Xin mời, chỉ là quán tôi nơi núi non hoang vắng, không bì được với Hoàng thành Bắc Kinh dưới chân thiên tử…” Chủ quán ân cần tới đón, hai tay mở rộng cửa quán, mời đoàn người vào trong, lên tiếng gọi to: “Nhà Thái! Các ông ấy tới rồi, mau mang nước nóng lên từng phòng!”

“Sao thế này,” Ngụy Đông Đình bỗng nhiên đứng lại hỏi, “nhà chính chúng tôi đã bao rồi, làm sao có khách vào đây?”

“Chà!” Chủ quán giậm chân than rằng, “Bọn họ mới vừa tới cách đây một canh giờ, các quán trong đồn Sa Hà đều chật người – một đạo sĩ, một người bán sách – tuyết to thế này, người nào cũng đông cóng như đầu củ cải, nên tôi đánh bạo xếp cho họ. Tốt là các ông chỉ có hơn hai mươi người, trong đó trên dưới có hơn ba mươi phòng!” Ngụy Đông Đình nghe nói, sa sầm sắc mặt, không đợi hắn nói hết đã ngắt lời: “Đồ xỏ lá! Ngay cả Văn Thù Bồ Tát thì ông cũng không được xếp họ vào!” Khang Hy nghe thế vội nói: “Tiểu Ngụy, thôi đi, trước sau chỉ một đêm, nhịn họ một tí đi, sáng sớm mai chúng ta đi rồi.” Ngụy Đông Đình thấy trưởng quầy mặt mày hớn hở, bất giác nổi cơn giận dữ, nhưng không dám trái ý Khang Hy, bèn nói: “Ông chủ nói phải, nhưng tiền đặt cọc đã đưa cho ông ta năm mươi lượng, nghỉ một đêm đưa thêm năm mươi lượng, ông mở tiệm nửa năm có được số bạc đó không? Chúng ta từ Bắc Kinh suốt đường tới đây chưa gặp người nào cả gan tham lam như ngươi!” Chủ quán bị anh mắng cho một hồi ngượng ngùng dạ dạ liên tiếp nhận tội: “Nhưng việc đã thế này, cũng không thể đuổi người ta, đều là người dâng hương cúng Phật cả, chỗ nào giúp được nhau thì nên giúp thôi.” Vừa nói vừa cười gượng.

“Quán thiên hạ, thì người thiên hạ được ở!” Phòng phía tây nghe kít một tiếng, cửa mở ra, một đạo sĩ trẻ tay cầm phất trần, lưng dắt một thanh kiếm bảy sao, rất tự nhiên phóng khoáng, vái chào kiểu đạo gia, nói, “Cư sĩ có tiền, thì có quyền gây nỗi bất bình! Nếu bây giờ bần đạo bỏ ra hai trăm lạng đuổi cư sĩ đi thì ngươi sẽ thế nào? Ngay cả anh học trò kia cũng do bần đạo kéo vào, không can dự gì đến chủ quán, cư sĩ muốn nói gì cứ nói thẳng với bần đạo!” Ngụy Đông Đình không thèm liếc nhìn đạo sĩ, nói lạnh lùng: “Tôi nói chuyện với chủ quán, anh chõ mồm vào làm gì?”

