Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 15
15
Nữ anh hào vì nghĩa trừ ác nô
Ngũ Quốc Sĩ tiết tháo đền ơn vua
Hoàng Tứ giận điên lên, “a” kêu lên một tiếng to, vận khí nhún chân nhảy lên cao, dùng đầu húc mạnh Vũ Lương. Vũ Lương hơi mỉm cười, nghiêng người sang một bên, lấy thế một tay nắm bím, một tay nắm sau lưng đẩy tới trước, nghe đánh rầm một tiếng, Hoàng Tứ đầu đập xuống đất, chân chổng lên trời, rơi vào chum nước ngọt để sát tường.
“Tên giết người bẩn thỉu nhảy đúng phóc!” Vũ Lương vỗ tay, nhịn không được bỗng cười nói, “Còn vị nào muốn thử?”
“Đứng đực ra đó làm gì?” Tên trưởng quầy béo đứng bên lạnh lùng giương mắt lợn trừng trừng quát to. Hai mươi tên đàn ông lực lưỡng nhất tề hô nhau xông lên, Vũ Lương bình tĩnh ngồi xuống, một tay chống đất, xoay quanh một vòng như cối xay, bảy tám tên phía trước ngã chỏng gọng, đứa thì ngửa mặt lên trời, đứa thì dập mặt xuống đất, kêu lên chí chóe, bọn phía sau không kịp thu chân lại cũng bị vấp ngã. Lý Vũ Lương bỗng rút que thông lò đang đỏ rực, châm thẳng vào bọn chúng không cần phân biệt là mặt, là tay, là lưng, là mông, trong chốc lát, khói xanh bốc lên, mùi khét xông vào mũi, tiếng kêu cha kêu mẹ ơi ới như sói gào. Người bên ngoài thấy đã thành to chuyện liền tránh ra thật xa, chỉ có Khỉ đen là mừng vui hả dạ nhảy lên vỗ tay kêu hay.
Trưởng quầy béo giận dữ mặt tím như gan lợn, chỉ vào bọn phục dịch đang vừa lăn vừa nhảy mà mắng: “Đều là đồ bị thịt ôi!” Hắn cầm một chiếc xẻng xúc than múa thật tròn áp sát tới. Vũ Lương vội né tránh, thấy hắn múa xẻng bổ xuống, liền kéo tên Hoàng Tứ từ trong chum nước ngọt ra giơ lên che đỡ, chiếc xẻng than bổ xiêng xuống sau gáy Hoàng Tứ, chỉ nghe Hoàng Tứ ré lên một tiếng thảm thiết, máu tươi ộc ộc chảy ra, bắn tung tóe lên tường lên thân người! Vũ Lương dứt khoát lấy hắn làm vũ khí, vừa huơ Hoàng Tứ cao gầy, vừa cười nói: “Hôm qua còn mắng người ta là súc sinh, bữa nay chết không bằng một con thú!” Rồi lấy xác tên Hoàng Tứ đập xuống tên trưởng quầy béo, tên này đâu tránh nổi, hai thân người đụng nhau đập xuống một cái bàn ăn, rầm một tiếng đè cái bàn nát vụn. Lý Vũ Lương vẫn chưa muốn dừng tay, anh quay người bưng một chảo dầu nóng còn đang bốc hơi tạt vào cái lều châm lửa! Người đi hội miếu ùn ùn kéo nhau chạy trốn.
Khỉ đen cũng xem say sưa, bỗng giật mình kinh hoàng thấy ngọn lửa bốc cao trong gió bắc. Hắn không ngờ “ông lớn Lý” võ nghệ cao cường nhưng cũng có thủ đoạn độc địa như vậy, bất chợt kêu to: “Ông lớn Lý, gây họa to rồi, chúng ta đi thôi!” Lý Vũ Lương từ trong căn lều mịt mù khói lửa chạy ra, thấy tên trưởng quầy béo đầu đầy khói than, mặt mày phồng rộp cũng kinh hoàng chạy theo sau. Anh quay người cười nói: “Ông cứu hỏa nhanh lên! Chạy ra đây làm gì?” Nói xong nắm kéo tên béo ném lại vào đám lửa, kéo vạt áo lau tay, nói với Khỉ đen: “Hết việc rồi, chúng ta đi thôi.”
