Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 22
22
Lý Vân Nương nuôi bệnh quán Vận Hà
Hồ Cung Sơn cứu thế phủ Duyễn Châu
Sáng hôm sau, thuyền đã vào địa phận phủ Duyễn Châu. Cách bến tàu cũ đến mấy dặm, Vận Hà đã bị cát bồi lấp, thuyền không qua lại được. Lý Vũ Lượng trả tiền thuyền rồi cùng Khỉ đen đỡ Ngũ Thứ Hữu lên bờ, trọ trong “Nhà trọ Vận Hà” vừa mới khai trương. Lý Vũ Lượng và Khỉ đen hàng ngày lo cho Ngũ Thứ Hữu, mời thầy thuốc khám bệnh, phục dịch cơm cháo thuốc thang rất ân cần chu đáo.
Mùa xuân năm Khang Hy thứ mười, thượng du Hoàng Hà tuyết tan mạnh, nước sông cuồn cuộn chảy xuôi dòng. Vu Thành Long tuy giỏi trị thủy nhưng theo phép xưa, chỉ sai số lớn dân phu nạo vét bùn đất bồi tích ở hạ du, tuy công hiệu nhanh nhưng không xử lý cơ bản. Đợt lũ mùa xuân ập đến nhanh không kịp phòng bị, mấy chỗ đã bị vỡ đê, vùng đập Cao Gia ngập chết không ít người. Sau đợt nước lớn, phủ Duyễn Châu dân đói khắp nơi. Hàng vạn dân đói kéo đến trạm cháo bố thí của nhà họ Khổng ở Khúc Phụ, dịch bệnh cũng lan rộng theo dân đói từ khắp nơi tới. Ngũ Thứ Hữu bệnh tình lâu ngày làm sao chống đỡ nổi? Nên càng nặng hơn, nóng sốt liên miên, không muốn ăn uống, làm Lý Vũ Lượng sốt ruột không biết đường xoay xở.
“Hiền đệ.” – Chiều tối ngày thứ năm, Ngũ Thứ Hữu đã thoi thóp chút hơi tàn, nằm trên giường hơi thở yếu ớt nói, “chú tới ngồi phía trước đây, tôi có lời muốn nói...” Vũ Lượng vội đáp lời, ngồi xuống mép giường hỏi: “Anh đau chỗ nào?” Ngũ Thứ Hữu mỉm cười lắc đầu, nói: “Một đời tôi quá nhiều lầm lỗi, trời phạt tôi như vậy cũng chẳng có gì oan uổng, bây giờ xem ra đại hạn đã tới, liên lụy tới hiền đệ và Khỉ đen vì tôi phải chịu khổ bao lâu nay, đây, đây...” Ông khẽ ho một tiếng, nói tiếp. “Tôi là một thư sinh thẳng thắn, không lấy gì đền ơn chú, đây có cái nghiên thanh ngọc vuông màu tiết gà, vốn là Hoàng thượng... làm tự ban cho tôi... chú cầm lấy, tại Bắc Kinh tìm Ngụy Đông Đình ở trại Thiện Phốc làm vật chứng... không, không đi cũng được, giữ lấy làm kỷ vật. Sau này, nếu chú gặp được gia phụ, cho ông cụ biết những việc chú thấy, khi đó tôi cũng đã nhắm mắt rồi...” Nói tới đây hơi thở đã yếu lắm.
Lý Vũ Lượng lúc đó không biết là mùi vị gì, một đời cô ngang dọc giang hồ, rút kiếm giết người vô số, muốn thế nào làm thế ấy, không chút động lòng; số người đã gặp có đến hàng ngàn, cũng chẳng quan tâm, đến khi gặp người đàn ông này, tự thấy không thể dứt bỏ đi được! Nhìn Ngũ Thứ Hữu lâm nguy sắp chết, nhớ những chuyện xưa, lầu cao vịnh thơ, dưới đèn tán gẫu, không đau lòng sao được? Ngẩn ngơ hồi lâu, Vũ Lượng mới khóc nói: “Tiên sinh cứ mải nói những việc không tốt lành làm gì? Lý Vũ Lượng tôi, lên trời xuống đất, cũng phải tìm cách chữa được bệnh cho anh.”