“Ngươi im ngay!” Khang Hy thấy Ngụy Đông Đình còn dông dài có vẻ như kiếm chuyện gây không biết tới đâu, vội quát, nói: “Vị đạo trưởng này nói có lý, còn chưa lui ra!” Ngụy Đông Đình nghe không nói gì, im lặng lui ra một bên đứng xuôi tay. Khang Hy nhìn kỹ đạo sĩ, nhiều lắm không quá hai mươi tuổi, mày ngài thanh tú, mặt trắng như ngọc, chỉ phía trên chân mày hơi có tí hoang dã, bỗng tim giật thót một cái: “Đạo sĩ này nếu mặc trang phục nữ thì cũng là giai nhân một thời, chỉ có tâm tính hơi thô cục một chút…”, miệng nở một nụ cười nói: Đạo trưởng, mấy chú này thì biết gì! Đạo trưởng cứ ở nguyên đó, ăn cơm tối xong xin mời cả anh bạn đó đến nói chuyện cho vui.” Đạo sĩ che miệng mỉm cười nói: “Vẫn là công tử có học hành, biết lễ nghĩa, xin gặp lại sau!” Nói xong trừng mắt nhìn Ngụy Đông Đình rồi trở về phòng phía tây. Ngụy Đông Đình tuy còn giận nhưng không dám nói gì. Chủ quán vội xen vào giải hòa: “Mọi người bốn phương tới đây, được gần nhau trong cái quán nhỏ này cũng là duyên số kiếp trước, chỉ trách quán nhỏ chật hẹp không tiếp đón chu tất...” Rồi dẫn đám Khang Hy lên phòng. “Mời bà cụ và vị tiểu thư này (chỉ nàng Tô) nghỉ tại nhà phía đông, công tử ở nhà phía tây, cần nước nôi gì cũng tiện. Tuyết to như thế này, ngày mai chưa chắc đi được, thì cứ ở thêm mấy ngày, tôi xin tự mình hầu hạ bà cụ, bảo đảm nghỉ ngơi tốt...” Nói xong vội vàng mở cửa, còn sắp xếp hành lý, còn thêm dầu vào đèn, thêm than vào lò, bưng nước nóng lên phòng sau cho bà cụ, lại sai người nhà hơ phơi áo giày ướt của Khang Hy. Người Sơn Tây nhu mì cẩn thận không đâu bằng, ngay cả còn tức bực như Ngụy Đông Đình cũng phải tươi cười lên, nói: “Anh chàng này mà làm sai dịch ở Tử Cấm thành, thì ngay cả Hoàng thượng cũng bị anh trêu chứ chẳng chơi!”

Khang Hy ăn một bát vằn thắn thịt dê nóng hôi hổi, bỗng cảm thấy khí lạnh trong người tiêu sạch sành sanh, mà trở lại ấm áp, không còn chút mỏi nệt. Bản thân là chúa tể thiên hạ, bình sinh chưa hề nếm trải mùi vị này, bèn lệnh cho Lang Thẩm lấy năm lạng bạc thưởng cho trưởng quầy. Một chốc, chủ quán đi vào cười hì hì tạ ơn, vái chào, xoa tay vào tạp dề cười nói: “Tạ ơn đức Công tử thưởng cho, vừa rồi bà cụ cũng thưởng cho năm lạng, nói là trước nay chưa bao giờ thoải mái như vậy. Các bà không ăn tanh, chỉ dùng tí bánh vỏ đậu phụ nhân nấm, với rượu ngọt. Đức Công tử bên này tiểu nhân nghĩ rằng một ngày lạnh lẽo, nên dùng rượu nặng hơn một chút, không ngờ cũng đúng ý công tử...” Rõ ràng là từ khi mở quán đến giờ ông ta chưa từng gặp những khách hàng nào hào phóng như thế này, cùng một lúc cho cả hai suất thưởng.

Ông ta còn huyên thuyên dông dài, bỗng thấy vị đạo sĩ kéo thêm một thư sinh đứng tuổi khoảng bốn mươi bước vào. Khang Hy vội nhảy xuống sạp, vừa cười nói: “Đêm dài nằm không đang muốn chuyện trò, cả chủ quán cũng đừng đi, chúng ta cùng ngồi nói chuyện.” Chàng thư sinh tuy áo vải thắt lưng đen, nhưng đi đứng rất chững chạc, trong vẻ kín đáo có chút hiếu thắng, một mặt vái chào, một mặt tự xưng tên: “Tại hạ Phó Sơn, tự là Thanh Chủ, xin hỏi chủ nhân quý tính, tên hiệu là chi?” Ngụy Đông Đình liếc thấy vị đạo sĩ trẻ có võ công, lại là mấy người cùng ngồi với Khang Hy, nên không dám lơ là mảy may, ngầm lấy hết dũng khí, đứng sát Khang Hy rất tự nhiên.

