Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 17
17
Gái nghèo trị đói quán Giang Triết
Sĩ tử giúp đời buồn vận đen
Châu Bồi Công đi thi Hội không đỗ, một bầu máu nóng hào hùng bỗng chốc hóa thành sương lạnh. Vốn là tam trường thuận lợi, cảm thấy văn mình màu sắc rực rỡ, chẳng có lý gì mà hỏng, không ngờ chữ “huyền” trong thơ không viết chệch đi, coi như phạm húy tên Khang Hy. Như vậy, sách luật bát cổ có hay mấy cũng uổng công. Quyển bị niêm, mất hứng rời trường thi, cảm thấy phố xá kinh sư bỗng trở nên lạ lẫm xa vời, một màu mịt mờ, âm u, lạnh giá. Các hòa thượng, khách hành hương như biết được nỗi lòng đều nhìn anh với ánh mắt thương tình, lại như có vẻ chế giễu. Anh cảm nhận được không phải là sự khổ đau, xấu hổ, nếu quả như vậy thì cứ khóc liền một hồi là nguôi dịu thanh thản ngay. Anh cảm thấy mọi người chung quanh đối với anh như có vẻ gì lạnh nhạt đến tàn nhẫn, lòng cứ như chìm trong nước băng, lạnh đến thấu xương, lạnh...
Mãi tới mùa thu, tinh thần anh mới chuyển biến tốt, nhưng tiếp theo là một trận bệnh lớn, may mà người trụ trì chùa tinh thông nghề thuốc chữa trị kịp thời. Đến mùa xuân năm sau mới đi lại được, có điều, người gầy như que củi. Nhưng trận bệnh đó lại hóa tốt, nằm trên giường gặm mấy cái “bánh nướng” cuối cùng anh đã nghĩ ra: từ xưa những người thành đạt nghiệp lớn, có mấy ai nhẹ bước đường mây mà không trải qua mấy hồi thử thách gay go, vất vả rèn luyện? Bản thân mình đơn độc vào kinh, “tay không trải qua trận chiến văn chương, khấp khểnh bước trên con đường danh lợi”, một sự thất bại cỏn con không chịu nổi thì còn nói gì đến việc lập nghiệp giúp đời?
Nhưng trong người lúc này không còn một xu dính túi. Sáng sớm, nghe tiếng chuông chùa vang lên, Châu Bồi Công bỗng nhớ hôm nay là ngày tết Đoan ngọ, liền vội vàng thức dậy, ra giếng phía sau vườn rau rửa ráy, lấy tinh thần vào thành một chuyến – ở hẻm Lạn Diện có mấy cái hội quán, ở đó nhiều người có tiền, không chừng gặp được người đồng hương quen biết.
Đi tới con hẻm Lạn Diện, đã gần giờ Ngọ. Nơi đây tuy nhà cửa thấp bé, đường phố cao thấp không bằng nhau nhưng vô cùng náo nhiệt, từ xa đã nghe tiếng rao bán thịt gà rang muối, vằn thắn, bánh đúc đậu chiên... Hai bên dãy phố hẹp, bày la liệt các quầy hàng nhỏ, thứ gì cũng có bán: đồ vàng ngọc cổ, đồ kim chỉ, quần áo cũ, vải lụa, đồ chơi đất nung, đồ sứ, tranh chữ của các danh nhân, đoán chữ coi quẻ, giang hồ bán thuốc... Lúc này Châu Bồi Công đã thấy bụng kêu cồn cào, những món ăn dọc đường bốc mùi thơm phức vô cùng hấp dẫn. Châu Bồi Cồng nuốt nước miếng, chen qua một con hẻm nhỏ, thấy cửa một tòa nhà không lớn, vừa như miếu vừa như phường, trên treo hai tấm biển dát vàng, một tấm đề “Tương Ngạc hội quán”, một tấm đề “Giang Triết đồng nhân tụ”, liền mạnh dạn bước vào.
