Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 10
10
Huyện Cố An, Khang Hy gặp con cháu
Sông Vĩnh Định, Huyện lệnh trách quan Đạo
Khang Hy trên đường từ Ngũ Đài sơn hồi giá trở về, đi đến địa phận huyện Cố An Trực Lệ. Ngày hôm sau bố trí kế “ve vàng thoát xác” tiến hành rất thuận lợi. Khang Hy chỉ đưa một mình Ngụy Đông Đình đi tìm hiểu dân tình. Các thị vệ khác do Lang Thẩm dẫn đầu hộ tùng Thái hoàng Thái hậu xa giá về kinh, suốt dọc đường không gặp việc gì phiền phức.
Huyện Cố An gần kinh kỳ, chỉ huy đoàn quân cờ trú đóng ở đây là thuộc hạ của Ngụy Đông Đình, dù vậy Ngụy Đông Đình cũng rất thận trọng khi đi qua bộ phận đóng ở ngoài thành, còn đi vào hỏi thăm một hồi mới đưa Khang Hy vào thành.
Lúc đó đã là đầu giờ Dậu, cả phố huyên náo, tiệm quán đã lên bảng lên đèn, bán đủ thứ: gà quay, vằn thắn, tào phở, đủ các loại đèn, tiếng rao hàng nối nhau liên tiếp trong các ngõ hẻm vang vọng rất xa.
“Cách làng ba dặm, phong tục tập quán đã khác.” Khang Hy rất hào hứng nói. “Tiếng rao hàng ở đây không giống ở Bắc Kinh, lại làm người ta thèm rỏ dãi.” Ngụy Đông Đình đang sốt ruột tìm một cái quán trú chân qua đêm, lại sợ Khang Hy cứ mải tìm người chuyện trò như trước nay, nghe Khang Hy nói vậy, bèn lúng túng trả lời: “Phía trước hình như cái quán cũ, chúng ta vào, ông chủ muốn mua gì bảo trong tiệm đi mua chẳng tốt hơn sao?” Khang Hy hiểu ý anh ta, liền cười gật đầu “tùy ngươi” rồi cùng Ngụy Đông Đình đi vào một cái quán đề “quán cũ Uông Ký”
“Ôi chao, hai vị!” Một người hầu bàn trạc hai nhăm hai sáu tuổi, mặc áo dài đen, ngoài khoác áo vải xanh đen, đường viền trắng ở tay hơi ló ra ngoài, rất sạch sẽ lanh lợi. Anh chàng ngồi dưới đèn đang xem sổ sách, thấy hai người một trước một sau bước vào dáng vẻ phong trần, vội đứng lên ra khỏi quầy, vừa mời ngồi, vừa rót trà, miệng nói không dứt lời, “Sao mà đi một mạch mấy tháng bây giờ mới trở lại? Nhất định là đã phát tài! Tôi nghĩ cái quán bé này có chỗ nào không chu đáo làm mếch lòng hai vị khách quen mà bỏ đi tới quán người khác vậy! Không ngờ hai vị vẫn còn nhớ chỗ quen biết mà trở lại! Lần này phải ở thêm mấy ngày chứ?” Vừa nói liên hồi, vừa đưa cho khách hai chiếc khăn nóng để khách lau mặt, rồi bưng lên hai chậu nước bốc hơi nghi ngút. “Mời hai vị tiên sinh rửa chân trước, xếp phòng nghỉ rồi con sẽ làm thức ăn!” Lời nói thân tình, có pha chút “trách móc” làm Khang Hy không hiểu mô tê gì cả.
Ngụy Đông Đình cười, chủ quán mời khách kiểu này anh đã gặp nhiều rồi, nên cũng không muốn trả lời. Anh giúp Khang Hy lau mặt, nói: “Cho một phòng thượng hạng, sạch sẽ, không có ai quấy rầy, chúng ta nghỉ một đêm rồi đi, sẽ cho tiền khá hơn – Nhà phía tây làm gì mà ồn ào thế?”