“Không dám,” Khang Hy nét mặt tươi cười, vừa ngồi xuống vừa đáp: “Tại hạ họ Long, tự Đức Hải – các anh cũng đi dâng hương sao?”

“Đạo sĩ vân du tới đây. Còn tôi là người tỉnh này, đã đọc sách thánh hiền, thần phật đều không tin.” Phó Sơn nói, “Tôi và đạo nhân Vũ Lương trước đây không biết nhau, trời chiều, hết đường, lại gặp tuyết to, không ngờ lại được cùng công tử Long tình cờ gặp nhau tại đây.” Khang Hy nghe nói mỉm cười nói: “Tôi cũng giống như Phó tiên sinh, không tin thần phật, vì bà nội nhà thiên thời không tốt, nói là đã có tâm nguyện hứa cùng Bồ Tát Ngũ Đài sơn, nhất định phải tới dâng hương, nên phải gắng tuân theo từ mệnh.”

“Người này khẩu khí to tát quá!” Phó Sơn vừa nghe vừa chăm chú quan sát Khang Hy, thấy anh ăn mặc như bao người thành thị khác, nhưng từ tâm nguyện của lão thái thái lại nói tới chuyện “thiên thời” to tát này! Ông vươn người, hớp một ngụm trà hỏi: “Tôn phủ tại Bắc Kinh?” Ngụy Đông Đình thấy Phó Sơn nghi ngờ, vội bước tới rót thêm trà, cười nói: “Không, ở Thông Châu.” Đạo sĩ hoàn toàn không biết việc này, chỉ cúi đầu uống trà nghe chuyện. “Thông Châu?” Phó Sơn lắc đầu nói, “Nhà dòng dõi lớn ở Thông Châu chỉ có một nhà Châu Viên!”

Khang Hy bất thình lình không biết nói sao, vốn định khi từ Ngũ Đài sơn trở về mới tìm hiểu dân tình, ai ngờ, nhà vua không thích ứng những trường hợp này, lần đầu tiên tiếp xúc với người ngoài, mới mở miệng đã có sơ hở, không biết nên ứng phó cách nào.

Ngụy Đông Đình lại biết, Châu Viên là sản nghiệp nhà Châu Toàn Bân, việc đã như thế này nên phải bịa ra. Ngẫm nghĩ một lát, khe khẽ cười nói: “Nhà họ Long vốn ở Ngoại Mông, mùa thu năm ngoái mới dời về, bây giờ cả Châu Viên cũng chuyển cho nhà họ Long. Tiên sinh có nghe bài ca bá tánh Thông Châu hát không? “Mười cái vườn Châu xanh ngàn dặm, không bằng hoàng thổ một con rồng.” Từ Thông Châu về hướng đông bắc, chỉ cần là hoàng thổ, đều là nghiệp tổ họ Long.”

“Tiểu Ngụy, nói chuyện tầm phào ấy làm gì?” Khang Hy rất hài lòng câu chuyện bịa của Ngụy Đông Đình, không muốn tiếp tục đề tài này nữa, bèn quay mặt hỏi đạo sĩ Vũ Lương. “Đạo trưởng Vũ Lương nói giọng người Tần, ở Thiểm Tây tu đạo tại am nào?”

“Tôi à?” Vũ Lương đang ngẫm nghĩ, không ngờ Khang Hy bỗng hỏi tới mình, uống một hơi cạn chén trà, cười nói với Ngụy Đông Đình, “Xin cho một chén nữa – chúng ta nói thẳng không vòng vo – đang tu đạo ở núi Chung Nam, cũng đã vân du qua núi Nga Mi mấy năm.”

“Ôi, Nga Mi?” Khang Hy bỗng nhớ tới, hỏi ngay, “Có một thái y tên Hồ Cung Sơn, cũng có làm đạo sĩ núi Nga Mi, võ công khá lắm, người cũng ngay thẳng, không hiểu sao bỏ quan không làm, lại trở về núi...”