Bên trong người rất đông, tình hình không khác mấy với bên ngoài, chỉ khác không bán thứ hàng hóa gì ngoài thức ăn. Bọn hầu bàn, đầu đầy mồ hôi, bưng khay, hô to tên món ăn, rộn rịp đưa cơm đưa thịt vào những căn nhà nhỏ hai bên chái. Sát cửa có một gánh tàu hũ, mùi đậu từ trong thùng xông ra từng luồng thơm phức. Một cô gái ngồi bên gánh hàng dáng vẻ thẹn thùng, không giống những người cao giọng rao to, nhưng hấp dẫn khách hàng. Có hai người khách một già một trẻ đang ngồi ăn tào phớ. Gần bức tường có một người ngồi xem ông thầy đoán chữ đoán cho người ta nhưng không ngừng liếc nhìn Châu Bồi Công đang bước vào. Châu Bồi Công không chú ý, chỉ liếc nhìn bát tào phớ trắng như tuyết, đi lẫn trong đám người vào trong, bỗng cô gái kêu to lên:
“Ân nhân!”
“Hả! là cô đấy à?” Châu Bồi Công quay đầu nhìn, đúng là cô gái bị người nhà Lưu Nhất Quý làm nhục ở cửa Chính Dương, bèn cười nói: “Tôi mà là ân nhân cái gì... Té ra cô buôn bán ở đây?”
“Cha tôi bị bệnh mới đỡ một chút chưa dậy được.” Cô gái đỏ mặt, múc ra một bát to tào phớ, bỏ thêm đường, ngượng ngùng đặt lên bàn nói nhỏ: “Xin ân nhân dùng một chút, quả thực chẳng có gì tốt hơn – té ra khoa này ngài...”
Châu Bồi Công lúc đó cảm thấy nghẹn ngào, không biết là mùi vị gì, đắng, cay, chua, chát đều gồm đủ, không biết nên phải làm gì: “Xấu hổ vô cùng...”
“Có gì mà xấu hổ?” Cô gái nói nghiêm túc, “Con người lớn lên đều nhờ ăn lúa gạo lương thực, lại không phải là thần tiên, muốn gì được nấy – Lữ Mông còn đi ăn xin nữa là – ăn bát này trước, em đi mua hai cái bánh nướng...”
Một bát tào phớ nóng, hai cái bánh nướng lót dạ, Châu Bồi Công toàn thân nóng hôi hổi, liếc nhìn cô gái thấy cô đang rửa chén bát sắc thái tự nhiên, anh đứng lên áy náy hỏi: “Cô gái, cô tên gì, nhà ở đâu, cho tôi biết được không?”
“Em tên A Tỏa, nhà ở tại cửa bắc con hẻm – Còn ngài?”
“Tôi là Châu Bồi Công, tôi hiện nay nghèo buồn suy sụp, phiêu dạt bốn phương...”
Anh nghẹn ngào, im lặng. Cô gái lặng lẽ mở bọc tiền, bên trong đại khái có mấy chục đồng điếu, đổ cả ra, chồng lại đặt trên bàn, ngập ngừng một lúc, rút chiếc trâm bạc trên đầu đặt lên chồng tiền, ngượng ngùng nói: “Lòng dạ của ân nhân, thần phật nhất định phù hộ. Bây giờ khó khăn cũng chẳng đáng sá gì, chúng tôi con nhà nghèo, không có bao nhiêu, chút xíu này... xin nhận cho, ráng sức chăm chỉ, khoa sau nhất định đỗ...”
“Không không không!” Châu Bồi Công hốt hoảng nói, “Cái này không được?”
“Có đáng gì nào,” cô gái áy náy nói, “ngài chối bỏ, thì em...”
Châu Bồi Công máu trong người sôi lên, bước tới cầm chiếc trâm và nhặt một đồng tiền cho vào túi, anh xúc động, giọng có hơi run: “Chị nhỏ, tôi nhận! Chiếc trâm và đồng tiền này làm chứng, nếu chưa chết thì nhất định sẽ đáp đền!” Nói xong bước đi không quay đầu lại.
