Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 23
23
Gặp duyên phận, gái chung tình cáo biệt
Bị trói tay, chàng mặt lạnh lỡ làng
Nhờ trong uống thuốc hay, ngoài chữa trị khí công, nữa tháng sau Ngũ Thứ Hữu đã đi lại được. Thầy trò Hồ Cung Sơn bèn tới cáo từ.
“Bây giờ phải chia tay với tiên sinh rồi,” Hồi ở Bắc Kinh, Hồ Cung Sơn và Ngũ Thứ Hữu chưa có giao hảo sâu sắc, nhưng lần gặp gỡ ngẫu nhiên trên đường giang hồ đã làm hai bên hiểu biết nhau nhiều hơn. Nghĩ đến chuyện phải chia tay mỗi người một ngả, lòng Hồ Cung Sơn cũng thấy ủ ê, đôi lông mày rậm chữ bát nhíu lại. “Tuy nói mỗi người một phương trời, nhưng mong ngày sau gặp nhau trên cùng chặng đường, đừng quên mối cảm tình nhỏ nhoi!”
Ngũ Thứ Hữu cười nói: “Đâu dám phụ lòng! Có điều anh với tôi không thể gặp nhau trên cùng chặng đường, nhiều lắm cũng chỉ gặp gỡ tình cờ. Tôi tuy không làm được quan to chức lớn nhưng ơn cứu mạng của anh Hồ, muôn đời tôi không dám quên.” Tư Hách đứng bên xen vào nói: “Thầy trò chúng tôi là người ngoài cõi, còn tiên sinh là người trong vòng tình cảm, nếu muốn đền ơn, Thanh Phong rất mừng. Hồi đó thấy tiên sinh viết chữ cho Ngô Lục Nhất rất đẹp, sao không viết cho chúng tôi mấy chữ?”
“Thanh Phong đừng nói bậy!” Hồ Cung Sơn nói, “Chúng ta đi khắp bốn biển tung tích vô định, viết ra thì treo ở đâu?”
Ngũ Thứ Hữu cười nói: “Chú Tư ít khi mở miệng nói, đã là bạn cũ, lại có duyên số, tôi sẽ vẽ cho các anh một bức tranh!”
Nói xong, đi tới bàn cầm bút, liếc nhìn Hồ Cung Sơn và Tư Hách rồi tay như rồng bay phượng múa, trong chốc lát đã vẽ hình hai đạo sĩ: Một người lưng đeo bảo kiếm, một người cầm phất trần, hai con mắt như đang chuyển động. Hồ Cung Sơn, Lý Vân Nương, Tư Hách vội xúm lại xem. Khỉ đen đứng bên reo lên: “Bức tranh này không được, không được! Giống như hai tên giặc, không có hình dạng ngay ngắn!” Ngũ Thứ Hữu dừng bút cười nói: “Khỉ đen tuy lanh lợi nhưng làm sao biết câu quan xấu không bằng giặc tốt – anh cứ xem tên giặc tôi vẽ đây!” Nói xong, như nước chảy mây trôi, anh đề lên mấy chữ:
Giặc! Giặc! Giặc!
Mọi người ngạc nhiên định hỏi, Ngũ Thứ Hữu liền viết tiếp:
Có bóng không hình làm sao bắt được?
Chỉ vì trộm thuốc cứu người.
Mà xuống dương trần giúp dân nghèo khổ.
Cười hỏi Hồ Cung Sơn: “Thế nào?”
“Hay tuyệt!” Hồ Cung Sơn cười to nói, “Bức tranh này, bài thơ này Hồ tôi xin tiếp nhận tận đáy lòng, người biết ta, không ai bằng Ngũ tiên sinh!” Hai tay ông nhận bức tranh, cuốn lại cẩn thận, đưa cho Tư Hách, cúi người một vái, nhẹ nhàng bước đi.