Hai người tuồn ra theo dòng người, tới một quả núi nhỏ phía đông bắc cách bốn năm dặm vui chơi một buổi chiều, mãi đến tối mịt mới trở về gác nghênh phong. Suốt dọc đường, Vũ Lương rất phấn chấn nói cười còn Khỉ đen thì lặng yên như có điều suy nghĩ.
“Chú sao vậy?” Vũ Lương dừng bước hỏi, “Ta hôm nay vừa giết người vừa đốt nhà còn không sợ, chú lại sợ à?”
“Không phải vậy.”
“Chú thương tiếc chúng nó?” Vũ Lương nghiêm giọng hỏi.
“Bọn chúng thì thương tiếc nỗi gì! Giết hết đi, người phủ An Khánh còn vỗ tay khen tốt!” Khỉ đen bỗng cười nói, “Tôi có một câu mạo muội, không biết anh có muốn nghe không?”
Vũ Lương hơi suy nghĩ, cười nói: “Không nhìn ra được ông nhỏ này, nói chuyện cứ như người lớn, có gì cứ nói đi.”
Khỉ đen đằng hắng một tiếng, nói: “Vừa rồi, anh kéo vạt áo lau tay, tôi đã thấy, anh là một nữ hiệp khách, không biết có duyên số làm đồ đệ của anh không?”
Lý Vũ Lương sửng sốt, mới nhớ là bên trong đang mặc váy. Bây giờ thì anh lại im lặng, suy nghĩ một hồi lâu, bỗng òa lên cười, thở ra nói: “Trong bầy dê có con thỏ – chú quả là thông minh! Đã biết rồi, thì coi như có duyên số – nhưng không được nói với Ngũ tiên sinh!” Rồi lại nói tiếp: “Đứng lên!” Khỉ đen gục đầu lạy ba cái rồi mới đứng dậy, bỗng thút thít, lấy tay gạt nước mắt nói: “Khỉ đen mà có bản lĩnh như sư phụ, thì cha tôi không phải nhảy sông, mẹ cũng không bị người ta bán đi mất...” Vũ Lương nhẹ nhàng vỗ vai bảo hắn: “Tên họ Trịnh giàu mà bất nhân, gây nhiều tội ác, từ lâu tôi đã có ý trừ khử hắn, nhưng bây giờ hắn không ở An Khánh, nghe nói đi thăm anh hắn rồi. Bữa nay cho hắn biết tay một chút thôi, trở về ta sẽ bắt hắn, cho chú giết hắn hả giận là được chứ – Chúng ta trước hãy đi theo Ngũ tiên sinh, ta còn muốn làm cho ông một chút việc, việc của chú trở về sẽ hay.”
Nhưng Ngũ Thứ Hữu đã mất tích. Hai người nửa đêm nhảy tường vào gác nghênh phong, không thấy Ngũ Thứ Hữu. Lý Vũ Lương lập tức biến sắc, đi tìm chủ quầy hỏi mới biết trời sắp tối có năm sáu tên công sai đến bắt trói Ngũ Thứ Hữu không biết đem đi đâu.
Vũ Lương nghiến răng ngẫm nghĩ một hồi lâu, nhận định là mình gây án liên lụy đến Ngũ tiên sinh. Nhìn trên bàn thấy bát thuốc trị “thương tích bị đánh bị ngã” đã sắc xong. Lý Vũ Lương đỏ mặt, trở về phòng vừa thu dọn hành lý vừa nói với Khỉ đen: “Đi, đến nhà họ Trịnh trước, rồi sau đến nha phủ An Khánh – bà cô muốn đọ sức với chúng một phen.”