“Chị nhỏ, anh thanh niên lúc nãy chị không quen biết, vì sao gọi là ân nhân?” Cậu thiếu niên ăn tào phớ bên cạnh thấy lạ hỏi. A Tỏa liền kể lại một lượt chuyện cô bị người nhà Lưu Nhất Quý làm nhục ở cửa Chính Dương.
“Ôi, anh ta là nam nhi cương trực, chị là một cô gái tốt bụng.” cậu thiếu niên ăn tào phớ đứng dậy, nói, “Đây tặng chị!” Nói xong đặt lên bàn một vật như tiền mà không phải tiền. A Tỏa nhặt lên nhìn thì là một quả dưa vàng!
Cậu thanh niên đó chính là Khang Hy, đã dẫn Đồ Hải đi dạo một vòng xem Tết Đoan ngọ tình cờ gặp chuyện Châu Bồi Công. Việc này lại thu hút lòng hiếu kỳ của Khang Hy, thấy Châu Bồi Công đã quanh ra sân sau định đi theo, vừa quay mặt lại, thấy người đoán chữ ban nãy còn đứng đó, đầu đội mũ thêu hoa vàng ba cành chín lá. Biết đó là một tiến sĩ đang đợi tuyển, Khang Hy đi tới người đó, đột nhiên hỏi: “Tôn giá tên họ gì, ở đâu?”
“Có chuyện gì sao?”
“Hả, không có chuyện gì, thấy ngài rất tôn quý, hỏi vậy thôi.”
“Không việc, thì đi chơi đi!” Người đó sốt ruột nói, rõ ràng là cảm thấy người thanh niên này không hiểu ra sao cả. Đồ Hải thấy Khang Hy biến sắc, vội tiến tới nói: “Đây là chủ nhân chúng tôi, cậu ấm Long xin cho biết tên họ, không ngoài ý muốn kết bạn...”
“Lý Minh Sơn!” người đó nghển cổ nói, dáng trông hệt như một cái ấm đồng mới chùi bóng.
“Người vừa mới đi vào ngài có biết không?” Khang Hy đã thấy anh ta dán mắt nhìn Châu Bồi Công rồi quay đi nơi khác, đoán chắc anh ta có biết Châu Bồi Công nên cố ý hỏi.
“Biết, làm sao không biết được?” Mặt Lý Minh Sơn tỏ vẻ chế giễu, nói xóc hông, “Danh sĩ đứng đầu hội văn chùa Pháp Hoa đó, tam phần, ngũ điển, bát Sách, cửu Khâu, Hà đồ Lạc thư, kỳ môn độn thân, kinh sử tử tập, không có môn nào không thông, không có môn nào không hiểu, mà lại nói năng hùng hồn thuyết phục, một lời kinh động mọi người – đáng tiếc chỉ là một cái thùng phân bằng gỗ đàn hương!”
“Sao nói như vậy?” Khang Hy cười hỏi.
“...Đáng tiếc cho chất gỗ.” Khi hội văn, Lý Minh Sơn bị Châu Bồi Công chọc quê, bây giờ anh ta nói thả cửa, ra sức châm chọc, “Tiêu Hà, Trương Lương văn thao võ lược, Tô Tần, Trương Nghi có tài miệng lưỡi cũng chỉ đến Đông Thanh đi sứ, năm sau đi thi lại, nếu gặp tôi làm giám thị phòng thi, đó mới là kiếp này báo ứng kiếp này!” Nói xong vui vẻ cười lớn.
“Ngài chưa chắc làm được giám thị phòng thi của anh ta.” Khang Hy gượng cười nói, “Ngài có được chọn hay không cũng còn chưa chắc!”
“Tôi khẳng định là được.” Lý Minh Sơn nói, “Minh tướng đã hứa với tôi rồi – anh chắc cũng là một người hỏng thi, sốt ruột đỏ mặt?”