Hầu phòng lên tiếng vâng dạ và nói: “Nhà phía tây có mấy vị cử nhân vào kinh đi thi, còn có một nhà buôn Dương đại gia ở sát vách. Bọn họ đang bàn văn chương, còn Dương đại gia thì đến xem. Các ông sợ ồn ào thì phía sau còn một phòng lớn, vừa yên tĩnh vừa sạch sẽ, có điều giá phòng hơi cao...” Anh ta còn định nói nữa thì Khang Hy đã mang xong ủng, đứng lên nói với Ngụy Đông Đình: “Chúng ta đương nhiên ở phòng lớn, đi thôi!”
Ăn cơm tối xong, Khang Hy đi tản bộ ra phía trước, thấy Ngụy Đông Đình vừa đi vừa chạy theo sau, liền cười nói: “Ngươi nô tài không giống nô tài, người hầu không ra người hầu, mà quá cẩn thận, cái quán này còn xảy ra việc gì sao?”
“Dẫu sao cũng là chỗ lạ,” Ngụy Đông Đình cười nói, “có thể không xảy ra chuyện gì, vừa đi xem xét một lượt trong sân, phần lớn là các cử nhân đi thi xuân vào tháng ba, cũng có mấy nhà buôn, cái quán này cũng rất lâu...” Vừa nói, thấy Khang Hy bước vào nhà phía tây, liền vội bước theo vào.
Đây là một loạt phòng có ba gian liền kề, có bốn vị cử nhân ngồi bên cái bàn ngoài cùng, đang dùng Tứ thư và Kinh thi để đố nhau. Nhà buôn họ Dương ngồi trên cái ghế tựa để sát tường, hai tay bưng cái bát có nắp, đang xem say sưa. Hai người bước vào, mấy vị cử nhân đang ngồi yên lặng suy nghĩ, không hề hay biết, ông nhà buôn mỉm cười gật đầu, mời ngồi. Khang Hy ngồi xuống chiếc ghế tựa bên cạnh hỏi nhỏ: “Mấy người ngồi yên như Bồ Tát kia đang làm gì vậy?”
“Đang đố nhau!” Nhà buôn họ Dương cười hòa nhã, đưa mắt nhìn một chàng thư sinh gầy nói. “Vị này rất có học vấn, thắng được nhiều tiền lắm. Hiện anh ta đang đố câu “sống mà nói được”, lấy một câu trong Tứ thư”
“Ngài tên gì ở đâu?”
“Không dám, tôi họ Dương, tên Khởi Long.” Nhà buôn cười đáp, rồi nghiêng người lễ phép hỏi. “Còn ngài?”
“Tôi họ Long.” Khang Hy nhìn Dương Khởi Long trả lời, “tự là Ứng Trân” Hai người không nói gì nữa, nhìn các vị cử nhân đang trầm tư.
“Tôi nghĩ ra rồi!” Một người thấp béo đập bàn một cái, nói “Nhưng mà, “Tử không nói”!” Vị cử nhân gầy hỏi không quay đầu lại: “Giải thích thế nào?” Người thấp béo nói: “Tử không nói Thánh, người này “sống mà nói được” chẳng phải cũng là “Thánh” sao?”
Mọi người đều nói hay, Dương Khởi Long không nín được, phun ngụm trà ra, đằng hắng một tiếng định trống lấp. Một vị cử nhân trẻ tuổi rón rén bước vào, cười nói: “Câu đố này quả khó thật, “sống mà nói được” là “Tử Sản nói” – có đúng không?” Nói xong liền với tay lấy tiền chung trên bàn – một nén bạc nhỏ hai tiền.
“Hãy khoan!” Người gầy chặn tay lại, lại lấy trong túi ra sáu nén bạc nhỏ đặt lên bàn, “Đây là tiền chung, chúng ta cùng chơi, – anh lấy gì để đánh cuộc?”
“Nén này đã là của tôi,” Vị cử nhân trẻ mới đến lại lấy trong túi ra một đĩnh bạc hai lượng, cười nói, “Lấy văn tập họp bạn bè, làm gì thắng thua như vậy? Nếu tôi thua, số bạc này anh cứ lấy!”