Ngũ Thứ Hữu bị bắt, thoạt tiên ông không hiểu gì cả: Triều đình đã có công văn chiếu dụ, nha môn các tỉnh đều phải chấp hành, làm sao có thể xảy ra chuyện này? Mấy tên công sai này làm sao kêu đúng tên họ mình? Đang suy nghĩ thì đã bị trói, lại lấy một nắm lá hồ đào nhét đầy mồm, đến lúc đó mới thấy sự tình nguy ngập, nhưng đã muộn rồi. Ông thở ra, bị mấy tên sai dịch như hổ như sói, đứa đẩy đứa kéo đưa ra ngoài gác nghênh phong, cũng không có đến một cái đèn lồng, ông bước đi, bước thấp bước cao. Đáng thương cho ông, một thư sinh yếu đuối xuất thân giàu sang, mấy khi trải qua cảnh khổ ải này!
Khoảng chừng canh hai, đi đến một bờ đê rộng rãi. Lúc này, đứng trên con đê to, nhìn qua trái, nước sông róc rách, nhìn qua phải phía trong, đê ao đầm xếp dày như vảy cá, sao lạnh lung linh, gió buốt thấu xương, vạn vật đều im ắng, một màn tối đen, chỉ văng vẳng từ xa tiếng cú kêu đêm.
“Tới nơi rồi!” Tên công sai cầm đầu, thở ra khoan khoái, kéo nắm hồ đào nhét trong mồm Ngũ Thứ Hữu ra, cắt đứt dây trói trên người ông, cười nói: “Làm Ngũ tiên sinh hoảng sợ! Người Minh không làm chuyện ám muội, tại hạ là ngự tiền thị vệ của Bình Tây vương, phụng vương lệnh đặc biệt đến mời, nhưng sợ tiên sinh không chịu vâng mệnh, bất đắc dĩ phải dùng hạ sách – Tại đây tôi đã cùng tiên sinh ở chung một quán, mấy lần được nghe tiên sinh làm thơ giảng sách, trong lòng ngưỡng mộ vô cùng, quyết không làm khó dễ cho tiên sinh. Nhưng đến Vân Nam, núi cao sông dài, dọc đường rất phiền hà, tiên sinh phải nghe tại hạ xếp đặt, đợi sau khi đến Ngũ Hoa Sơn, tôi nhất định tự mình xin chịu tội!” Nói xong vái một lạy.
Ngũ Thứ Hữu liếc nhìn, tuy trong tối không nhìn rõ lắm, nhưng mơ hồ có thể nhận ra là Hoàng Phủ Bảo Trụ mà mình đã mời tới cùng ngồi trong ngày ngâm thơ. Đầu óc ông như nổ tung, tay chân bủn rủn, ông ngồi bệt xuống bờ đê, ngước đầu nhìn những ngôi sao trên trời, nói: “Tôi chẳng qua chỉ là một hiếu liêm nghèo, công danh không đạt, lang bạt giang hồ, lòng không có chí trị đời, tay không có sức buộc ngựa, Bình Tây vương cần gì tôi phải đi đâu, uổng phí bao công lao suy nghĩ! Tôi thấy chẳng đáng thế đâu!”
Hoàng Phủ Bảo Trụ im lặng, mồm huýt sáo, từ trong lau lách bờ bên kia, một chiếc thuyền nhỏ phóng ra như tên.
“Đến rồi!” Tên công sai đỡ Ngũ Thứ Hữu phấn khởi nói. “Lên thuyền là vững vàng nhiều rồi, chỉ cần tránh được Lý Vân Nương, người khác không ai dám làm gì ông con chúng ta!” Ngũ Thứ Hữu thì chẳng biết Lý Vân Nương là ai, sao lại dám làm gì bọn người này, ông bỗng động lòng, cúi đầu im lặng.
Chiếc thuyền lắc một cái, rời bờ, lòng Ngũ Thứ Hữu bỗng chốc như trống rỗng. Ông nằm dựa vào khoang thuyền phía trước tối om om, như phó mặc cho số phận, nhưng tâm trạng rối bời. Một chốc là Khang Hy, một chốc là nàng Tô, Ngụy Đông Đình, Minh Châu, Sách Ngạch Đồ... hình ảnh từng người từng người hiện ra trước mặt, rồi từng người từng người lại biến đi trong khoảng tối đen ngòm, chỉ nghe tiếng nước róc rách dưới đáy thuyền, càng lúc càng nhanh, Ngũ Thứ Hữu lòng như lửa đốt, định muốn đứng lên, nhưng gượng cười ngồi xuống, thì nghe giọng hát người chèo thuyền:
Em tương tư, không muốn phong lưu đợi bao giờ? Chỉ thấy gió thổi hoa rơi rụng, không thấy gió thổi hoa lên cành… Nhớ tới em, như bướm nhớ hoa. Bướm nhớ hoa, bướm không nhớ cỏ, anh nhớ tình em, không nhớ nhà...