Khang Hy cười nhạt nói: “Tôi nói chuyện luôn luôn cay độc, cho dù ngài tốn bao nhiêu tiền, luồn vào cửa nhà ai đi nữa, tôi bảo ngài phát mả giàu sang không được là không được – ấn đường của ngài tối, mắt quầng đen, sắc mặt xúi quẩy, không chừng cái tiến sĩ của ngài mất tiêu cũng nên!” Nói xong bèn bảo Đồ Hải: “Ta đi xem cái anh tú tài khốn đốn kia đi!” Nhà vua vốn chỉ động lòng trước cảnh nghèo nàn buồn chán của Châu Bồi Công, không mất đi cái phong độ người quân tử, nghe Lý Minh Sơn giới thiệu một hồi, càng nên xem xét kỹ lưỡng thêm.”
Châu Bồi Công quanh qua sân sau, ngước đầu nhìn mặt trời, thấy đã quá Ngọ, nghe phòng trên tiếng người ồn ào, hình như đang ngâm thơ, làm từ, anh lại gần cửa sổ nhìn, mấy người buôn muối và những danh sĩ thi xã Hương Sơn ở kinh sư đang chơi lên đồng viết chữ. Trên chiếc bàn bên cạnh đặt một tấm vóc lụa với hai trăm lượng bạc tạ thần. Anh vừa đẩy cửa bước vào thì bị một người ăn mặc như trưởng tùy ngăn lại: “Tiên sinh, ngài là ai? Quan lớn Lưu Bính Thần đã bao hết chỗ này rồi, mời các đại gia nổi tiếng...” Lời chưa dứt, Châu Bồi Công đã hai tay đẩy vào, hai cánh cửa mở toang ra, anh sải bước đi vào, hai tay nắm lại chào nói: “Vị nào là tiên sinh Lưu Bính Trung?”
Các danh sĩ đang chơi lên đồng đều ngạc nhiên. Một cụ già râu dê, ngồi giữa khoảng sáu mươi tuổi, nghiêng người hỏi: “Lão đây là Lưu Bính Trung, túc hạ người ở đâu, đến đây có việc gì?”
“Tôi là Châu Bồi Công, học trò nghèo ở Ngạc Trung!” Châu Bồi Công nắm tay chào, nét mặt tươi cười hớn hở. “Học được chút ít trò lên đồng viết chữ, hôm nay thấy khách khứa đầy phòng, cầu thần giáng hạ, bất giác ngứa nghề, xin tới góp vui.” Mấy vị danh sĩ thấy Châu Bồi Công dáng hình lạnh lẽo co ro, cho là anh ta mượn danh tới tống tiền, bèn tảng lờ phe phẩy quạt. Các nhà buôn muối thấy Châu Bồi Công ăn mặc rách rưới, nhưng khí phách hiên ngang, không dám coi thường. Lưu Bính Trung giơ tay mời, cười nói: “Đã đến thì coi như có duyên số. Ở đây bàn cát lên đồng viết chữ đã đầy đủ, người nào mời được nhiều thần tiên, bạc sẽ thuộc về người đó – hiện giờ còn chưa thỉnh được thần tiên tới!”
“Không mời được thần tiên xuống đàn, thì sách bùa không linh, sách bùa không linh vì lòng không thành khẩn.” Châu Bồi Công cười, quay đầu liếc nhìn Khang Hy và Đồ Hải vừa bước vào, nói tiếp, “Xin chư vị giữ lòng thanh tịnh, đợi tôi thỉnh thêm mấy vị thần tiên xuống đàn!” Nói xong sải bước tới trước đàn thần, khom người sát đất, viết ngay ngắn một chữ “nhất” nắm trong tay nói: “Khổng Tử nói đạo ta lấy nhất quán xuyến, bùa này chuyên thỉnh văn nhân học sĩ, chư vị mắt tỏ hôm nay có thể xem mấy bài thơ từ!” Vừa nói vừa đốt chiếc bùa, đứng trước đàn sai đồng. Cây bút đồng lay động, rồi vẽ nhanh như bay trên sa bàn, rằng:
Thuyền côi sông lạnh mái chèo ngang, khuấy nước hoa lau trắng mép sông
Hướng tới mây xanh không thấy cửa, trở về cát trắng muốn yên lành.