“Không cần nữa.” Ngũ Thứ Hữu cười đau buồn, “Sống chết có số, sức người còn làm được gì? Chỉ có một việc làm bận lòng tôi bao lâu nay, nếu chú biết, thì bảo cho tôi...”
“Việc gì?” Lý Vũ Lượng nhìn ánh mắt Ngũ Thứ Hữu, cô hơi hoảng hốt.
“Vân Nương là ai?” Ngũ Thứ Hữu khẽ hỏi.
Vân Nương là ai, cả Khỉ đen cũng không biết được, trong phòng im ắng, hồi lâu Vũ Lượng bỗng òa lên khóc, cô nói nghẹn ngào: “Không giấu tiên sinh, em chính là Vân Nương... là một cô... gái.”
Ngũ Thứ Hữu mở to mắt, nhìn Vân Nương một hồi lâu, thở ra thư thái, “Ta hiểu rồi... chữ “Vân” chữ “Nương” em cất đi một nửa... Ôi, vì sao em lại tới chuốc lấy cái khổ này?”
“Tiên sinh nói rất đúng, nhưng nói ra câu chuyện còn dài.” Vân Nương nói. “Anh bây giờ chưa khỏe, cứ tĩnh dưỡng, đợi khá lên một chút, em sẽ nói lại từ đầu...” Thấy Ngũ Thứ Hữu nhắm mắt gật đầu, Vân Nương cố nén lệ trở về phòng mình.
Nhưng đêm hôm đó Vân Nương không ngủ được.
Cô là người Trấn Nguyên, Sơn Tây, đời ông là lực điền. Đến đời cha, cuộc sống vừa khá lên một chút, lại gặp trận dịch, mẹ và người cô cùng chết một ngày. Người cha trợn mắt không còn biết làm gì, bèn đem con Vân Nương bán làm đầy tớ người ta lấy hai lạng bạc đem về chôn cất vợ và em. Lúc đó Vân Nương mới chín tuổi.
Ông cụ Uông có lòng thương người, không ngược đãi con bé gái mua về. Nhưng không lâu, nhà họ Uông gặp một việc kỳ lạ, làm cô rơi vào một tai họa khủng khiếp. Cậu ấm cả Uông Sĩ Quý là một tay buôn vải, quanh năm không ở nhà, lo quản việc nhà là bà Uông Lưu, vợ sau còn trẻ của cụ Uông và mợ cả, bà Uông Thái. Hai người, mẹ chồng con dâu bất hòa.
Từ ngày cậu hai Uông Sĩ Vinh được chọn làm quan đạo Trà mã về nhà ở một tháng, thì tình cảm mẹ chồng con dâu bỗng tốt lên. Ông cụ Uông tuổi già nhiều bệnh, cả ngày nằm trên giường. Một hôm, Vân Nương dậy sớm, theo thường lệ tới phòng cụ bà bưng chậu nước tiểu, cô đứng trước cửa phòng gọi hai tiếng nho nhỏ, không có ai trả lời liền bước vào, ai dè bên trong không có chậu nước tiểu mà bà cụ cũng không ở đó. Đang cảm thấy lạ, thì nghe có tiếng động ở lầu tây nơi cậu hai ở. Hai mẹ chồng nàng dâu cười hi hi, người này véo một cái, người kia xô một cái, kéo sổ cả áo xống, thấy Vân Nương đứng đực ra trước cửa nhà, người nào cũng mặt mày thất sắc.
“Con giặc” bà Uông Lưu bước tới mấy bước nắm chặt tai Vân Nương mà kéo, nghiến răng chửi: “Đồ quỷ sứ, giờ này, gà chưa gáy, mày tới đây làm gì?” Nói xong tát mạnh hai cái, làm Vân Nương chảy máu mồm, bà Uông Thái giả vờ cười bước tới an ủi: “Mày mới tới chứ có thấy gì không?”