“Chẳng có gì lạ đâu.” Vũ Lương thản nhiên nói, “Có người cảm thấy làm quan tốt, nhưng cũng có người thích làm đạo sĩ, làm hòa thượng. Đệ tử của Thái Thượng Tam Thanh cũng đã có người làm thần đuổi quỷ; cũng có người luyện thủy ngân làm thuốc; lại chẳng có người bay qua bay lại trong phủ tướng, hoàng cung sao? – Hồ Cung Sơn ngài vừa nói là sư huynh của kẻ bất tài này – đã làm quan, cho dù là chỉ tuân lệnh Hoàng thượng, cho dù là làm một ông quan tốt, cũng chẳng qua cuối cùng có chút tiếng tốt, còn nếu làm như tri phủ Đại Đồng, đẽo xương hút tủy, nghiệt ngã với bá tánh, thì làm sao sạch sẽ bằng đạo sĩ tôi kiếm bát cơm thanh tịnh tự tại?”

Hồ Cung Sơn đã chữa bệnh cho Khang Hy tại điện Dưỡng Tâm, một động tác quỳ xuống đã làm rạn nứt sáu viên gạch xanh, đủ thấy võ công phi phàm. Người này đã là sư đệ của Hồ Cung Sơn, đương nhiên không phải là loại ăn không ngồi rồi, Khang Hy có lòng muốn kết bạn. Nhưng Khang Hy chỉ biết một mà không biết hai. Còn Ngụy Đông Đình thì trong lòng sáng tỏ, Hồ Cung Sơn không muốn làm quan là bởi, vừa không thèm phục vụ cho Ngô Tam Quế, lại vừa không muốn là bầy tôi hoàng đế tộc Mãn, trước khi đi còn cứu Tư Hách phạm tội, Ngụy Đông Đình tuy quan hệ riêng tư với Hồ Cung Sơn rất tốt, nhưng hiện giờ đối với Vũ Lương, một người lai lịch không rõ ràng, gặp tình cờ không hẹn trước, anh tỏ ra rất cảnh giác, liền hỏi: “Đạo trưởng cũng kể là những lời cao kiến. Có điều nghe ra thì ngài hình như cũng không thanh tịnh cho lắm, trời lạnh như thế này, bôn ba ngàn dặm, từ Thiểm Nam đến Tấn Bắc, làm sao sánh bằng cứ ở núi Chung Nam phiêu diêu tự tại, bạn cùng hương khói?”

“Cái đạo lý bên trong thì hạng phàm phu tục tử làm sao biết được.” Vũ Lương đốp chát không chút khách sáo. “Ngũ Đài Sơn, Phật gọi Thanh Lương, Đạo xưng Tử phủ, Lão Tử thu nhận hương khói người trần tại đây. Đạo sĩ có việc đương nhiên phải tìm Lão Tử, nó cũng giống như dân gian có oan trái phải tìm Thiên tử. Vừa rồi vị cư sĩ này nói bà nội vì “thiên thời không tốt” liền quyết đến tìm phật tổ, “lòng đạo không nơi nào không từ bi”, ta không thể lên Tử phủ thay thế tổ sư quét sạch tội lệ này sao?”

“Khẩu khí bướng bỉnh quả không nhỏ.” Ngụy Đông Đình nghĩ thầm, ““tội lệ” này đương nhiên là nói tri phủ Đại Đồng, để xem hắn quét sạch như thế nào.”

Đang suy nghĩ thì nghe Khang Hy vui vẻ nói: “Lệnh sư huynh cũng có quen biết ít nhiều với chúng ta, cũng bẩm tính như vậy, đạo trưởng Vũ Lương phóng khoáng bộc trực đáng kính!” Nói xong đổi giọng hỏi, “Vừa nói tri phủ Đại Đồng, không hiểu là người nào? Hắn tham lam?”

“Làm quan, ai không thích tiền tài? Chỉ không nên quá độc ác, tham một chút, bá tánh cũng chịu được. Xưa nay vẫn như thế mà.” Chủ quán bỗng xúc động vì nỗi đau trong lòng, cười gằn lắc đầu nói, “Là nói Đốc soái Mạc đại nhân của chúng ta, hao hụt bạc chỉ có chín phân hai ly, bá tánh còn gì nói nữa? Nguyên vận chuyển bạc thì có hao hụt mà!”