Lời hát vừa dứt, thì một người cười nói: “Anh hát bài đó tục quá, cũng chỉ bài ca cô nương A Tử đặt là hay thôi.” Nói xong lấy giọng cất tiếng hát:
Đỉnh núi nghiêng nghiêng cúi xuống nhìn, thuyền đơn một lá mãi lênh đênh.
Cánh bèo vô định không quay lại, tìm bạn tri âm đâu khói sương.
Cỏ phủ mồ hoang ba chén rượu, trần gian thượng giới trẻ chia lòng.
Chiêu hồn chàng đọc bài văn đó? Trong mộng hàng đêm đỡ phải tìm!
Ngủ Thứ Hữu thấu hiểu ý bài ca cũng thấy đồng điệu, có điều cô nương A Tử là người như thế nào, mà có thủ bút như vậy, không biết nàng có oán hận gì mà viết ra bài ca đau thương buồn tức như vậy.
Đang suy nghĩ mông lung, bỗng một tia chớp lóe lên, Hoàng Phủ Bảo Trụ cầm đèn đi vào khoang. Lúc này Ngũ Thứ Hữu mới thấy rõ xung quanh mình có bốn tên công sai. Điều làm ông kinh ngạc là trong khoang còn có một phụ nữ mái tóc mượt mà, mặt mày xinh đẹp, ngồi ở khoang bên đang nhìn mình!
Hoàng Phủ Bảo Trụ nheo mắt nhìn Ngũ Thứ Hữu, cười nói: “Ngũ tiên sinh, chắc là bị kinh hoàng? Nhưng khí sắc vẫn còn tốt.”
“Muốn nói gì, phải như thế nào, xin cho biết.” Ngũ Thứ Hữu quay mặt đi nói, mặt lạnh như tiền.
“Tiên sinh!” A Tử từ khoang bên bước tới, sửa sang quần áo, nghiêm chỉnh lễ chào, nói, “Ngô Tam Quế có không tốt cũng là người Hán, Ngũ Hoa Sơn tuy không có điện Kim Loan, nhưng cũng không phải thế giới hồ tinh! Người tài hoa như ông mà cũng không thông hiểu cái đạo lý này?”
“Bà là ai?” Ngũ Thứ Hữu mắt như luồng điện liếc nhìn A Tử.
A Tử thở dài một tiếng, tự tiện ngồi đối mặt, trầm ngâm rồi nói: “Cũng là người lưu lạc chân trời góc bể. Cảnh ngộ không giống, tâm tư khác nhau, hà tất nhất định phải biết tôi là ai?” Bảo Trụ ngồi bên liền nói: “Đây là Như phu nhân của Vương thế tử nhà tôi, Tử Vân cô nương.”
Nghe nói là vợ lẽ của Ngô Ứng Hùng, Ngũ Thứ Hữu hừ một tiếng cười gằn nói: “Một người như bà, mà viết được bài thơ như thế, quả có thể xem là một việc kỳ lạ. Hoặc là bà thân thế buồn khổ không tiện nói ra, hoặc là một người đàn bà đại gian đại ác số một thế gian!”
Tử Vân nghe câu nói im lặng hồi lâu, ánh mắt trong suốt như nước hồ lạnh buốt nhìn Bảo Trụ trong khoảnh khắc, đôi môi hơi run. Bảo Trụ đã mấy lần nhìn bà trong trạng thái tình cảm như thế này, thấy bà lại nhìn thẳng mình, vội cúi đầu quay mặt đi, liền nghe A Tử đổi giọng, cười nói: “Ngũ tiên sinh, ông chắc muốn nói tôi là Trụ Đát Kỷ, Hán Phi Yến, Đường Võ Chiếu, tôi đều nhận. Còn thân thế tôi thế nào, không ai biết được, dù sao cũng không can hệ gì đến ông!”