“Được!” Ba vị cử nhân kia rất tức anh chàng gầy, thấy chàng trẻ tuổi mới tới phong độ khác người, đều vỗ tay tán đồng. Khang Hy liếc nhìn Ngụy Đông Đình, thấy anh đứng quan sát Dương Khởi Long bên cạnh mình, còn Dương Khởi Long thì ung dung uống trà, xem say sưa.
“Mang của quý vào triều.” Tiếng nói của chàng thư sinh gầy vang vọng.
“Đó là hành vi của người quân tử đứng đắn?” Anh cử nhân trẻ lắc đầu nói, “Nhưng mà – mang vật báu phụng sự vua?”
“Một chút phấn son!”
“Già cũng muốn cưa sừng làm nghé.”
“Mỏi tay bỏ sách?”
“Buồn ngủ không học!”
“Có cho anh – “đường cũ” là gì?” Anh chàng gầy lúc này mới biết là đã gặp đối thủ mạnh, mồ hôi đã lấm tấm trên trán.
“Đường cũ à?” Vị cử nhân trẻ cười nói. “Cổ nhân hữu hành chi giả.”
“Gặp mười tiến một, gặp tám tiến mười một, gặp chín tiến một, gặp mười tiến một, gặp mười tiến một!”
Anh cử nhân trẻ ngớ ra, chắp tay sau lưng đi hai bước, liếc nhìn mọi người há hốc mồm, chỉ hơi gật đầu với Khang Hy đang nhìn mình với ánh mắt khuyến khích, cười nói: “Câu đố này ra rất hay! Có điều ngài là người đọc sách nuôi ý chí, phải coi trọng việc kiềm chế tình cảm – lời giải là “cầm khuê”!”
“Hận không làm người thứ một!” Anh cử nhân gầy bỗng tỏ ra rất nhụt chí, thở dài rồi ngồi xuống. Khang Hy thấy anh ta thua liên tiếp, nên cũng thương tình, đang định an ủi mấy câu, thì chàng cử nhân trẻ cười thu giữ toàn bộ số bạc, nói: “Anh là người học vấn rộng, người anh em này vô cùng khâm phục. Có điều lần này anh phải nhận là người thứ hai, việc “hận không làm người thứ một” cũng là việc không nên vậy!”
Đến lúc này anh cử nhân gầy hoàn toàn bại trận, mọi người nhìn nhau kinh ngạc. Khang Hy thấy cảnh này, bỗng nhớ tới việc Ngũ Thứ Hữu và nàng Tô đối đố nhau hồi đó, nay đã mắt thấy tai nghe, liền thở dài một tiếng. Bỗng thấy Dương Khởi Long đứng lên cười hì hì, nói: “Hai vị đều là thiên tài, tôi vô cùng ngưỡng mộ. Tôi xin góp một chút, ngại gì không chơi tiếp một cuộc nữa, nhưng trước hết xin hai vị cho biết quý danh tánh và nơi ở.” Nói xong lấy ra một đĩnh bạc lớn mười lượng đặt trên bàn.
“Không dám, học trò Lý Quang Địa” chàng cử nhân trẻ tới sau khiêm tốn nói, “người An Khê, Phúc Kiến.”
“Vậy tôi thi được cái gì?” Anh thư sinh gầy cười hả hả. “Lý tiên sinh là cao thủ của lão Tôn sư Ngũ Trĩ Tốn, Trần Mộng Lôi không thi với anh nữa, nhận người đồng hương vậy, tôi là người Hầu Quan, Phúc Kiến!” Khang Hy vốn thấy Trần Mộng Lôi có hơi nóng nảy, bây giờ mới thấy anh ta cũng rất phóng khoáng bộc trực, chỉ ba tiếng “Ngũ Trĩ Tốn” hình như đã nghe nói ở đâu, bèn liếc mắt nhìn Ngụy Đông Đình, Ngụy Đông Đình hiểu ý kề tai Khang Hy nói nhỏ: “Ngũ Trĩ Tốn là Tể tướng nhà Minh trước, là cha đẻ của Ngũ tiên sinh.” Khang Hy nghe nói ánh mắt sáng lên, rồi nhanh chóng bình tĩnh trở lại, định đứng lên mời Lý Quang Đại, Trần Mộng Lôi cùng đến phòng mình nói chuyện, thì Dương Khởi Long đã đứng lên cười nói: “Hai vị tiên sinh khỏi thi đố nữa, nhưng vật này xử trí thế nào đây?”