“Dạ không ạ.” Vân Nương oan ức khóc hu hu, “Con chỉ thấy cụ bà và mợ...”
“Ừ, bé ngoan...” bà Uông Thái cười nói, “Mợ đối xử với mày có tốt không?”
“... Tốt.”
“Mẹ ạ. Cô bé này đáng thương, đến đây mấy năm cũng chưa về thăm nhà.” Bà Uông Thái nói với bà mẹ chồng đang nghiêm sắc mặt, “Hôm nay cho nó về nhà một lần?” Bà Uông Lưu “hứ” một tiếng, vén rèm bước vào phòng, một hồi lâu mới nói: “Nể tình con, bảo nó về nhà đi, miệng mồm mà nói bậy bạ cái gì thì khi trở lại, coi chừng tróc da đó!”
Vân Nương đi rồi không trở về nhà họ Uông nữa. Đêm đó trời mưa to, trên đường trở về nhà, cô bị một tên đàn ông kéo ra sau núi hiếp và trói hai tay vào gốc cây thông già. Cây thông già này, cứ đến đêm từng đàn chó sói đi tìm mồi, không đợi đến sáng thì xương thịt đã không còn.
Vân Nương không bao giờ quên cái đêm hãi hùng đó. Chỗ cây thông tối đen, gió mưa gào thét, phía xa xa tiếng chó sói hú lên từng hồi, xen lẫn tiếng cú kêu đâu gần đó. Cô sợ quá, toàn thân như tê dại, đầu tóc ướt đầm dính bết vào mặt che mất đôi mắt, nhưng cô vẫn cố trừng trừng nhìn phía trước, ngóng nhìn sườn núi đen thui lủi, túp lều tranh nát của cha ở dưới chân núi bên kia.
Đúng lúc cô khiếp sợ run rẩy thì hai người qua đường đã cứu cô, một người là đạo trưởng Thanh Hư ở Hoàng Hạc Quan núi Chung Nam, một người là sư huynh Hồ Cung Sơn. Cũng ngay trong đêm đó, nhà họ Uông bị trận cháy lớn, ngọn lửa rần rật cháy mãi tới ngày hôm sau, trời mưa to như thế vẫn không dập tắt được. Người trong thành còn đặt một bài ca từ, nói là “Lửa trời đốt nhà kẻ loạn luân”. Uông Thế Vinh thoát ra khỏi đám cháy vội chạy về Quý Châu ngay trong đêm.
Lý Vũ Lượng xuống núi lần này vốn do lòng hiếu thắng. Hồ Cung Sơn thu nhận ở quán Duyệt Bằng một đồ đệ Tư Hách đã được Khang Hy ban chết, khi đưa về Hoàng Hạc Quán, đạo trưởng Thanh Hư đã hóa nửa năm rồi, sư anh sư em lâu ngày gặp nhau cố nhiên là nói không hết chuyện. Không ngờ Vân Nương nghe Hồ Cung Sơn nói chuyện tình hình kinh sư liền bực mình: “Sư ca, đừng trách em nói anh, anh quả là bất lực! Em thấy tên Minh Châu chẳng ra cái thá gì, nhưng anh lại rộng lượng, đem nhường cô Thúy cho anh ta! Còn ông tiên sinh họ Ngũ với Tô Ma Lạt Cô, anh chống mắt nhìn để cho Minh Châu phá hỏng, anh có còn xứng là một nghĩa hiệp hay không?” Nói xong bĩu môi quay mặt đi.
Cái anh Hồ Cung Sơn này, gặp cứng thì cứng, gặp ác thì ác, gặp thiện thì lại mềm nhũn, nghe cô ta nói vậy chỉ cười cay đắng: “Sư muội, em từ nhỏ đã lên núi, chỉ gặp đối thủ toàn bọn đen tối, nhưng không biết chuyện lửa khói trong thiên hạ, em đi nhìn xem, tự nhiên sẽ hiểu ra thôi...”
“Em không tin!” Vân Nương nói: “Mấy ngày nữa em sẽ xuống núi, làm nột chuyến trở về cho anh xem!”