“Vốn là không can hệ gì!” Ngũ Thứ Hữu khinh bỉ liếc nhìn Tử Vân, “Nhưng bà lại không biết xấu hổ đến bắt chuyện! Nam nữ thọ thọ bất thân, xin chớ có mở miệng!”
A Tử mặt đỏ đến tận mang tai. Với sắc đẹp, tài hoa của mình, không biết bao nhiêu chàng trai quỳ gối dưới váy. Bà cũng đã từng trải sự đời, dưới mắt bà toàn là ánh mắt bấn loạn điên đảo thần hồn của cánh đàn ông, người hơi mất tự nhiên một chút thì cũng kể là chính nhân quân tử rồi, bà chưa hề bị người ta ghét bỏ như thế này. Im lặng một lúc, Tử Vân bỗng bật cười khanh khách: “Hay, một người quân tử trong trắng, nhận Di Địch làm vua, cha, làm nô tài cho giặc Thát Đát, lại mặt dạn mày dày dẫn dụng lời Khổng Phu Tử! Khổng Tử dưới Cửu Tuyền có biết chắc cùng xấu hổ mà chết!” Hoàng Phủ Bảo Trụ cũng cười nói: “Lệnh tôn Ngũ Trĩ Tốn lão tiên sinh chẳng đã từng là thần tử của nhà Minh đó sao?”
“Lại nữa! Ông cụ cũng không làm quan bản triều!” Ngũ Thứ Hữu bẻ lại một câu, “Tôi không phải là thần tử tiền Minh, cố nhiên là có thể dùng cho đương kim!”
Tử Vân cười lẩm bẩm: “Đương kim quả rất coi trọng ông! Triều đình không dung nổi, cho đi giang hồ để hưởng cái phúc thanh cao...” Một tên công sai râu quai nón bên cạnh nặng nề tiếp lời, nói: “Mày cam làm chó săn cho giặc Mãn Thát Đát, chúng ta trừng trị mày không có gì quá đáng! Nên sớm quay về Vương gia, tham gia sự nghiệp phục Minh!”
Ngũ Thứ Hữu im lặng nghe bọn họ nói mồm năm miệng mười, ông vươn vai ngồi thẳng dậy, nói thâm trầm: “Đại Minh mất nước đã hơn hai mươi năm rồi! Đạo vua vô thường, duy người có đức làm vua, đạo trời vô thường, duy kẻ có đức được giúp; dân không hai chủ, hiện nay chỉ có Khang Hy; thần không hai trời, chúng ta chỉ có thể ai lo phần ấy! Cái đạo lý này đàn bà tiểu nhân sao biết được?”
“Di Địch có vua, làm sao Hoa Hạ không có!” Tử Vân bỗng cao giọng nói, không hiểu là bực tức hay xúc động, giọng bà hơi run run, “Có biết ai nói câu đó không?” Ngũ Thứ Hữu không chú ý đến bà, quay mặt nói với Bảo Trụ: “Chúng ta có duyên số biết nhau được mấy ngày, tôi xem ông không phải là người u mê cứng nhắc, làm sao lại nhắm mắt không thấy núi Thái Sơn? – Hoa Hạ bây giờ có vua, có điều vua là người Di Địch mà thôi, làm sao ông không hiểu?”
Bảo Trụ cũng nói khẩn thiết: “Ngũ tiên sinh, ông đọc nhiều sách vở, cũng không phải là người tầm thường vô học, người Di Địch có thể làm vua Hoa Hạ, xin cho biết sách nào nói vậy?” Ông vốn không muốn tranh cãi với Ngũ Thứ Hữu, nhưng ông lại nghĩ, ông phải đưa Tử Vân vào kinh, Ngũ Thứ Hữu đành phải để thuộc hạ đưa về Vân Nam, nếu có thể thuyết phục trước ông ta được, thì đi đường thuận lợi nhiều.