Đây là nói Mạc Lạc. Khang Hy gật gật đầu, lấy đũa bếp cời than trong chậu, ngọn lửa hừng lên, hỏi tiếp: “Bây giờ sống không nổi sao?”

“Từ sau chuyện bậy bạ của Ngao Trung đường, vụ giáp hạt mùa thu năm nay, tấm lòng bá tánh có dịu đi một ít.” Chủ quán than thở, “Có đất như làng của tiểu nhân đây, hai đầu phụ thêm, nha môn siêng đút lót coi như không kém; còn nếu chỉ làm ruộng đơn thuần thì phải khổ hơn, cũng rủi ro là phủ Đại Đồng ta rơi vào nơi quan lại do Bình Tây vương tuyển chọn. Ngoài bổn phận đóng sai dịch cho triều đình còn phải đóng cho Bình Tây vương. Gia súc cày ruộng vốn đã ít, ngựa lại bị Vương gia lấy đi hết, còn phải nộp thóc tô cho chủ ruộng, bốn bên xà xẻo cũng giống như cá nằm trên thớt! May gặp được người nhân từ như Lưu thái gia trên huyện thì còn đỡ, nếu gặp phải con người như quan phủ Châu thì còn khổ sở, nằm trong quan tài phải mua linh phướn – chết cũng phải mất tiền, đó quả là cái nạn! Sưu dịch ngoại ngạch thì lắm thứ, khi thúc thuế như quỷ dạ xoa đòi mạng!”

“Vậy thì không đúng rồi.” Khang Hy cười nói, “Tôi tuy không ở Bắc Kinh nhưng cũng biết triều đình có chiếu công khai, từ Khang Hy năm thứ hai đến nay, Sơn Tây đã miễn bốn lần tiền, lương, Mạc đại nhân năm ngoái lại tâu xin miễn thuế, quan phủ Châu còn thúc thứ thuế gì?” Đó là chiếu do nhà vua tự tay ký, nói ra rất rành rẽ như chuyện trong nhà.

“Ông làm sao biết được trên đời còn có những chuyện kỳ quái như vậy!” Chủ quán thấy vua không tin, chỉ biết cười, rồi nói tiếp. “Thánh chỉ là thánh chỉ, còn lệnh quan là lệnh quan, ở chỗ chúng tôi đây, thánh chỉ không bằng lệnh quan! Ông phủ Châu này ngay cả Tuần vũ trên tỉnh cũng không dám trêu vào. Ông nâng số bạc hao lên tới bốn tiền ba! Chỉ một việc đó đã làm tiêu tan mọi ơn huệ của Hoàng thượng.”

Ngụy Đông Đình thấy Khang Hy nổi giận mặt đã tái đi, tay cầm đôi đũa bếp hơi run run, vội giật giật vạt áo phía sau. Khang Hy giật mình tỉnh lại, vội bưng chén trà uống giấu nỗi xúc động.

“Việc này ai cũng biết, tiểu nhân cũng không dám giấu ông.” Chủ quán như nghĩ tới việc gì, nói tiếp. “Bây giờ lại nói triều đình trưng thu ngựa, quan phủ đại nhân đem phân cho từng hộ, còn thu giữ của lái buôn ngựa hai trăm con, còn người thì giam ở Tây viên không cho về! Người ta có giấy tờ phủ Khai Phong cấp cho, lấy trà Tín Dương đi đổi ngựa, lấy cớ gì mà giữ người ta?” Nói tới đây, chủ quán nổi giận vỗ vào đùi, “Ông phủ Châu này cũng không biết kiếp trước thế nào, một bụng học thức đều cho chó ăn. Nghe nói ông ta đi thi Hội mấy lần đều không đỗ, không biết làm sao lọt được vào mắt Bình Tây vương, chọn đưa đến phủ Đại Đồng ta – 50 tuổi rồi, gán thuế cho người ta, người ta không nộp được, lại đi bắt một cô gái tân nhà hàng xóm mới mười lăm tuổi về làm thiếp, quả là không sợ nghiệp chướng trước núi Phật! Còn đây, Lưu thái gia đã xin ông phủ Châu, xin hoãn cái vụ khách buôn ngựa lại, ngày mai sẽ hòa giải tại nhà Thái lão gia đồn Sa Hà. Vì bá tánh cả huyện này, chỉ sợ Lưu thái gia khuyên cô bé đó phải nghe theo!”