Bây giờ, cô đã thấm hiểu sự đời, đã bắt đầu vẫy vùng trong mạng lưới tam cương ngũ thường ngang dọc đan xen, tầng tầng lớp lớp. Cô định đưa Ngũ Thứ Hữu về kinh, buộc Minh Châu đứng ra tác hợp trở lại với Tô Ma Lạt Cô, ngay cả Khỉ đen cũng cười cô quá si. Bây giờ Ngũ Thứ Hữu bệnh nặng, lại thấy rõ mình là con gái, phải xử sự thế nào đây?
Trời sáng bao giờ không hay, Vân Nương bỗng nhớ ra hôm nay phải đi mời danh y Duyễn Châu Phạm Tôn Diệu đến khám hệnh, vội bò dậy, vừa rửa ráy xong lại nghe có người hỏi trước cửa: “Chủ quán, ở đây có trú một vị tiên sinh tên Ngũ Thứ Hữu phải không?” Vân Nương bỗng mắt sáng lên, bước nhanh ra cửa – người đến hỏi, mặt vàng võ, mắt chếch ba góc, lông mày chữ bát, bộ mặt vô cùng thô lỗ – chính là Hồ Cung Sơn. Lần này Vân Nương gặp anh đúng là một khách lãng du phiêu bạt, đang thế bí chưa biết cách gỡ, như gặp được anh cả, cô bĩu môi mấy cái rồi khóc hu hu.
“Đừng khóc, đừng khóc!” Rồi Hồ Cung Sơn quay mặt nói với đồ đệ Tư Hách mặc áo quần đạo sĩ: “Thanh Phong lại đây, bái kiến sư cô nhà ngươi!”
“Sư cô!” Tư Hách vẩy phất trần, bước tới cúi sát đất nói: “Sư cô mạnh giỏi!” Vân Nương liếc nhìn đã biết người này thông minh ranh mãnh, vội quay người gọi Khỉ đen tới, mỉm cười nói với Hồ Cung Sơn: “Kẻ bất tài cũng thu nhận một học trò, Khỉ đen, mau ra mắt sư bá, sư ca đi!”
Khỉ đen mặt mày hớn hở, lẩm bẩm một hồi, cúi đầu mấy cái nói: “Chào sư bá, sư ca! Con đã nghe nói sư bá thủ thuật cao, nghề thuốc giỏi, xin chữa cho Ngũ tiên sinh đứt bệnh, và chỉ vẽ cho con mấy chiêu!”
“Được, được!” Hồ Cung Sơn cười nói, “Em Vân, em phải chú ý, con khỉ lông này ăn cắp hết ngón nghề của em đó!” Tư Hách thì vội hỏi: “Ngũ tiên sinh cũng ở đây, ông ta thế nào rồi?”
Khỉ đen vội nói: “Để chậm là không được rồi! Nếu cô tôi không gặp các anh thì đâu đến nỗi chậm trễ!” Hồ Cung Sơn nghe không nói gì, chạy nhanh vào phòng thấy Ngũ Thứ Hữu mê man nằm im trên giường không chút động đậy, ngẫm nghĩ hồi lâu mới nói: “Em Vân, làm sao em chẳng biết chút xíu gì nghề thuốc? – Vén hết rèm cửa, rèm cửa sổ ra!”
Một cơn gió ngoài sông thổi vào, Vân Nương lạnh run, hỏi: “Không sợ cóng sao!”
“Người như thế này, có cóng một chút thì đã sao?” Hồ Cung Sơn bước tới, ngồi xuống, nắm tay Ngũ Thứ Hữu, vừa cười nói: “Nếu không phải là hai người khỏe mạnh thì ở trong căn phòng này cũng đã bị nhiễm bệnh rồi!” Nói xong liền bắt mạch, hai hàng lông này chổi xể rậm đen nhíu lại.
Một hồi lâu, Hồ Cung Sơn bỏ tay Ngũ Thứ Hữu ra, nói: “Bệnh ở thấu lý, chữa thì chữa được nhưng không thể chữa khỏi hẳn trong thời gian ngắn.”
