Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 18
18
Nghe ca buồn, Thiên tử xót dân tình
Luận binh cơ, Bồi Công trổ tài kinh luân
Trong khoảnh khắc, Châu Bồi Công đã trở thành danh sĩ hàng đầu của hội quán Tương Ngạc (Hồ Nam, Hồ Bắc). Nhớ lại cảnh tình lúc đó, anh cảm thấy vừa tức giận, vừa buồn cười, lại vừa bất lực: Sự đời văn chương không người ngó, nhưng mấy bài thơ nhàn lại trở thành nguồn vốn kiếm cơm. Các quan giám khảo hồ đồ không biết nhận xét bằng các nhà buôn muối, sự đời thật là kỳ quặc! Anh nhận hai trăm lượng bạc và lễ vật do Lưu Bính Thìn tặng dâng cảm tạ thần từ phòng trên bước ra, một đám người chen chúc trước cửa nhà chắp tay từ biệt, ồn ào nói “lại đến nhé”, Châu Bồi Công mỉm cười bước xuống bậc thềm, vừa lo lắng cho A Tỏa, vội bước tới nhà trước xem thì gánh tàu phớ của A Tỏa đã không còn ở đó.
Châu Bồi Công đang lưỡng lự, thấy đám người chen nhau xem cái gì ở chỗ hành lang phía đông, anh cũng tới xem, thì là một đứa con gái chừng mười bốn tuổi, ôm đàn tì bà, đang so dây tính tính tang tang. Đôi mắt cô lấp lánh rất có thần sắc, còn ra vẻ con nít nhưng rất tự tin. So dây xong, cô nói một câu giọng miền nam đặc sệt: “Các vị quân tử...” Tiếng đàn tỳ bà vang lên réo rắt, cô lên giọng hát:
Tôi vốn gái nghèo ở chốn Tam Ngô, trên bờ Hồ Tây có nhà của tôi. Nhà không có vàng bạc lụa là, nhờ năm mẫu ruộng bạc màu sinh sống – Vạn dặm nước mây đường xa vời vợi, có mẹ già sáu chục tóc trắng chờ mong. Chưa đầy tuổi mười hai liễu yếu, tôi vào kinh, tình cảnh thảm thương!
Không phải A Hồng không hiếu nghĩa, không phải A Hồng bạc tình, A Hồng từ nhỏ biết đạo lý thánh hiền, nguyện học theo Đề Oanh triều trước!
Tiếp theo tiếng đàn nhanh nhanh réo rắt, người nghe đều đứng đực cả ra. Khang Hy ngồi trong quán trà, nhìn qua đám người thấy bóng Châu Bồi Công liền đi tới đứng bên Châu Bồi Công lắng nghe. Tiểu Hồng lại hát du dương:
Mồng ba tháng ba dương liễu xanh, đến chùa Linh Ẩn đi xem thánh. Bỗng có người đàn bà tội lỗi họ Ngô, tiền hô hậu ủng rất oai phong. Xe kiệu như mây, ngựa như rồng, gia nô lực lượng roi lăm lăm rất hung hăng, ba mươi bốn người đều rơi xuống nước, cha anh tôi phải bị chết oan...
Tiểu Hồng hát tới đây, giọt lệ to bằng hạt đậu lăn trên gò má. Người nghe chung quanh đều xuýt xoa. Khang Hy biết đang hát là chuyện người thực việc thực, tướng quân Hàng Châu năm ngoái đã có trát tâu lên cụ thể, nhưng Tri phủ Hàng Châu bê trễ dùng dằng để cho chánh phạm Ngô Mai và chồng Vương Vĩnh Ninh ung dung trốn lên Ngũ Hoa Sơn, triều đình không làm sao bắt xử được. Khang Hy nhớ lại việc đó, mặt như có lớp mây đen che phủ. Tiểu Hồng hát tiếp:
Em trai tuổi nhỏ không hiểu sự đời, nước mắt ròng ròng đi đấu lý. Người đàn bà họ Ngô hiếp người quá thể, nói ngông nghênh: “Mày có giỏi thì đi cáo Diêm vương, bà cô mày đợi mày đồ súc sinh nhóc con” – Đáng thương em trai mới chín tuổi, đập đầu vào đá máu hồng loang.