Vô tình cây cỏ vô tình biếc, cố ý mây xanh cây cũng xanh.
Lái vững dù sao tai chửa điếc, mạn thuyền không rõ tiếng kêu rành.
“Hay!” mọi người đều vỗ tay tán thưởng, thì thấy bút gỗ viết là:
Ta là Khang Đối Sơn đó vậy!
Khang Đối Sơn đỗ trạng nguyên vào năm Hoằng Trị nhà Minh trước, văn chương lừng tiếng một thời, anh hàn nho Châu Bồi Công này bỗng chốc đưa ra nhân vật lớn thế này, các danh sĩ và nhà buôn muối bỗng chốc cảm thấy kính nể, đều quỳ xuống đất khấn: “Điện nguyên lời đẹp ý hay, đã thấy một điểm, cầu xin chiếu cố tất cả.”
Châu Bồi Công tỉnh bơ, cây bút lại vẽ nhanh:
Bài thơ cũ đã mất đi một nửa, xin hiến ba bài Nhạc phủ mới Dương Châu, xin chỉnh cho.
Mấy vị buôn muối bỗng kinh ngạc, năm danh sĩ Hương Sơn huyênh hoang thỉnh nửa ngày cầu tiên tổng cộng mới làm được hai bài. Người này thỉnh được Khang Đối Sơn, đã được hân hạnh như vậy! Đang còn tán tụng thì cây bút đã múa lên:
Vay nợ thần, vái lạy thần, thần tài cho tôi cái lạy ngàn vạn, không làm quan nhàn, không làm nhà buôn, mua được chim non để ca múa. Chim non ca một bài, vàng chất đầy nhà. Chim non múa một chặp, gấm Thục chất cao như vũ đài! Đuốc hồng lay động đêm xuân ngắn, tan nát cơ ngơi muôn vạn nhà. Tan nhà phá sản đừng buồn khổ, đã có thần tài đứng chủ vay!
Viết tới đây, cây bút gỗ dừng lại, các danh sĩ vội chạy tứ tung tranh giành bút nghiên, trải giấy mài mực, sao lại từng câu một.
Châu Bồi Công ngửa mặt thở ra, im lặng. Các danh sĩ tấm tắc khen, trích từng câu từng đoạn ra bình luận; các nhà buôn muối, có người vỗ tay hòa theo, có người thấy Châu Bồi Công mệt rồi liền bưng trà tới. Khang Hy xem say mê, thấy trên bàn thần có một ông bụt đất ngả nghiêng, liền chỉ vào nói: “Xin thánh tiên lấy vật này làm đề!”
Châu Bồi Công cười gật gật đầu, cây bút gỗ lại vẽ tiếp:
Từ nhỏ ta học nghiệp nho, không giỏi điển cố, không chịu đại sư cùng đến, mời anh nắm dao làm hộ.
Hơi dừng một lát rồi viết tiếp:
Cư sĩ Đối Sơn lắm chuyện thay! Sư già xưa nay không rành việc ấy. Đã vâng lời viết thay lại nhờ Đối Sơn thay mình chịu vu oan...
Lần đi chuyến biển hồi trước, sóng gió đánh gãy bục giảng kinh. Năm tới thuyết pháp không hình tướng nguyện chủ ao sen thay chén rượu, sương giọt bồ đề vào chén rượu, say ngả giường thần chưa hả giận. Tính ra cười cợt bao tay phật, uống cạn được Tây Giang chỉ một hơi? Cô bốn Tiều đến rồi, người xuất gia đành lánh mặt.