“Vậy xin sư huynh giúp cho!”
“Khỏi cần phải nói, chúng tôi là bạn cũ mà.” Hồ Cung Sơn viết toa thuốc, nói: “Ta chỉ có thể xem giúp mấy ngày, về sau vẫn phải do em lo. Có điều…”
“Cái gì?”
“Thuốc dùng rất thông thường, chỉ phải người bệnh cần có người chăm, em làm được không?”
“Có gì không chăm được?”
“Vậy thì được.” Hồ Cung Sơn uể oải nói, đưa toa thuốc cho Khỉ đen: “Đi bốc nhanh lên.” Khỉ đen cầm toa thuốc, biến đi mất tăm. Hồ Cung Sơn đứng lên nói: “Em xem cách chữa này em làm có được không? – phát nội công, đẩy ra ngoài uất khí tồn tích trong ngũ tạng.” Nói xong năm ngón tay chụm lại thành cái vuốt, đập vào lòng bàn chân Ngũ Thứ Hữu, đưa dọc theo thân người lên mãi đến ngực thì hai tay ấn mạnh, khi chuyển đi mới nhắc tay lên. Mặt Ngũ Thứ Hữu dần dần có sắc máu. Hồ Cung Sơn hít vào một hơi dài.
Vân Nương xem biết ngay ý tứ của anh, mặt đỏ đến mang tai, một lúc mới đáp khẽ: “Cũng chẳng sao!”
“Cũng lại là một người si.” Hồ Cung Sơn cười vẻ kỳ lạ, “Em Vân, anh là người ngoài, cũng chỉ là người qua đường, khuyên em chữa khỏi bệnh cho anh ta, rồi trở về núi Chung Nam, thế nào?”
“Vì sao vậy?”
“Không sao cả.” Hồ Cung Sơn nói, “Như vậy tốt cho em, cũng tốt cả cho anh ta.”
Đang nói thì Khỉ đen nhảy chân sáo vào, giậm chân chau mày nói: “Mồ cha nó, quả là kỳ lạ! Mấy vị chính trong toa thuốc sư bá cho, đi tìm khắp thị trấn đều không có!”
“Những vị thuốc này rất thông thường, có tiệm thuốc nào không có?” Hồ Cung Sơn nhíu mắt, tỏa ánh sáng quắc, “Có phải tiệm thuốc thấy người bệnh nhiều đã đầu cơ giữ lại?”
Vân Nương bỗng chốc hoảng lên, nói: “Mấy ngày trước còn có, làm sao trong chốc lát lại không có? Vậy làm thế nào? Bệnh của Ngũ tiên sinh không thể chậm trễ!”
“Tiên sinh của cô không quan trọng!” Hồ Cung Sơn sa sầm mặt nói: “Mấy vạn dân dịch bệnh không có thuốc làm sao cứu được – người tiệm thuốc nói thế nào?”
Khỉ đen lấy tay chùi mũi, nói: “Người tiệm thuốc nói, mấy vị thuốc phục linh, đỗ trọng, thiên ma, vì Vân Nam, Quý Châu đã giữ, đã niêm phong rồi, có thuốc mà không vào được. Trịnh Thái Tôn ở đây lại mua hết toàn bộ số thuốc còn lại, cấp cho các nhà thờ Chung Tam Lang. Nhà thờ đó thuốc nhiều nhưng không bán, thì còn cách nào?”
“Chung Tam Lang – Bồ tát lở nào nặn ra mà bá đạo như vậy!” Vân Nương nghiến răng chửi. “Quả là đồ súc sinh quét không hết!”
“Sư phụ,” Tư Hách bên cạnh cười nói: “Đêm nay chúng ta đi một chuyến nhé?” Hồ Cung Sơn cũng cười nói: “Em Vân hãy nghe xem, người này có lai lịch đường hoàng, trước là thị vệ bậc ba của Hoàng thượng, phạm phép vua, đến chỗ chúng ta xin một mạng sống, nhưng vẫn lòng giết người không sửa, thích nói chuyện gió trăng!”