“Thật vậy.” Phó Sơn bên cạnh nghe nét mặt hoảng hốt, lắc đầu than: “Ngày mai bày tiệc tại đồn Sa Hà tiếp đãi Châu thái gia, tôi cũng được mời...”

Lòng Khang Hy đã nghĩ ngay phải giết, nhưng đã bình tĩnh lại, ném đôi đũa bếp, cười nói: “Tôi cũng chỉ hỏi để biết thôi – cũng không còn sớm nữa, phải đi nghỉ thôi, ngày mai chúng ta lại trò chuyện vậy.” Chủ quán những tưởng người này nhất định là con em gia đình quý phái trong triều, vốn định nói lên nỗi khổ của hàng xóm và mấy người khách buôn ngựa, để có thể tới trước Châu thái tôn nói cho mấy câu, thấy Khang Hy nhát gan như vậy, đành ngượng ngùng đứng dậy cáo từ, đạo sĩ Vũ Lương thì cười nhạt một tiếng đứng lên đi.

“Thanh Chủ tiên sinh,” Khang Hy gọi Phó Sơn lại, “ngày mai đi dự tiệc cho tôi đi theo được không?”

Đến cuối giờ Tuất, gió lốc tạm ngưng, chỉ có tuyết mù trời rơi mãi không ngừng, rơi xuống sân, rơi trên mái nhà kêu lào xào. Khang Hy cảm thấy sạp đốt nóng quá, cứ ngồi lên, nằm xuống liên tục, rồi chau mày đi qua đi lại dưới ánh đèn. Ngụy Đông Đình hiểu rõ nỗi lòng vua, cũng không dám đánh động, đứng ngây một bên nghĩ chuyện mông lung, từ Vũ Lương đến Hồ Cung Sơn, từ Hồ Cung Sơn nghĩ đến người anh em kết nghĩa Tư Hách, lòng đau buồn rười rượi.

“Đông Đình,” Khang Hy bỗng quay người hỏi, “việc trưng thu ngựa, triều đình đã có chính sách, tên họ Châu này tự mình trưng thu số ngựa nhiều như vậy để làm gì? Tên nô tài Mạc Lạc làm quan cũng không tồi, nhưng với tên họ Châu tham lam gây tội ác, sao hắn không báo cáo xử trị?”

Ngụy Đông Đình bị hỏi đứng đực ra, vội cười gượng đáp: “Mạc Lạc quản hạt chủ yếu ở Tây An, ít sang bên Sơn Tây, họ Châu ở Đại Đồng tận nơi cực bắc, trời cao, hoàng đế ở xa, việc gì không làm được? Còn việc trưng thu ngựa...” Ngụy Đông Đình trầm ngâm rồi nói, “Thần e rằng để cho Vân Nam...”

“Khanh đừng nói nữa.” Khang Hy ngăn Ngụy Đông Đình, “việc này quá rõ rồi, Trẫm phải trị tội hắn.”

“Đức Vạn tuế trị tội ai?” nàng Tô vén rèm bước vào, cười nói, “Vạn tuế vừa nói chuyện với mấy người kia, Thái hoàng Thái hậu đều nghe hết, lệnh cho tôi đến xem sao – Vạn tuế muốn trị họ Châu thì về triều hãy nói, nơi này cá, rồng lẫn lộn, Vạn tuế lại ăn mặc thường phục, cần gì phải tranh hơn thua với tiểu nhân ngay lúc này?”