“Theo ngài thì thế nào?” Trần Mộng Lôi liên tiếp thua Lý Quang Địa, đang định nắm cơ hội này, thấy Dương Khởi Long trong cái cười có ý mỉa, liền nói: “Ông cũng muốn khảo chúng tôi sao?”
“Không dám, xin thỉnh giáo thôi,” Dương Khởi Long bước tới hai bước, như cười như không, nói, “tôi chỉ nói lời me – “bước chân rón rén”.”
“Chưa chắc đi được, chỉ sợ có nghe!” Lý Quang Địa ứng khẩu trả lời.
“Đúng! Đoan ngọ hùng hoàng, bánh trung thu?”
“Không hổ là người buôn bán,” Trần Mộng Lôi cười nói, “lời giải là “Tết ăn uống” trong Kinh Dịch!”
“Hoa hòa thượng tay đấm Trấn Quan Tây!”
Lý Quang Địa nghe, hơi ngớ người. Trần Mộng Lôi cười nói tiếp: “Người không biết tưởng là thịt, người biết cho là vô lễ.”
“Quả là tài cao!” Dương Khởi Long khen ngợi, rồi bỗng thôi cười, “Còn nữa – Mộc nhĩ sắt, làm hoang phế ruộng đất, tiêu áo mão!” Ông cứ hỏi hết câu này đến câu khác, không cần suy nghĩ. Mọi người nghe sững sờ. Không ai ngờ, một nhà buôn trẻ ngồi xem đấu mà lão luyện như vậy.
Lý Quang Địa và Trần Mộng Lôi đang đối đáp trôi chảy, bây giờ không nói gì, liếc mắt nhìn nhau. Trần Mộng Lôi bước tới đưa trả toàn bộ số bạc trên bàn cho Dương Khởi Long, nói: “Người mỗi người một chí, không nên ai ép buộc ai, tôi và anh Quang Địa chịu thua, đây xin trả lại cho ngài!” Nói xong liền kéo Lý Quang Địa: “Mất hứng rồi, anh Lý xin quá bước tới phòng tôi uống chút gì qua đêm.” Nói xong hai người vòng tay vái chào rồi bước ra.
“Hai vị dừng bước!” Hai người vừa đi tới giữa sân, bỗng nghe có tiếng gọi, quay đầu lại nhìn thì là một vị thiếu niên ngồi cạnh Dương Khởi Long, liền dừng lại hỏi: “Có việc gì?” Khang Hy cười nói: “Tôi xem hai vị không phải không đoán ra câu đố đó, mà hình thư có điều ẩn khuất gì khó nói ra, xin chỉ giáo cho.”
“Chú em, chú rất thông minh,” Trần Mộng Lôi cười nói, “câu đố không khó đoán, nhưng lúc này, nơi này không tiện nói ra, câu đố ra rất quỷ quyệt.”
“Vậy cuối cùng là chuyện gì?” Khang Hy vẫn bám hỏi.
“Di Địch mà có vua, còn Hoa Hạ thì không có.” Lý Quang Địa nói khe khẽ, rồi dắt tay Trần Mộng Lôi cùng đi. Khang Hy đứng tại chỗ, mặt bỗng tái mét, không có chút máu.