“Cạn cợt!” Ngũ Thứ Hữu ngồi dậy cười to, hầu như không ngừng được, ông muốn được chết nhanh, không thể không chọc tức con người này.
“Ông cười cái gì?”
“Mạnh Tử! hiểu không – Mạnh Tử!” Ngũ Thứ Hữu nói to, giọng ông có hơi khàn khàn, “Mạnh Tử nói: Thuấn, là người đông Di; Văn Vương, là người tây Di!” Những người Di Địch này chẳng phải là Vua Thánh của Hoa Hạ sao. Ông có biết không?”
Mấy câu hỏi làm cho mọi người câm mồm trợn mắt, không còn tiếp tục nói chuyện được nữa.
Một hồi lâu, Hoàng Phủ Bảo Trụ mới lấy lại sắc mặt như cũ, ông cười bông lơn, nói với Ngũ Thứ Hữu: “Ngũ tiên sinh, tôi sớm ngưỡng mộ ngài tài cao. Hôm nay được cùng ngồi một chỗ, thật không dễ dàng. Nhân còn có rượu ngon Đỗ Khang, tiên sinh có chịu nể mặt cùng uống với chúng tôi một ly không?”
“Việc này có thể vâng lệnh.” Ngũ Thứ Hữu quả thật vừa đói vừa khát, lúc này tinh thần dần dần hồi phục liền muốn ăn uống, rồi cười nói, “Đã có nhã ý đãi khách, Ngũ tôi xin nhận mối thịnh tình!” Hoàng Phủ Bảo Trụ thấy người này thần sắc trong sáng thẳng thắn, mồm như dòng sông hiểm thao thao bất tuyệt, biết nếu cứ nói theo đề mục cũ thì tự làm nhục mình, bèn đứng lên sai người mang tới một cái bàn thấp, mời Ngũ Thứ Hữu ngồi ghế khách, để tên râu quai nón ngồi ngang tiếp, còn mình tự cầm đèn ân cần nói: “Việc đêm nay chúng ta mạo hiểm biết bao, Bình Tây vương mời tiên sinh không có gì ác ý, một là mong tiên sinh chỉ bảo; hai là nếu được, mời tiên sinh lên núi trợ giúp. Còn đạo lý Hoa Di không nói nó nữa. Cuối cùng ai giữ được thiên hạ, thì phải xem lòng dân hướng về hay quay lưng lại!” “Bảo ông ta bỏ đi cái ý đó thôi!” Ngũ Thứ Hữu vừa ăn vừa nói. “Ngô Tam Quế là cái thứ gì có đáng để tôi nói những lời này? Người đáng buồn nhất không có gì bằng không sáng suốt tự biết mình; không sáng suốt tự biết mình, thì làm sao có sáng suốt mà biết người? Đương kim là Vua thánh của thiên hạ, Ngũ Thứ Hữu là người áo vải, hứa với lòng phải đền đáp, những lời này xin đừng nói nữa.”
“Lời này của tiên sinh có lẽ hơi quá.” Hoàng Phủ Bảo Trụ đặt chén rượu xuống bàn, trầm ngâm, nói, “Khổng Tử mười lăm tuổi mới có chí học, còn bây giờ Hoàng thượng mới có mười sáu tuổi có đáng gọi là “Vua thánh” được không? Từ năm Thuận Trị thứ mười bảy đến nay, hạn lụt liên miên, tai biến khác thường, đó đều là điềm nói lòng dân, lòng trời đều không thuận.”
“Còn gì nữa?” Ngũ Thứ Hữu ăn uống thong dong, lại hỏi.
“Chu Tam Thái tử tụ tập tín đồ Chung Tam lang đến hơn một triệu, khởi sự chỉ nay mai.” Bảo Trụ lại nói, “Trước mắt khói lửa trung nguyên cũng sẽ nổi lên, Khang Hy không còn lâu nữa rồi!”