“Đại sư nói có lý.” Ngụy Đông Đình cũng cười theo nói, “Việc này không có gì khó, nô tài sai người mang cho Sách đại nhân một bức thư, trong nửa tháng bắt trói hắn đưa về Bắc Kinh ngay – lẽ ra, người đưa tin của Sách đại nhân, Hùng đại nhân hôm nay phải tới rồi. Việc nhỏ mọn đó, không nên tranh cãi với hắn ở đây.

“Lẽ nào ở đây Trẫm không làm được?” Khang Hy nghe nói buồn bực, ngồi bệt xuống thành sạp nói, “Ngày mai họ Châu này sẽ đến đồn Sa Hà cướp gái dân lành, Trẫm chí tôn ở ngôi Cửu ngũ có thể đứng ngây mà nhìn sao?” Nói xong, đưa mắt nhìn nàng Tô.

Nàng Tô nghe tới đây, động lòng trắc ẩn, suy nghĩ hồi lâu mới nói: “Vạn tuế lòng nhân ái thấu tới trời, việc này nên làm, có điều để lộ ra tung tích Thánh giá, thì chấn động đến cả kinh sư, ý chí của Cụ Phật bà vẫn rất đúng.”

Ba người đang trù tính thì Tiểu Mao bước vào mình mẩy đầy tuyết, hà hơi vào bàn tay đã đông đỏ lên, vén tay áo quỳ xuống, mặt mày hớn hở nói: “Đức Vạn tuế bình an cát tường! Nô tài Tiểu Mao phụng mệnh Sách đại nhất mang thư đến cho Đức Vạn tuế.”

“Tiểu Mao hả! Làm Trẫm giật mình, sao không bẩm trước một tiếng?” Khang Hy vừa sợ vừa mừng, giơ tay và bảo đứng dậy, rồi cười nói: “Vừa rồi Tiểu Ngụy nói hôm nay người đưa thư phải tới, không dè là ngươi, tuyết to thế này khó khăn cho ngươi mò đường ban đêm.”

“Nô tài còn dẫn theo mấy người.” Tiểu Mao cười nói, “Tuyết thì không sợ, nhưng tiếng chó sói gào khắp núi làm nô tài hoảng kinh!” Nói xong thò vào túi rút phong thư ra hai tay dâng lên.

“Được rồi!” Khang Hy đang mở thư, nàng Tô đứng một bên vỗ tay cười nói, “Việc ngày mai giao cho tên tiểu quỷ này đi làm, được không?”

“Thì như vậy,” Khang Hy bỗng bật cười. “Trẫm mang theo ngọc bảo, ngày mai để Tiểu Mao ra mặt trị tên nô tài kia, không lộ sông cũng không lộ núi, chúng ta vẫn cứ đi dâng hương, anh ta cứ trở về kinh sư, há chẳng tuyệt diệu sao?”

“Một mình Tiểu Mao sợ không được,” Ngụy Đông Đình cười nói, “nô tài ngày mai tạm làm hộ vệ sứ giả Trung ương, đi xem cảnh cáo nhiệt.”

“E không được.” nàng Tô nói, “anh còn phải hộ giá lên Ngũ Đài sơn, bên này có việc gì thì làm sao? Vừa rồi Thái hoàng Thái hậu dặn đi dặn lại, nói nơi đây hỗn loạn quá vốn định ở Ngũ Đài sơn thêm mấy ngày, xem kiểu này, lên núi đốt hương xong sẽ lên đường trở về kinh ngay!”

“Ngày mai Trẫm và Đông Đình đều đi.” Khang Hy càng tỏ ra quyết tâm vì Tiểu Mao tới, “Sẽ tùy cơ ứng biến là được, Tiểu Mao làm được, chúng ta không cần xuất đầu lộ diện.” Nàng Tô nghe chỉ gật đầu không nói gì.

Tiểu Mao nghe cả buổi, vẫn không hiểu ý nghĩa việc họ bàn luận, thấy Khang Hy xem thư, liền kéo Ngụy Đông Đình hỏi: “Ngụy đại nhân, chủ nhân cần tôi làm việc gì vậy?” Ngụy Đông Đình rủ rỉ nói lại mọi chuyện cho Tiểu Mao, Tiểu Mao giận đỏ mặt, nói: “Hèn nào tôi vừa vào trấn đã nghe bên đó khóc lóc rất đau lòng! Có Vạn tuế đảm bảo, mười tên Tri phủ cũng trị được! Tôi nhất quyết làm được việc này?”