Châu Bồi Công nghe tới đây tóc dựng ngược lên, lớn tiếng hỏi: “Người đàn bà họ Ngô là ai? Đi tố cáo hắn!” “Quân tử ơi!” Tiểu Hồng kêu lên thê thảm, giọng hát càng thảm thiết căm thù:
Quan phủ ngang ngược dã tâm, Tam pháp ty, chú tôi đi đánh trống kêu oan, nghe nói cha ông ta họ Ngô là Vương gia – Linh hồn không biết nói năng, chạy đông chạy tây như chạy hết, lại bắt chú tôi nhốt vào tù! Nhà tôi oan ức không biết nơi tố cáo – Tôi ôm tì bà đến kinh thành. Tôi một không cáo quan, hai không kinh động Long đình, chỉ cần quân tử nghe cho rõ: Trên trời chỉ một mặt trời, nhưng sao một nước có hai triều đình, thóc thuế đã nộp vua dùng, bao giờ dẹp được bất bình mây đen!
Tiếng hát đến đây bỗng im bặt, đám người mải mê nghe đứng sững như tượng gỗ. Khang Hy mồ hôi ướt đầm, tưởng như có gai đâm ngứa ngáy sau lưng, một hồi lâu mới trấn tĩnh lại, vỗ vai Châu Bồi Công nói: “Châu tiên sinh, ta đi nói chuyện.” Rồi quay người dặn Đồ Hải: “Con bé này thu tiền rồi bảo qua quán trà bên kia hát cho ta nghe một đoạn.”
Châu Bồi Công lòng tràn đau khổ, cái vỗ vai đã làm anh tỉnh lại, quay đầu nhìn thấy chàng thiếu niên đã ngồi xem lên đồng liền hỏi: “Túc hạ người ở đâu, tìm tôi có việc gì?” Rồi ngập ngừng đi theo Khang Hy đến quán trà.
“Tôi họ Long tên Đức Hải.” Khang Hy mời Châu Bồi Công ngồi trước mặt, gọi hầu bàn bưng ra hai chén trà, cười nói: “Vừa rồi ở nhà lớn thấy túc hạ tài cao tám đấu, thơ át cả đám anh tài, vô cùng ngưỡng mộ, nên đặc biệt mời lại nói đôi lời mong được thể tình.” Châu Bồi Công cười như mỉa mai, nói: “Tôi không làm gì có tám đấu, tôi chỉ là ăn mày văn; bọn họ cũng không phải là đám anh tài, chỉ là một bầy chó văn mà thôi! Đó đâu gọi được là thơ, cho một mồi lửa là tốt!” Khang Hy kinh ngạc hỏi: “Vì sao vậy?”
“Thơ nói chí, ca vịnh lời.” Châu Bồi Công cười chua chát, “Một trăm bài thơ của tôi không bằng một bài hát quê mùa của con bé!” Nói đến đây, anh đau khổ cúi đầu nói, “Huống hồ, trong lúc thiên hạ lắm chuyện, đúng là lúc anh kiệt vỗ bàn đứng lên lập công dựng nghiệp, thì tôi lấy mấy bài thơ âm điệu chua chát đi đấu với đám danh sĩ hạ lưu phương bắc để giành thắng bại, đổi lấy miếng cơm ăn, hỏi là cái kiểu gì vậy? Nghĩ lại hối hận vô cùng, làm sao xứng với lòng ngưỡng mộ của anh Long?”
Khang Hy không ngờ anh ta tự chỉ trích mình như vậy, lòng buồn không yên, lại không an ủi được, bèn nói: “Thi Hội khoa này vì sao anh bị truất?”