Cây bút lên đồng lặng yên hồi lâu, rồi lại vẽ lên một mâm rồi một mâm, mọi người chép theo, đọc lại thấy:
Hòa thượng si tình quen trốn nợ văn chương, kiếp này sống hóa thân phận gái. Phòng khuê nhàn nhã trò nghiên bút để cho đàn ông bẩn thỉu bên ngoài xem? Hay sao cho họ một bài của học sĩ họ Khang…
Hoa cỏ ngọc ngà mọc đầy gò đất, gió núi trùng trùng ở Việt Đông. Cuốc thơm sương ướt đẫm, giỏ nhỏ đựng đào mây, biết ai là tri âm? Nửa đời buồn khổ không người biết. Không người biết, tiên sinh chỉ ra đường Sơn Choang: Ta họ Liễu, sao không buông câu khe Ngu? Tự là Đông Ly sao không nghiêng nước tưới cúc, suốt ngày đi ra khe trước, hái mầm ngọc; men bờ thơm, tìm cỏ hương. Một dòng nước uốn quanh viền núi, bước chân đi mòn lối bao lần. Không phải ta phí công lao tìm khổ tìm sầu, nợ rượu nợ thơ, hồ hải ngao du – Rơi vào cảnh Tống Ngọc sầu, Văn Viên bệnh, mái tóc xác xơ! Bỏ giọng ngâm, cắm mốc hoa, thôi cải trang, há chẳng thấy Kê Khang lười sống trên đời vô hiệu, Hoàng Công già vào hang trốn uổng công? Cửa son rượu thịt no say mấy vạn nhà, có mấy người thuộc hàng phòng nhã? Tựa cầu vồng, nghe sáo ngọc; đi thuyền hoa, khua chèo tiên; ở nhà quan, ngâm thơ mới nghĩ, núi sông nhà cũ sao âm điệu an nhàn? Nhảy khỏi vòng sầu muộn, thì trở thành phật tiên; giải được câu đố câm này, nhất định làm tiên sinh cười bò ra!
Mọi người lúc này đã lóa mắt mê hồn, ngửa nghiêng điên dại, Châu Bồi Công viết một câu, mọi người chép một câu, khen một câu, có người còn lấy giọng ngâm nga, có người chặc lưỡi khen ngợi. Khang Hy thấy hai mắt Châu Bồi Công tràn đầy nước mắt, bất giác đưa mắt nhìn Đồ Hải. Đồ Hải đang chăm chú nhìn Châu Bồi Công một cách ngưỡng mộ, thấy Khang Hy nhìn mình liền khe khẽ nói:
“Đây không phải của Khang Đối Sơn rồi, mà chính là vị Chu tiên sinh tự thuật nỗi lòng mình.”
Lời Đồ Hải chưa dứt, Châu Bồi Công đã ném giá lên đồng, ngước nhìn trời cười ha hả, cười to làm mọi người trong phòng sửng sốt. Châu Bồi Công bỗng nói to: “Trên đời chỉ có bọn tiểu nhân nham hiểm, người quân tử buồn chán, làm đếch gì có thần tiên? Mấy bài thơ tồi này vốn là kẻ bất tài này làm lại lừa được một đám đông người học rộng biết nhiều!”
“Ông bị ma ám rồi!” Lưu Bính Thìn hốt hoảng vội kêu, “Mau đốt giấy đưa Khang Điện Nguyên về phủ!” Vừa nói vừa gục lạy.
“Khang Đối Sơn xương đã mục rồi còn làm thơ được sao?” Châu Bồi Công cười điềm nhiên, rút trong túi ra một tập bản thảo nói, “Kẻ bất tài còn tập bản thảo đây, muốn trình cho các vị xem!”
“Sao có chuyện như vậy?” Trong khoảnh khắc cả phòng cười rộ lên. Mấy vị danh sĩ, cầm tập thơ, vừa lật từng trang vừa ồn ào cười nói:
“Đây là thơ sao? Đây là nhân bánh chua của nhà nho nghèo!”
“Ở đây nên khắc một dấu đỏ!”
“Ở đây nên vẽ một gậy to!”
“Đây ... đây là cái gì?”
“Đấy là hạ khí thông!”