Đêm đó, Khang Hy không ngủ được, “Di Địch mà có vua, còn Hoa Hạ thì không có”, câu ghi lời Khổng Tử này cứ theo đuổi ông cứ như bóng đè: Học trò người Hán đều là môn đồ của Thánh nhân. Cai quản một dân tộc to lớn này lại không thể không dùng họ, bản thân mình người Mãn, đương nhiên cũng thuộc hạng “Di Địch”, lý luận này nên giải thích thế nào? Từ khi vào Quan Trung, từ Đại hành Hoàng đế Thuận Trị đến nay, đau đầu nhất chính là việc này, người có học đều mang tâm trạng đó, chưa nói Tam phiên người Hán rất có khả năng tạo phản, lại làm sao đưa thiên hạ vào thời thịnh trị, để giữ cơ nghiệp lớn lao cho đến muôn đời!”
Khang Hy trằn trọc trở xoay, lòng dạ hoảng hốt cho đến canh tư mới chợp mắt được, tỉnh dậy đã là giờ Mão. Vua vội bò dậy, rửa mặt qua loa, rồi bảo Ngụy Đông Đình gọi chủ quán tới tính tiền.
“Đón khách tối hôm qua không phải là anh!” Khang Hy kinh ngạc nhìn ông chủ quán để râu chữ bát hỏi: “Tối hôm qua không phải là một chàng trẻ tuổi sao?”
Chủ quán xem ra già hơn nhiều so với anh hầu bàn mà cũng không dẻo mồm bằng, thấy Ngụy Đông Đình cho tiền phòng rất hậu thì tạ ơn lia lịa và nói: “Bẩm ông, kẻ hèn mọn hôm qua đi lễ ông bà trở về rất muộn không dám tới làm kinh động ông.”
“Lễ ông bà?” Khang Hy ngạc nhiên hỏi, “Phải là đứt dây rồi tục huyền?”
“Không, không phải là thành hôn, là...” Chủ quán biết bị hiểu lầm, ngần ngừ một lúc rồi nói: “Kẻ hèn này theo đạo đại tiên Chung Tam Lang, buổi tối thỉnh thần, đài chủ đốt lửa, kẻ hèn cũng tới hiến chút tiền hương khói.”
“Hả... Chung Tam Lang.” Khang Hy ráng sức nhớ lại nhân vật trong truyện Phong thần diễn nghĩa, nói, “Chưa nghe nói tới vị thần tiên này...”
Chủ quán thấy vua nghi ngờ, một mặt sai hầu bàn bưng điểm tâm lên, một mặt nói khẽ với Khang Hy: “Đại tiên Chung Tam Lang là thần tiên mới được Ngọc Hoàng Đại đế tấn phong, chuyên xuống trần phố cứu những người mở quán chúng tôi buôn bán, làm trưởng tùy... Nếu tin vào cụ già này, chúng tôi có thể đại cát đại lợi, yên ổn làm ăn, còn ai chọc giận cụ thì tai họa sẽ đổ lên đầu...” Ông nói một cách kính cẩn, giọng hơi run run. Ngụy Đông Đình bên cạnh cười hỏi: “Có bằng cứ gì không? Ông không nên sợ sệt như vậy – Chung Tam Lang không thể có tai mắt ở mọi nơi!” “Tội lỗi, tội lỗi!” Chủ quán quả là một tín đồ rất thành kính, “anh là Trưởng tùy chứ? Vậy thì cũng thuộc vòng cai quản – còn nói bằng cứ thì nhiều vô số kể. Chỉ riêng tôi được biết cũng không ít. Đại tiên ở Trần Đàn Thông Châu, có vô số chủ quán không tin, một đêm bị lửa thiêu hết bảy nhà!” Nói xong vái chào Khang Hy và đi ra. Khang Hy thấy bên ngoài nổi gió bèn bảo Ngụy Đông Đình lấy ra cái áo lót màu lông chuột, vừa mở cúc vừa nói: “Chúng ta về kinh ngay.” Ngụy Đông Đình thấy mặt Khang Hy biến sắc liền dạ một tiếng, rồi sửa soạn ngựa đi về.