“Xấu hổ, phạm Thánh húy.” Châu Bồi Công liếc nhìn Khang Hy, thấy chỉ khoảng mười bảy, mười tám tuổi thôi, thần thái tốt đẹp, cử chỉ chững chạc phóng khoáng, mặc chiếc áo lụa xám, như một người bình thường trong cờ, không hiểu vì sao lại hỏi câu này. Châu Bồi Công thấy Khang Hy như không có ác ý, bèn than thở: “Văn chương không phải số, chỉ nhiều đi một cái chấm, làm sao được?”
Khang Hy bỗng bật cười, nói: “Ông quan chấm thi này cũng không biết thông cảm chút nào, giúp điểm thêm một chấm là được chứ gì?” Châu Bồi Công nói: “Đương nhiên cũng có người làm như vậy, nhưng đó là người tiếng tăm, gia đình quyền thế có được báo trước, tôi không được như vậy, cũng không đáng làm như vậy.” Khang Hy liền nói: “Quả cũng có như vậy – nhưng anh bụng một bồ sách quý tại sao không dùng?”
“Một bồ sách quý!” Châu Bồi Công hỏi. “Bồ sách quý nào?”
Khang Hy trừng mắt nhìn Châu Bồi Công, nói có nhiều ẩn ý: “Người nhận thư Minh Châu là cận thần tin cẩn bên cạnh đương kim Thiên tử, nói tất nghe, kế tất theo: người viết thư Ngũ Thứ Hữu là người thầy áo vải của Thiên tử, một lời nặng bằng chín đỉnh. Hạng tổng đốc tuần vũ cũng khó được ông viết thư tiến cử, tại sao anh không chuyển thư?”
Châu Bồi Công thất kinh ngước đầu lên, đây là lần đầu tiên mình nghe nói tư cách chân thực của Ngũ Thứ Hữu, nhưng không hiểu vì sao anh thanh niên này có thể biết tường tận như vậy, anh suy nghĩ một lát rồi cười nói: “Đại trượng phu nhận công danh phải quang minh lỗi lạc, chỉ có thể nhận trong cái thẳng, không thể cầu trong cái cong. Tôi há chịu khom bảy thước mà uốn lưng trước quyền quý?”
“À.” Khang Hy cười như đang nghĩ điều gì, “Chí khí của anh vượt hơn mức bình thường so với sĩ phu thời nay rồi – Vừa rồi khi lên đồng, nghe anh nói hình như anh chẳng những giỏi văn, việc võ cũng rất cừ chứ?”
“Bạt núi, vác đỉnh tôi không làm được.” Châu Bồi Công nói. “Nhưng từ nhỏ tôi học thuộc binh thư, xem thiên tượng, rành địa lý, biết gió mưa, dùng cổng lạ, thực tình cũng biết chút ít.”
“Tiên sinh học thuật giết rồng, nhưng không có đất dụng võ.” Khang Hy nghe anh khẩu khí lớn, bèn cười nói giọng hơi bông lơn. “Há chẳng có lúc văn đi lạc đề? Huống chi hiện nay thiên hạ thái bình, bốn biển lòng người quy tụ về tâm, không có chuyện binh đao!”
“Thái bình?” Châu Bồi Công cười to ha hả.
“Anh cười chuyện gì?”
“Bắc có La Sát cướp đất giết người, tây có Cát Nhĩ Đơn câu kết với Thanh Tạng, tự tiện xưng vương, nam có tam phiên xa lòng bỏ đức, đông có Đài Loan quấy nhiễu hải phận, lệnh thiên tử không ra đến Giang Bắc, lên thành Kinh Hoa, nhìn về xa xa, bốn bên khói lửa mịt mù, tám hướng góc trời buồn vắng. Giữa lúc trong bệnh ngoài lo thế này làm gì có hai chữ thái bình?”
Khang Hy nghe cúi đầu ngẫm nghĩ, rồi cười to nói: “Theo như tiên sinh nói, thì không còn hy vọng gì ở cục diện thiên hạ nhất thống?”