Khang Hy đọc xong thư, nghe câu nói đó mặt mày ỉu xìu, rút chiếc đồng hồ bỏ túi vỏ vàng ra xem, đã là giờ Hợi hai khắc, nghe ngoài cửa tiếng gió lại nổi lên, không mạnh lắm nhưng nghe vù vù như khóc như kể, liền bảo Ngụy Đông Đình “Bên ngoài lạnh lắm, lấy cho Trẫm chiếc áo lông chồn.”

“Vạn tuế muốn đi ra ngoài?” Nàng Tô hoảng hốt hỏi, “Thời tiết thế này, lại ở xứ lạ, làm sao đi được? Khổ cho cô gái, ngày mai cứu cô ta là được rồi, đừng hơn thua một đêm nay.” Ngụy Đông Đình cũng nói: “Chủ nhân đừng đi ra, đêm nay quan phòng rất ngặt, thị vệ không ai được ngủ – Nô tài dù chịu tội, cũng không dám tuân lệnh này của chủ.”

“Chị Mạn!” Khang Hy thấy nàng Tô sửa lại quần áo chào định lui ra, biết nàng trở về bẩm lại Thái hoàng Thái hậu, liền gọi.

Nàng Tô dừng bước, từ lúc nàng xuất gia không ai gọi cái tên này nữa, nó bao hàm sự yêu chiều của Thái hoàng Thái hậu đối với nàng, cũng bao hàm sự kính trọng của Khang Hy đối với người chị lớn khai mở trí óc, cùng bao hàm cả một câu chuyện bồi hồi triền miên đối với Ngũ Thứ Hữu. Nàng Tô mấp máy đôi môi nhưng không nói gì.

“Khanh là người thầy đầu tiên của Trẫm, về sau Ngũ Thứ Hữu thay cho khanh, năm Khang Hy thứ nhất, Trẫm vừa lên ngồi, khanh nói Trẫm phải làm một Hoàng đế tốt, phải gần dân, siêng năng triều chính.” Khang Hy tình cảm xúc động, đôi mắt sáng nhìn sững vào ánh đèn, nói, “Việc hôm nay tuy không lớn, nhưng khanh biết đấy, nó có ích hơn nhiều so với các chiếu thư văn cáo, mười vị đại thần triều đình nói Trẫm tốt, không sánh được với lời của một cô gái dân lành, có phải vậy không?”

Ngụy Đông Đình do trách nhiệm nên không chịu thua, nhưng nhìn ánh mắt Khang Hy, không dám nói gì. Khang Hy biết được điều đó, cười nói: “Đi thôi, Trẫm tự tin làm như vậy là đúng. Vừa rồi Trẫm cũng nghe phảng phất có tiếng khóc, lẫn trong tiếng gió, như tiếng quỷ gào làm sao mà ngủ được?” Ngụy Đông Đình vội nói: “Chủ nhân không thích kêu khóc ồn ào, nô tài sai người đi sắp xếp một tí qua đó vừa hù vừa dọa bảo họ đừng khóc là được chứ gì...”

“Câm mồm!” Khang Hy trừng mắt quát, “Khanh gần đây càng ngày càng không tiến thêm chút nào! Người ta tâm tư tình cảm khác nhau, người ta đau lòng, mình đi dọa, đọc sách dưỡng khí, đi dưỡng thứ khí gì vậy?” Nói xong, mặc áo lông chồn, mấy bước đã bước ra khỏi phòng. Ngụy Đông Đình nhìn nàng Tô, dặn Tiểu Mao sang hầu Thái hoàng Thái hậu, rồi cùng bước ra, vẫy tay gọi một thị vệ đang gác ở cửa, nói nhỏ mấy tiếng, rồi gọi Lang Thẩm theo sát bảo vệ Khang Hy đi ra ngoài cổng.

Báo cáo nội dung xấu