Đã là giờ Thìn rồi. Ngoài thành Cố An gió bụi vàng cuồn cuộn, mặt trời vàng lạnh. Dòng sông Vĩnh Định, trên mặt đóng băng nước chảy ngầm róc rách, dương liễu rủ bờ hồ, lắc lay theo gió lào xào. Ngụy Đông Đình thấy Khang Hy lặng yên ngồi trên ngựa hình như trong lòng nặng trĩu bao nỗi niềm, liền quất ngựa đi lên, cười nói: “Con sông Vĩnh Định này đã đổi tên nhưng không đổi được tính nết, khi lồng lên vẫn như con ngựa hoang, còn bây giờ lặng lẽ như một cô gái lạnh lùng!”
“Nếu như có Ngũ tiên sinh thì những câu đố hôm qua còn hứng thú biết bao!” Khang Hy không hiểu Ngụy Đông Đình nói gì, thở dài, nói, “Anh tài thiên hạ tuy nhiều nhưng không chịu phục vụ Trẫm, làm thế nào đây?” Ngụy Đông Đình thấy vua đã nói rõ rồi, không biết nói thế nào cho phải, một hồi lâu mới cười nói: “Chủ nhân đừng nghe tên họ Dương nói bậy. “Hoàng thượng không người thân, duy có đức phụ trợ”, cũng chẳng phải là câu nói Thánh hiền sao?” Khang Hy gật đầu than rằng: “Khanh nói cố nhiên là đúng, nhưng câu nói đó của Khổng Tử cũng phải giải thích đúng mới được.” Nói xong bỗng phát hiện ra điều gì, lấy roi ngựa chỉ ra phía xa hỏi: “Đông Đình, đám người phía trước xa kia đang làm gì vậy?”
Ngụy Đông Đình nhướn mắt nhìn, thấy một đội dân phu khoảng bốn năm mươi người từ trong thành đi ra, vác thuổng, cuốc, xẻng, ky, rổ… đang chậm chạp kéo đến bờ sông Vĩnh Định, liền quay lại nói với Khang Hy: “Chủ nhân, tuồng như dân phu đi đắp đê.”
“Không phải đâu!” Khang Hy kinh ngạc nói. Con đường này nơi nào có công trình thủy lợi gì nhà vua đều rất quan tâm. Làm thủy lợi thường bắt đầu sau vụ thu, sang lập đông thì ngừng. Chỉ riêng huyện Cố An kỳ quặc, thời gian này vẫn còn làm thủy lợi sao? Liền nói với Ngụy Đông Đình: “Đi tới xem sao.” Ngụy Đông Đình dạ một tiếng, đang định đi thì thấy phía sau đi tới men theo đê sông một chiếc kiệu ấm nỉ xanh. Phía trước có hai lá cờ hiệu đầu hổ phía sau là mười mấy tên nha dịch mang gậy, mới nhìn cũng biết là nghi trượng của quan đạo tứ phẩm. Khang Hy suy nghĩ: người ngồi kiệu này nhất định là một viên hà đạo, bèn nói với Ngụy Đông Đình: “Chúng ta đuổi theo đám người phía trước, xem thử là việc gì!”
Không mấy chốc, chiếc kiệu phía sau đã đuổi lên kịp, dừng lại trên bờ đê. Một viên quan cúi người bước ra khỏi kiệu – đầu đội mũ xanh chóp gắn pha lê, trên chiếc áo quan tám xà năm vuốt không thêu gì thêm, ngoài khoác chiếc áo da dê tía, khoảng bốn mươi tuổi, người béo trắng, ra dáng hăm hở. Ông xuống kiệu đứng trên bờ đê, thấy dân phu đứng xoa tay xoa chân trên bờ không muốn xuống sông. Ông bèn hỏi to: “Ai chỉ huy thi công?”
“Chu quan sát.” Một viên lại từ phía sau chen lên, vái chào, mặt tươi cười nói, “Kẻ hèn mọn xin kính chào quan lớn ạ!”