“Không phải vậy,” Châu Bồi Công phản bác, “vẫn còn có một mặt, vừa rồi cô bé hát đúng, không muốn trời có hai mặt trời, dân có hai chủ. Lòng dân là lòng trời, điều dân muốn, thì trời phải chiều, bá tánh mong muốn có một Hoàng thượng tốt, mà không phân chia Hoa Di, bá tánh chán ghét chiến tranh loạn lạc, sợ cát cứ, đó là xu thế lớn. Từ đó mà xét, tam phiên cả gan vi phạm lòng trời thì tiêu diệt chúng chỉ là việc trong một vài năm.” Châu Bồi Công nói, Khang Hy gật đầu, thấy Châu Bồi Công đưa tay lấy trà, chắc là khát nước, vội nói: “Xin mời trà” Đang định hỏi tiếp, đã thấy Đồ Hải hớt hải bước vào, nói vào tai Khang Hy mấy câu.
“Đồ khốn! Hèn chi ngươi ở ngoài lâu thế “ Khang Hy nghe Châu Bồi Công nói đã say sưa mê mẩn, hoàn toàn quên mình là một hoàng đế vi hành. Nghe Đồ Hải vào báo bộ Hình ra lệnh phủ Thuận Thiên đến bắt Tiểu Hồng, nhà vua giận dữ nghiêm giọng bảo: “Bảo chúng nó bò vào đây cho ta!” Nói xong vịn bàn đứng dậy, vì bàn không vững, một cái ấm sứ có nắp rơi xuống đất kêu “rảng” một tiếng vỡ tan tành.
Phủ doãn Thuận Thiên thực tình bốn chân sát đất bò vào, như vậy đã làm kinh động khách uống trà, người nào cũng kinh hoàng thất sắc. Ngụy Đông Đình và đám thị vệ bảo vệ chung quanh, thấy Khang Hy đã lộ tông tích liền vội vàng bố trí phòng vệ, đuổi đi những người không phận sự. Sách Ngạch Đồ và Minh Châu đứng ở cửa chờ lệnh. Thấy phủ doãn Thuận Thiên đầu đội mũ tứ phẩm xanh đỉnh gắn vàng đá bò sát đất thẳng đến trước bàn trà, Châu Bồi Công kinh hồn mặt trắng bệch, trợn mắt đớ lưỡi, đến lúc Phủ doãn báo cáo: “Vạn tuế, nô tài Hạ Hầu Tuấn khấu kiến!” Anh mới tỉnh lại, vội lùi một bước rồi cũng quỳ sát đất vái lạy, mồm lắp bắp: “Châu Bồi Công không biết Thánh thượng giá lâm, nói nhiều lời xằng bậy, xin Vạn tuế xử tội!”
“Đứng cả dậy nói chuyện!” Lúc này Khang Hy cũng thấy mình không đúng, bình tĩnh lại một lúc mới nói, “Hạ Hầu Tuấn, ai bảo nhà ngươi tới bắt người?”
“Bẩm Đức Vạn tuế,” Hạ Hầu Tuấn run lập cập nói, “Đó là phiên ty trong bộ Hình và bộ Lễ bàn bạc ra lệnh, nói dân nữ A Hồng đưa cáo trạng tố oan, bị bác không chịu về quê quán, mà tới kinh sư đàn hát tiểu khúc nói bậy bạ mê hoặc chúng dân, lệnh cho nô tài bắt giải về quê quán...”
“Nói bậy bạ mê hoặc chúng dân?” Khang Hy cười nhạt một tiếng. “Bọn thực sự nói bậy bạ mê hoặc chúng dân, các ngươi không bắt được người nào, lại đi chứng tỏ oai phong với một cô bé gái yếu đuối! Triều đình nuôi đám giá áo túi cơm các ngươi để làm gì? – Cho Tiểu Hồng vào đây!”
Hạ Hầu Tuấn sợ quá không dám thở mạnh, vội liên tiếp cúi người vâng dạ.