“Ông nói quá nhiều.” Ngũ Thứ Hữu hỏi. “Rốt cuộc con người Khang Hy, bản thân triều đình hiện nay có gì thất đức?” Lòng ông ngầm tiếc rẻ, bây giờ mới biết mối quan hệ dây mơ rễ má của tà giáo Chung Tam lang và Chu Tam thái tử, sợ e không báo được tới Khang Hy.
Triều đình – Khang Hy có chỗ nào thất đức, Hoàng Phủ Bảo Trụ chưa hề nghĩ tới, tìm cho ra chỗ Khang Hy thất đức thật không dễ, trong khoảnh khắc Hoàng Phủ Bảo Trụ nghẹn họng.
“Ngô Tam Quế quả thật là ngu không gì bằng!” Ngũ Thứ Hữu cười nói, “Hồi trước nếu ông ta không dẫn quân Thanh vào Quan Trung, làm gì có chuyện thiên hạ Đại Thanh như ngày nay? Thiên hạ Đại Thanh đã định, lòng người đã thay đổi, ông ta lại muốn chống Thanh; Nhà Minh trước không xử tệ với ông, ông lại cố giết Hoàng đế Vĩnh Lịch, hạng người không trung, không hiếu, không nhân, không nghĩa, trên không trọng lẽ trời, dưới không thuận tình người, sấp ngửa vô thường, không biết liêm sỉ như vậy, thế mà vẫn có người đi làm thuyết khách cho ông, tô son trát phấn cho ông, thì quả thật là một sự kỳ lạ trong trời đất này!”
“Tiên sinh…” Bảo Trụ không hiểu được lòng mình có cảm giác mùi vị gì, đành chỉ rót rượu mời Ngũ Thứ Hữu, để che đậy sự trống rỗng nội tâm, vội nói, “Mời – mời, thức ăn nguội cả rồi!”
“Mới nghe đã biết Bảo Trụ tiên sinh là người có đọc sách.” Ngũ Thứ Hữu đã ăn no, cũng không có lòng nào nói tiếp nữa, bưng chén rượu đứng lên uống một hơi cạn, cười to hỏi: “Ông có biết một câu nói “cái sai của một ý niệm”, “một ý niệm” tốn biết bao công sức?”
“Biết bao công sức” Bảo Trụ kinh ngạc hỏi, ông không hiểu vì sao Ngũ Thứ Hữu đi xa đề vạn dặm như vậy.
“Một ngày đêm bốn vạn ba ngàn hai trăm ý niệm!” Ngũ Thứ Hữu nói, “Ông có nghe nói tới bài thơ Áo dính dầu chưa?”
“Chưa.” Bảo Trụ càng lạ lùng.
“Hồi nhỏ tôi đã thấy nó ở bến đò Bạch Sa Hoành Châu.” Ngũ Thứ Hữu ngâm lên:
Một chấm dầu trong bản áo ai, loang loang lổ lổ khiến nghi hoài.
Tha hồ giặt sạch mười sông nước, tranh tựa thời này không bẩn thay!
Ngâm xong lại hỏi: “Ông đã thấy khí tiết của sĩ phu trong nước chưa?”
“Cái gì?” Bảo Trụ và người râu quai nón lại ngẩn người, dưới ánh trăng nghe “ầm” một tiếng Ngũ Thứ Hữu đã nhảy xuống giữa dòng sông!
Không ai nghĩ là ông nhảy sông tự vẫn như thế, đứng đực ra một hồi, Bảo Trụ và người râu quai nón lớn tiếng hô hoán, ra mạn thuyền xem, sóng nước loang loáng, màn đêm mù mịt, thấy đâu bóng người? Tên râu quai nón định nhảy xuống nhưng mới thử nhúng tay vào, nước lạnh thấu xương, không thể nào xuống được. Đang bấn loạn, A Tử cũng vén rèm bước ra đi tới mũi thuyền như có vẻ sợ ngã, đưa mắt hốt hoảng nhìn về phía xa, giọng run run hỏi Bảo Trụ bên cạnh: “Như vậy là... nhảy xuống... rồi hả?”
Bảo Trụ không đáp lời. Ông đứng trước mũi thuyền, sững sờ nhìn những con sóng hung dữ, im lặng thở dài: “Đáng tiếc!”