Quan đạo Chu lấy tay chỉ mặt trời cao đến ba con sào, mắng rằng: “Tên giặc kia! Nhất định là hôm qua uống say bí tỉ rồi, dám lơ mơ với chuyện công của triều đình hả? Mi xem xem, bây giờ là lúc nào rồi mà người còn chưa xuống sông hả?” Viên lại thấy sắc mặt quan đạo đề không hiền, hắn lúng búng thưa: “Xin quan lớn lượng xét, không phải kẻ hèn mọn này lười mà quả thật nước lạnh lắm, không xuống được… mà xuống ngay bây giờ thì cũng rất là…”
“Nói láo!” Quan đạo Chu trừng mắt nói: “Vào mùa thu, ta đã bảo bọn bay làm đi, bọn bay khất lần khất hồi, nói là một ngày ba phân bạc không đủ tiền thuê, không dám làm, bây giờ lên đến năm phân, thì lại... đồ đểu! Bay đâu, kéo ra đánh hai mươi hèo!”
“Quan sát đại nhân…” Viên lại hoảng lên, hai chân ríu lại, gục đầu bẩm, “Không phải tiểu nhân to gan, mà là Dương thái gia dặn bảo, cuối Thìn đi làm, cuối Mùi đi về...” Quan đạo Chu “ư hừ” cười nhạt một tiếng nói: “Dương Tất là một ông quan thanh liêm yêu dân như con, đã tới chưa?” Nói xong bèn đưa mắt nhìn bốn bên, có vẻ như moi móc.
Tới lúc này Khang Hy đã nghe biết gần đúng. Tiền công đắp đê, triều đình định giá thống nhất cho từng khu vực, cho dù mùa hè cũng không dưới năm phân, tên hà đạo này ăn không hai phân tiền công, cố nhiên là làm chậm công trình, nên giờ này phải buộc dân xuống làm việc dưới băng. Tâm địa tên nô tài này hỏng bét rồi.
“Chu đại nhân!” một thanh niên khoảng hai mươi tuổi, mình mặc áo bông không tay màu đỏ sẫm, một vạt dắt vào thắt lưng từ trong đám dân phu bước ra, cúi người vái chào, nói: “Ty chức Dương Tất có mặt, đại nhân sai bảo gì ạ?
“Hả, đã đứng tuổi rồi, sao ăn mặc thế này?” Quan đạo họ Chu ngáp một cái như cười như không, nói: “Tên nô tài này vu vạ ông trễ nải công việc, thật đáng ghét. Việc bồi đê này, triều đình đã mấy lần ra chỉ thị nghiêm ngặt, năm ngoái khi đức ông Ái Tất Long đi thanh sát, tôi đã bị khiển trách, túc hạ biết đó. Việc hôm nay, túc hạ xem nên xử lý thế nào?”
Dương Tất đỗ tiến sĩ vào năm Khang Hy thứ sáu khi mới mười bảy tuổi, lập tức được bổ làm Huyện lệnh Cố An, năm sau gặp lúc quan Phụ chính Át Tất Long đi Vu Hồ giải quyết lương thực, khi trở về kinh có thị sát việc đắp đê. Ông quan đạo họ Chu này tên là Chu Phủ Tường, lúc đó còn là Tri phủ, nhận trát mật của Ngô Tam Quế làm chậm việc đắp đê, bị Át Tất Long vả mồm trước mặt các quan, đồng thời biểu dương huyện lệnh Cố An Dương Tất “chịu ráng sức làm việc”. Chu Phủ Tường xấu hổ đâm tức giận lây sang Dương Tất, mối hận ghim gút sâu sắc trong lòng. Cố nhiên Dương Tất có biết họ Chu tìm cớ trút hận vào mình. Anh suy nghĩ rất lâu, rồi nói chậm rãi: “Viên lại này nói không phải vu vạ hạ quan, bảy ngày trước ty chức đã lệnh cho họ đầu giờ Tỵ đi làm, đầu giờ Thân nghỉ việc.”
“Hả?” Chu Phủ Tường thấy anh nhận rồi, liền trở mặt, mím miệng hỏi: “Vì sao vậy?”