Tiểu Hồng đã bước vào. Cô bé gái này rất thông minh, đã đoán biết người thanh niên ngồi phía trên thân phận khác thường, nhất định là lớn hơn các quan lớn ở bộ Hình bèn khoan thai sửa lại quần áo hướng lên quỳ sát đất lễ hai lần vạn phúc rồi nói: “Đại nhân truyền gọi tiểu nữ, không biết muốn nghe hát bài gì?” Nói xong thấy trên bàn nước ướt đầm, liền lấy khăn lau thật kỹ, nhặt những mảnh sứ vỡ dưới đất, chêm cứng chân bàn, nói: “Đây giống như giang sơn Đức ông Khang Hy – làm cho nó vững vàng mới tốt...”
“Cô... nói cái gì?” Khang Hy xúc động giọng hơi run run.
“Tiểu nữ nói cái bàn trà này chêm chắc rồi, giống như giang sơn Đức ông Khang Hy rất là vững chắc.” Tiểu Hồng nói giọng Hàng Châu, nghe lanh lảnh rất vui tai.
Khang Hy đứng lên đi qua đi lại mấy bước, nhà vua không còn muốn nghe nhạc gì nữa. Câu nói này hay hơn ngàn lần so với nhạc quân thiên do các cung phụng tấu trên sân khấu lớn Hoàng Chung ở Sướng âm các! Đi qua đi lại trên nền gạch xanh mấy bước, Khang Hy dừng lại hỏi: “Nhà cô làm ruộng phải không?”
“Dạ!” Tiểu Hồng nhỏ nhẹ đáp, “Cộng có năm mẫu đất, hai mẫu trà, ba mẫu ruộng.”
“Bản nhạc cô hát không tồi.” Khang Hy nói, “Đều là sự thật cả chứ?”
“Câu nào cũng thật.” Tiểu Hồng trả lời nước mắt trào ra, “Gái dân đã nhà tan người mất, không còn biết sợ gì nữa, thì cần gì phải nói dối lừa người?”
“Phủ Hàng Châu vì sao bắt chú cô?”
“Không kết án, bọn họ không chịu thả người.”
Khang Hy thở ra một hơi dài, lại hỏi: “Cô tới kinh tố cáo. Tam phát ty không xử được, tại sao không đánh trống đăng văn?” Trống đăng văn đặt tại phố Tây Trường An chuyên để cho bá tánh dùng khi có oan mà không đúng thời gian quy định thì đến gõ cửa đưa cáo trạng cho vua. Tiểu Hồng nghe trầm ngâm rất lâu mới nói: “Cáo trạng với vua thì gái dân không dám.” Khang Hy kinh ngạc hỏi: “Tại sao vậy?”
Tiểu Hồng mắt cay lên, nước mắt chảy ròng ròng, hồi lâu mới nói: “Tôi đã nghĩ ra rồi, hung thủ tại Ngũ Hoa sơn, triều đình cũng không bắt được, tiểu nữ đi cáo trạng với Đức Hoàng đế, cho dù chuẩn cho thì cũng phải lưu đồ ba ngàn dặm, cha mẹ già của tôi làm sao sống được?”
Khang Hy bỗng thấy lòng nặng nề, cô bé gái này tuy tuổi nhỏ nhưng trung hiếu vẹn toàn. Vụ án oan của cô, bản thân mình là Thiên tử lại không xử được! Suy nghĩ một lát Khang Hy hỏi tiếp: “Tại sao cô hát rong kiếm ăn ở đây?”
“Tôi muốn kiếm chút lộ phí về Giang Nam.” Tiểu Hồng đáp, “Vả lại hát lên nỗi khổ trong lòng cũng khá hơn... đây là Bắc Kinh, không chừng Hoàng thượng nghe được khúc hát của tiểu nữ, có ý kiến giúp tiểu nữ sớm hơn.”
“Hoàng đế đã nghe rồi.” giọng Khang Hy hơi khàn khàn, quay đầu dặn Đồ Hải, “Gọi Sách Ngạch Đồ vào đây.”