“Gió trăng?” Vân Nương không hiểu lắm.
“Đúng vậy!” Hồ Cung Sơn cười ha hả, ““Đốt lửa ngày gió lớn, giết người đêm trăng mờ” không phải là “gió trăng” sao?”
Khỉ đen rõ là rất thích vị sư bác này, liền nói với Vân Nương: “Cầu xin thầy cho phép con được theo sư bác đi một chuyến để mở mang tầm mắt!” Vân Nương ngẫm nghĩ một lát, rồi gật đầu đồng ý.
Đêm khuya người vắng, trống canh mới bắt đầu điểm, hai người Hồ Cung Sơn đi rồi. Vân Nương ngồi trước giường người bệnh một lát, nghe Ngũ Thứ Hữu thở đều, hơi có vẻ yên tâm, đang định trở về phòng nghỉ, thấy Tư Hách bước vào, bèn gật đầu cười nói: “Anh ngồi xuống, Ngũ tiên sinh được sư anh chữa đã đỡ nhiều rồi.”
Tư Hách nghiêm chỉnh ngồi xuống một bên, nói: “Sư cô, Ngũ Thứ Hữu cũng là người bạn tốt của tôi, năm trước Hoàng thượng ban chết cho tôi, ông còn làm điếu văn cho tôi nữa.” Vân Nương nghe gật gật đầu, không nói gì chỉ nhẹ nhẹ thở dài. Tư Hách một hồi lâu nói tiếp: “Sư cô, sư phụ khuyên cô rời Ngũ Thứ Hữu trở về, thật ra là có lòng tốt, có điều nếu sư cô chịu truyền cho tôi một chiêu thế võ “bốn lạng hơn ngàn cân”, tôi có ý rất hay!”
“Ý gì?”
“Cô nên rời Ngũ Thứ Hữu một thời gian, là có lợi”
“Vì sao vậy?”
“Sư cô đừng nổi cáu.” Tư Hách nói nghiêm túc, “Rất đáng sợ – cô nên suy nghĩ cho sáng suốt, việc trong thiên hạ càng cầu thì càng xa, càng xa thì càng gần, đi tới đâu thì cũng cái lý đó thôi. Cô cứ như vậy một bước không rời Ngũ tiên sinh, Ngũ tiên sinh chỉ có thể xem cô là bạn, huống hồ trong tim ông còn có Tô…”
“Anh im ngay!” Vân Nương nghe những lời như thấu tim gan của Tư Hách, tim cô bỗng nhiên đập loạn xạ. Việc bao lâu nay giấu kín trong lòng, ngay cả bản thân mình cũng không dám thừa nhận, trong khoảnh khắc đã bị Tư Hạch phơi bày trần trụi, lòng cô cảm thấy phiền muộn, bỗng nhiên nổi giận nói: “Sao anh biết tôi có dụng ý khác? Còn đểu cáng như vậy thì đừng hòng dạy cho cái gì?”
“Vâng vâng vâng!” Tư Hách vội đồng ý nói, “Con không dám đểu cáng nữa.” mồm nói thế nhưng bụng lại cười thầm, “Những bà cô này lạ thật, rõ ràng là chuyện đó nhưng không để người ta nói!”
“Nghe đây!” Vân Nương đứng lên, ánh mắt hung hăng hăm dọa, “Nếu mi dùng thế võ này giết hại người tốt, ta mà biết được thì lấy mạng sống của mi dễ như trở bàn tay, sư anh của ta cũng không cứu được anh đâu!”
“Tốt lắm!” Ngoài cửa, Hồ Cung Sơn cười ha hả, dẫn Khỉ đen đi vào nói, “Anh em chúng ta thu nhận được hai học trò ma vương quỷ sứ! Khỉ đen sống chết ăn vạ cầu ta truyền cho thế võ áo vải sắt, Thanh Phong thì đòi em thế võ bốn lạng hơn ngàn cân – một đôi ăn vạ!” Bốn người nhìn nhau cười ha hả. Trên giường, Ngũ Thứ Hữu rên lên một tiếng, lật người lại, mồm kêu: “Nước, nước...”