Bao nhiêu lời kỳ quái, miệng bới tay huơ, làm mấy nhà buôn muối ôm bụng cười ngặt ngẽo. Khang Hy lấy một chiếc ghế trong góc phòng ngồi xuống yên lặng quan sát.
Bỗng nhiên mấy vị danh sĩ im tiếng, nhìn nhau vô cùng ngượng ngạo – Họ đã nhìn thấy bài thơ mở đầu và bài nhạc phủ mới. Lật tiếp ra sau, bài nhạc của cô tư Tiều vẫn còn trên đó. Sau một hồi yên lặng khó chịu, Châu Bồi Công rút lại bản thảo thơ từ tay các danh sĩ sững sờ, ném phịch xuống bàn, cười nói: “Từ phú là con đường hẹp không đáng nói. Tôi tự cho mình là tài năng không chịu gò bó, học thành nghề nghiệp văn võ, phiêu bạt chân trời góc bể, vốn muốn được tung hoành phụng sự quân vương ở dinh rồng, không ngờ hôm nay lại tới đây – các vị cũng đừng nên xấu hổ, người đâu phải thánh hiền mà không có lỗi. Không phải gò đất chín châu làm sao biết được bò đực hay bò cái, ngựa ô hay ngựa hồng? Tập tục xưa nay đã vậy, Bồi Công đâu dám cầu toàn trách bị?” Mấy lời nói đĩnh đạc làm cho đám danh sĩ mồ hôi đầm đìa, khúm núm khó chịu. Lưu Bính Thìn cười to đứng dậy nói: “Hồ Bắc ta có nhân tài này, buồn chân đến kinh sư, không tiếp đãi chu đáo, đó là lỗi của tôi. Chu tiên sinh – mời ngồi, đưa trà ngon lên đây!”
Khang Hy thấy bọn họ người nào cũng xấu hổ đỏ mặt tía tai, dắt Châu Bồi Công lên ngồi ghế đầu, nhà vua đứng lên đi tới cầm bản thảo thơ, lật xem từng trang: phía trước là thơ từ, xem tới phía sau, còn có một số đồ họa, còn ghi một số ký hiệu, ráng sức xem hồi lâu, vẫn không biết là cái gì. Đồ Hải mắt lại sáng lên, nói nhỏ vào tai Khang Hy: “Chủ nhân, người này quả thật biết binh pháp, đây là bản đồ Hồ Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Thiểm Tây!” Khang Hy giật nảy mình, gật đầu nói: “Biết rồi. Khanh trở về sắp xếp nhé.” Đang định đứng lên đi, từ tập bản thảo rơi ra một tờ giấy, Khang Hy nhặt lên xem, tuồng chữ rất quen thuộc, trên viết:
Hiền đệ Minh Châu xem thư: Từ khi xa nhau đến nay, mạnh khỏe chứ? Từ khi xa nhau anh ở Trịnh Châu, trên đường đi về đông có dạy học, rất tốt. Chu tiên sinh Bồi Công đây là bạn của anh, có tài văn võ giúp đời. Em ở chức cận thần, được dịp có thể tiến cử lên chủ nhân thử dùng. Đừng có khen ngay.
Ngũ Thứ Hữu ở quán khách
Khang Hy xem thư tay run run: Người này mang thư tiến cử của Ngũ Thứ Hữu sao buồn chán như vậy, Minh Châu trong gang tấc mà không chịu vào nhà nhờ đỡ, cứ như cốt cách này thì anh chàng đúng là một quân tử phóng khoáng! Trong khoảnh khắc ông thay đổi ý kiến, quyết định triệu kiến ngay Châu Bồi Công. Khang Hy đặt trả lên bàn cả bản thảo và bức thư, im lặng đi ra. Nhà vua hít một hơi, nói với Đồ Hải đi theo sau: “Chúng ta đến quán trà bên kia ngồi một chút.”
“Chúa Thượng đợi họ Châu chăng?” Đồ Hải nói, “Chi bằng giao việc này cho nô tài...” Lời chưa dứt, Khang Hy đã sải bước đi rồi.