“Cô bé này muốn về Hàng Châu.” Khang Hy nói với Sách Ngạch Đồ, “Khanh sai người lấy thuyền đưa đi, báo cho Hiếu ty Triết Giang, nếu có người gây khó khăn, muốn hại cô bé thì họ phải chịu trách nhiệm!”
“Dạ!” Sách Ngạch Đồ đáp một tiếng, thấy Khang Hy không sai vặn gì nữa liền nói với Tiểu Hồng: “Đi thôi!”
“Khoan!” Khang Hy khoát tay, thấy trên cái bàn nhỏ góc phòng có giấy bút để cho khách dùng, bèn đi tới cầm bút viết một tờ giấy, rút cái ấn nhỏ mang theo người ra đóng dấu vào, đưa cho Tiểu Hồng, nói, “Cô trở về làm ăn cũng không dễ dàng, tờ giấy này cô mang về đưa cho Huyện lệnh Hàng Châu miễn sưu thuế cho nhà cô, bảo họ trợ giúp cho chút ít tiền sống đỡ vất vả hơn.”
“Tiểu nữ không biết chữ, những ca khúc đều nhờ người viết cho.” Tiểu Hồng tiếp nhận tờ giấy, mở ra nhìn ngược đầu, nói: “Tờ giấy này có ích dụng lớn như vậy sao?”
“Có ích!” Khang Hy cười ha hả, cả tên Tri phủ xúi quẩy cũng lén cười, không nhịn được.
“Ông quả là người tốt, ông tên gì cho tôi biết, tôi trở về dựng cho ông bài vị trường sinh!”
“Ông trở về thì biết” Khang Hy nhại giọng Tiểu Hồng, cười nói: “Ông nói rất đúng, hiện nay triều đình chưa xử được vụ án của ông, nhưng nhất định cũng xử cho ông – Cũng không cần phải dựng bia trường sinh đâu, khi xử xong, ta đến Giang Nam thăm nhà ông, chỉ cần cho ta uống một chén trà ngon là tốt rồi, được không?”
Thấy Sách Ngạch Đồ đưa Tiểu Hồng đi, Khang Hy quay mặt hỏi Hạ Hầu Tuấn: “Đó là nói lời bậy bạ mê hoặc chúng dân nhà ngươi nói? Lui ra, nghĩ cho kỹ đi, tự ngươi báo cho bộ Lại phạt bổng nửa năm!” Hạ Hầu Tuấn không ngờ Khang Hy xử nhẹ như vậy, ban đầu ngớ ra, sau vâng dạ liên tiếp và lui ra.
“Ngươi đã tự xưng biết việc binh, Trẫm sẽ hỏi ngươi.” Khang Hy ra hiệu Đồ Hải ngồi xuống bên cạnh, nghiêm mặt nói với Châu Bồi Công, “Ngươi hãy đứng lên trả lời.”
“Vâng ạ.” Châu Bồi Công khom người đáp. “Thần chưa tự nói là biết việc binh, việc binh là việc dữ, con đường chí nguy chí nguy, sao liều coi thường nói biết việc binh? Triệu Quát, Mã Tốc học thuộc binh thư, nói việc binh thao thao bất tuyệt, tuy Triệu Xa, Gia Cát không bẻ lại được – cuối cùng người chết binh thua, để tiếng cười cho muôn đời. Cho nên nói chiến trường không có lệ thường, việc binh không thành phép tắc, vận dụng hay, nhớ lại làm lòng, mà sau ngõ hầu có thể dụng binh.”
“Theo như ngươi nói, ngay cả binh pháp Tôn Tử cũng không thể dùng được?” Khang Hy kinh ngạc hỏi.
“Binh pháp Tôn Tử tuy có đạo lý dùng binh muôn đời không đổi.” Châu Bồi Công ung dung trả lời, “Nhưng người đời chỉ đọc ý văn, không hiểu cái tinh túy trong đó. Địch ta hai bên đều đọc sách đó, nhưng có kẻ thắng người thua. Người biết biến hóa thì thắng, người giữ lẽ thông thường thì thua, chỉ có vậy thôi.”