Ông đã ba ngày không ăn uống gì, hôm nay được điều trị, nhanh chóng có chuyển biến tốt. Vân Nương nhìn khuôn mặt tái nhợt của ông, dưới ánh đèn tỏ ra thanh tú khác đời, nghĩ lại những lời Tư Hách vừa nói, không nói ra được lòng mình là vui hay buồn, là cảm kích hay đau lòng. Cô quay mặt nhìn Hồ Cung Sơn đang khom người quan sát Ngũ Thứ Hữu, anh ta là một sư huynh mặt mũi đáng ghét nhưng tâm địa lương thiện, một đời truy đuổi Ngô Thúy Cô. Đến lúc cô Thúy chết, cũng chỉ xem Hồ Cung Sơn là huynh trưởng, nhưng lại đi thương yêu Minh Châu, một con người không có lương tâm! Duyên số của người đời sao mà không thể hiểu nổi! Lẽ nào mình cũng phải đi theo con đường cũ của sư huynh sao?
Hồ Cung Sơn thấy Vân Nương nhìn si mê Ngũ Thứ Hữu, không nói một lời, nhớ lại lai lịch của mình, bất giác hơi mủi lòng, cô nhét cánh tay Ngũ Thứ Hữu vào trong chăn, an ủi: “Ngũ tiên sinh, ngài cứ yên tâm dưỡng bệnh, có đạo sĩ thịt chó Hồ Cung Sơn và Vân Nương ở đây, không có gì xảy ra đâu. Khỉ đen, mau đi sắc thuốc!”
“Anh Cung Sơn đấy à?” Ngũ Thứ Hữu đã tỉnh hẳn, liếc thấy Tư Hách cũng đang cười nói trước giường bệnh, bất giác ớn lạnh. “Chú Tư! Không phải chú đã... chết rồi sao? Làm sao lại ở đây?”
“Phật thọ vô lượng! Ngũ tiên sinh đã một lần đến Quỷ Môn Quan chắc không quên người cũ, tục cổ đáng phục!” Hồ Cung Sơn cười nói: “Tên Tư Hách anh nói quả đã chết rồi, đây là đồ đệ Thanh Phong của đạo sĩ tôi – cảm thấy đã đỡ hơn chưa?”
“Hả!” Ngũ Thứ Hữu nằm thẳng lại. Vân Nương đang bón cho ông từng thìa nước. Im lặng một lát, Ngũ Thứ Hữu nói: “Anh Hồ, cũng may là anh giỏi pháp thuật – vừa rồi nghe bên ngoài có tiếng thanh la, có việc gì vậy?”
“Lấy của chúng mấy thùng thuốc, đã quấy chọc bọn chúng một trận!” Khỉ đen cười nói, “Chúng tôi vốn không muốn làm to, chỉ vì bọn nhóc Chung Tam Lang kỳ quái ác độc quá thể. Bọn chúng tích trữ thuốc không phải để kiếm tiền, mà để tập trung lại đốt chơi!” Ngũ Thứ Hữu suy nghĩ rất lâu mới nói: “Anh Cung Sơn, trong đó có nhiều chuyện lắm! Anh trước nay lo việc giúp đời, hiểu rõ đạo lý dân là gốc nước, lòng dân không ổn thì gốc nước khó bền – bọn chúng làm vậy chẳng qua là nhiễu loạn lòng dân, khích bá tánh biến động, thật là quá hiểm độc!”
Hồ Cung Sơn sa sầm gương mặt vàng võ, anh rất xúc động! Người bệnh tới mức đó vẫn nghĩ tới xã tắc và muôn dân, tấm lòng này so với việc bốc thuốc giúp đời của mình rộng lớn hơn bao nhiêu! Ngẩn ra một hồi lâu, Hồ Cung Sơn mới than rằng: “Ngũ tiên sinh, lời của ông, Hồ tôi đều hiểu rõ. Việc trước kia không nên nói lại, ông nên yên tâm dưỡng bệnh, Hồ tôi chữa lành cho ông mới đi!”