Dương Tất điềm tĩnh nói: “Ty chức cho rằng việc làm tốn tiền khổ dân như thế này nên xin trên ra lệnh công khai, lập tức ngừng lại.”
Khang Hy đứng bên nghe Dương Tất nói đĩnh đạc không cao không thấp, trong bụng cứ khen thầm: “Người này gan dạ.”
“Quý huyện lệnh to gan, hả? Đây là lệnh của triều đình!” Chu Phủ Tường rướn cao giọng.
“Ty chức biết là lệnh triều đình!” Dương Tất cũng rướn cao giọng, lớn tiếng đáp lại, giọng hơi run run, chứng tỏ anh cố nén nỗi tức giận của mình. Mấy trăm dân phu thấy họ càng nói càng đối nhau chan chát, đều sững sờ. Có hai cụ già bước lên khuyên can Dương Tất: “Bẩm quan, không nên tranh cãi với quan đạo đại nhân, bọn chúng tôi xuống làm là được...” Nói xong cởi giầy, xắn quần bước xuống sông, mười mấy dân phu cũng cởi giày, giậm chân chuẩn bị xuống sông. Một phụ nữ đẩy xe bán rượu cũng vội nhóm lò nổi lửa nhào bột hâm rượu. Khang Hy nhìn mấy người xuống sông bị băng cứa rách da chảy máu, có người máu còn tươm ra đỏ tươi, bỗng thấy nóng ruột, đang định nói, bỗng nghe Dương Tất quát to: “Lên đi, không ai phải xuống sông cả!”
“Mi... mi!” Chu Phủ Tường tức giận, mặt trắng bệch ra, lắp bắp nói, “Mi không... không còn coi cấp trên ra gì, chống... chống lại lệnh vua...” Nói xong xuôi tay định bước lên kiệu, không ngờ Dương Tất nắm áo kéo lại, hỏi: “Chu Phủ Tường, ông đi đâu?”
“Về dinh vạch tội mi!” Chu Phủ Tường thấy anh ta dám kêu mình, gào to lên “Mi – mũ đỉnh vàng trắng, quần áo và chức quan của mi mất rồi!”
“Lại đây, lại đây!” Dương Tất kéo Chu Phủ Tường, mặt đỏ bừng bừng. “Giờ này mặt trời đã lên ba con sào, ông mặc áo bông khoác cả áo da vẫn còn lạnh phải hà hơi tay giậm chân, nhưng lại đòi bá tánh xuống sông lúc sáng sớm! Cũng được, nếu ông xuống nước được thì cố nhiên bá tánh cũng xuống được!” Nói xong kéo Chu Phủ Tường đã tức điên người cùng xuống đê, lao vào nước băng.
Băng trên sông vỡ kêu “ầm” một tiếng, Chu Phủ Tường mới tỉnh ra, vội vàng gỡ tay ra, nhưng đã bị Dương Tất nắm chặt cứng. Hai ông thầy trong phủ của Chu Phủ Tường thấy hai ông quan lớn kéo tay nhau xuống sông, hốt hoảng la lên một tiếng rồi chạy xuống cản lại. Nhưng lớp băng không chịu nổi, nứt vỡ ra, nước băng lên tới bắp vế, ai nấy đều lạnh cóng run bần bật. Đám dân phu thấy sự việc càng ngày càng to chuyện đều xúm lại, mỗi người một tay đỡ họ lên bờ. Khang Hy thấy cảnh đó không nhịn được lớn tiếng khen: “Tốt!”
Chu Phủ Tường lên bờ, không hiểu là vì giận hay vì cóng, mặt trắng xanh ra. Hai hàm răng đánh bồ cạp kêu lộp cộp, hai chân giậm thình thịch xuống đất để giũ nước. Thấy Khang Hy đứng bên vỗ tay cười lớn, tưởng là bọn ký lại trong huyện vui mừng trước tai nạn người khác, hắn liền nổi cơn thịnh nộ, chỉ tay vào mặt quát: “Bắt lấy tên vô lại vô giáo dục này!”