“Ừm,” Khang Hy gật đầu nói. “Ngươi nói thử xem đạo lý của người làm tướng.”
“Đạo người làm tướng,” Châu Bồi Công nói nghiêm trang, “bếp lính chưa nổi lửa, tướng không nói đói; giếng lính chưa múc nước, tướng không nói khát; trống trận đã thúc, tướng không nhớ tính mạng của mình... đó là cái lý thông thường. Người làm tướng, thay trời chinh phạt, cờ trận kéo lên, tốn hao tiền kho hàng triệu, xua ba quân xông vào nơi sống chết, gặp lúc bất thường này, thì phải dùng đạo lý bất thường. Nhân nghĩa lễ trí tín, đối với ta thì được, đối với địch thì không được. Đối với địch phải lấy bạo mà đè, lấy lời mà dụ, lấy dối mà lừa, lấy nhẫn mà phá, không thể nói trung thứ ở đây.”
Khang Hy nghe tới đây vội xen vào hỏi: “Ngươi muốn làm người tướng như thế nào?”
“Thần nguyện làm tướng giỏi bại!” “Tướng giỏi bại?” Khang Hy ngạc nhiên hỏi.
“Đúng!” Châu Bồi Công giải thích hùng hồn, đầy lý lẽ. “Tướng giỏi bại không phải là tướng thường bại. Hoài Âm hầu Hàn Tín. Khổng Minh Thục Hán, đều là tướng giỏi bại! Binh pháp nói là người giỏi thắng không dàn trận, người giỏi dàn trận không đánh, người giỏi đánh không bại, người giỏi bại cuối cùng thắng – sau thất bại nhỏ, thì liên binh kết trận, thấu triệt tình hình địch, tạo ra thế để thắng, tỉ như Hạng Vũ trăm trận đều thắng chỉ một trận Ô Giang, thất bại hoàn toàn, chẳng tốt hơn nhiều sao?”
Khang Hy bất giác cười ha hả, quay mặt hỏi Đồ Hải: “Khanh cầm quân suốt một đời, nghe anh thư sinh này bàn về đạo lý dùng binh, nghe ra có chút đạo lý nào không?”
Đồ Hải hai mắt nhìn trừng trừng Châu Bồi Công, trong lòng rất phục, trước khi vào Quan Trung, ông được đọc cuốn “binh thư” Tam quốc diễn nghĩa, mà chưa từng tiếp xúc với lý luận quân sự tương đối cao cấp nào, Châu Bồi Công phân tích làm ông sáng tỏ nhiều điều nghi vấn vướng vít trong lòng, nghe Khang Hy hỏi, ông vội nói: “Những điều Châu Bồi Công nói đều là đạo lý hay mà người dùng binh phải nói đến.”
Châu Bồi Công được khích lệ, rất hào hứng, đôi mắt long lang sáng quắc, nói tiếp: “Thần xin nói về việc quân ở phía nam!”
Nói tới “việc quân ở phía nam”, không nói ai cũng biết là chỉ tam phiên, Khang Hy vốn định khởi giá về kinh, tự nhiên lại ngồi xuống cười nói: “Bàn việc ở đây còn chặt chẽ hơn ở trong cung, ngươi mạnh dạn nói đi!”
“Nước nhà một khi phía nam có chuyện thì sẽ thế nào?” Châu Bồi Công hai tay chắp lại, trầm ngâm rồi nói, “Thần cho rằng sẽ lấy Nhạc Dương, Kinh Châu, hoặc Nam Kinh làm nơi quyết chiến!”
“Ngươi nói cụ thể xem?” Khang Hy kéo chiếc ghế tới trước nói.
Ánh mắt Châu Bồi Công như nhìn thấu qua tường nhìn tận nơi xa xăm. “Nếu quân phiến loạn điều động được thuận tiện, chúng sẽ lấy Nhạc Dương, Hoành Dương làm căn cứ chiếm lấy Kinh Nhưỡng, đông tiến xuống nam, đường thủy theo vận hà tiến lên bắc, đường bộ từ Uyển Lạc xuyên vào Trung Nguyên, hội quân ở Trực Lệ. Nhưng bây giờ xem ra, bọn chúng chưa chắc làm được. Trong quân phiến loạn, kiêu binh mãnh tướng nhiều nhất, tâm địa khác nhau, chỉ huy bất nhất, lòng dân không theo, bàn tính như ý này làm không tốt, thần cho rằng bọn chúng chẳng qua chỉ muốn chia đất nắm quyền thôi.”
“Chúng ta phải đối phó bằng cách nào?” Ánh mắt Khang Hy sâu sắc khôn lường, quan sát Châu Bồi Công áo quần rách rưới.
Châu Bồi Công cười: “Nếu quả đúng như vậy, Hoàng thượng nên lấy Hồ Nam làm nơi quyết chiến, đồng thời dọc Trường Giang bố trí đội quân tinh nhuệ tám cờ, ổn định cục diện phía bắc, lấy Giang Tây, Triết Giang làm tuyến đông, Thiểm Tây, Cam Túc, Tứ Xuyên làm tuyến tây, cắt đứt liên lạc của quân địch, dốc sức đánh tan từng cánh – tên hề gây rối quyết không bó tay chịu chết.” Nói tới đây, Châu Bồi Công ngừng một lát, rồi nói, “Đương nhiên dùng cả biện pháp vừa ăn cướp vừa la làng, vừa ra ân vừa ra uy, việc đánh trận vốn không đơn thuần là hai bên tên giáo giao phong!”
Khang Hy nghe vừa căng thẳng vừa vui mừng: chuyến đi ngày hôm không uổng công, ngẫm nghĩ một lát, nhà vua cười nói: “Ngươi tạm lui, ra ngoài gọi Minh Châu và Sách Ngạch Đồ vào đây.” Thấy Châu Bồi Công rón rén bước ra, Sách Ngạch Đồ và Minh Châu biết việc bàn bạc đã xong. Minh Châu vừa mới hỏi thăm, biết tên họ Châu này cầm thư Ngũ Thứ Hữu mà không chịu tới chỗ mình, giận lắm, nghe Châu Bồi Công truyền chỉ, vừa bước vào trong, vừa cười hi hi nói: “Châu tiên sinh, xin chúc mừng! Lần này được ơn Thánh, có thể cánh hồng bay bổng rồi!” Sách Ngạch Đồ nhìn Châu Bồi Công ông khâm phục cốt cách Châu Bồi Công không xu phụ quyền quý, nhưng lại nghi anh ta lấy lòng mọi người. Hồi lâu mới nói với Minh Châu: “Chúng ta đi vào thôi.” Châu Bồi Công đâu biết được tâm tư hai vị cận thần được yêu chiều bậc nhất của Thiên tử, chỉ cười im lặng.
Không mấy chốc, Minh Châu đi ra truyền chỉ: “Ban Châu Bồi Công tiến sĩ xuất thân, nhận hàm chủ sự bộ Binh, thống lĩnh Nha môn Tham tán quân sự trong bộ Binh Đồ Hải.” Nói xong, gọi Mục Tử Húc lại dặn dò: “Truyền lời cho bộ Lai, thu hồi, hủy bỏ tư cách tiến sĩ của Lý Minh Sơn.”
Đối với chiếu chỉ thứ hai này, không chỉ Minh Châu mà cả Sách Ngạch Đồ cũng ngơ ngác không hiểu gì cả. Trên đường trở về cung Đồ Hải ngập ngừng một hồi, cuối cùng nói: “Hoàng thượng, Lý Minh Sơn tuy nói năng xúc phạm, nhưng nghĩ hắn không biết mặt Thánh thượng, có thể...”
“Việc này không cần nói nữa.” Khang Hy cười nói, “Trẫm đâu phải là ông vua không rộng lượng? Lý Minh Sơn đứng ở đó rất lâu, anh ta lấy chân khều một đồng tiền tiên sinh đoán chữ đánh rơi, khanh có thấy không?”