Tiễn Hồ Cung Sơn đi rồi. Vân Nương suy đi nghĩ lại, cũng phải từ biệt rồi. Không phải cô nghe lời Tư Hách khuyên “xa mà thân”, mà cảm thấy suốt ngày đeo đuổi theo một người trước sau chỉ yêu một người khác, thì kết cục đáng buồn, lời người đáng sợ. Việc này truyền rộng ra, người giang hồ sẽ xem mình thế nào, và lúc đó mình sẽ ra sao? Nhưng rời xa Ngũ tiên sinh lúc này, cô cảm thấy không yên tâm. Mấy ngày nay, Vân Nương lúc nào cũng lo lắng không vui, khi rảnh việc thường ngồi thừ ra. Khỉ đen tuy có biết việc đó, nhưng không hiểu nỗi đau khổ trong lòng cô, suốt ngày hớn hở chạy trước chạy sau giúp Vân Nương sắc thuốc đưa cơm.
Mồng tám tháng tư là ngày lễ tắm Phật, dân gian nhà nào cũng làm vằn thắn ăn đậu duyên.5 Vân Nương sắc thuốc cho Ngũ Thứ Hữu xong liền đi thị trấn mua về ba cân bánh hấp sống làm sẵn, sai Khỉ đen đem luộc, rồi mới tới phòng Ngũ Thứ Hữu. Ngũ Thứ Hữu đã cởi áo bông, chỉ mặc chiếc áo kép vải thô, năm ngón tay chụm lại cầm một cây kim nhỏ, tay kia nắm chặt góc áo dài, nghiến răng nhíu mày cố hết sức xỏ kim, đầu kim ở chỗ nào thì mặt chăm chăm quay về phía đó. Vân Nương thấy bộ dạng chăm chú của ông, bất giác bật cười, vội đi tới giật lấy kim chỉ trong tay Ngũ Thứ Hữu, ngồi xuống ghế vá áo.
Trong phòng im ắng, ánh nắng trưa chiếu xuống sáng rỡ phía ngoài phòng. Chim vàng oanh nhảy nhót trên cành cây loi thoi, chúng đuổi nhau chuyền cành kêu ríu rít, càng tăng thêm vẻ tĩnh lặng trong phòng. Mãi tới lúc vá xong, hai người chẳng nói một lời.
“Hiền… à, Vân Nương!” Ngũ Thứ Hữu thấy Vân Nương lấy răng cắn đứt sợi chỉ, liền đứng lên đi tới, nói vội vàng. “Hình như cô có điều tâm sự nặng nề?”
“Không có gì.” Vân Nương nói, cô nhẹ nhẹ thở dài, “Mấy ngày nay xem bệnh tình tiên sinh ngày càng khá hơn, còn chưa kịp sung sướng nữa. Không biết sau đây sẽ đi tới đâu?”
“Đi chơi rừng Khổng, thăm miếu Khổng Tử, rồi lên Thái An, mười tám trản, xem mặt trời mọc ở Vân Hải, sau đó đi Bắc Kinh.” Ngũ Thứ Hữu cười nói, “Chẳng phải đã nói từ trước rồi sao?”
Vân Nương cười buồn bã nói: “Thái sơn cao như vậy, tiên sinh bệnh lâu mới khỏi có lên được không?”
“Có có mà.” Ngũ Thứ Hữu nói. “Có cô còn sợ không lên được sao?”
“Em dìu anh, hay cõng anh?”
Ngũ Thứ Hữu không biết đáp thế nào. Ông bỗng nghĩ ra, con người mặc áo dạ đà la xanh này không còn là “hiền đệ”, dìu, cõng đều không được, trầm ngâm rất lâu, đang định nói tiếp thì Khỉ đen cười hì hì bưng một mâm vằn thắn bước vào, mồm nói liến thoắng: “Nóng, nóng, không đựng nhiều được!” Bước nhanh mấy bước vội vã đặt mâm xuống bàn, thổi vào tay nói: “Nồi thứ nhất vằn thắn, nồi thứ hai mì, con đã nếm thử rồi, thơm lắm, mời tiên sinh và sư phụ dùng!”
“Cùng ăn thôi,” Tâm tình Vân Nương như khá hơn một chút, “Khỉ đen, con cũng ngồi xuống cùng ăn.” Khỉ đen dạ rồi đi tìm nước chấm bưng lên, ba người cùng ngồi xuống ăn.
Vân Nương ăn chẳng thấy mùi vị gì, không ngừng liếc nhìn Ngũ Thứ Hữu điềm đạm thoải mái và Khỉ đen đang nuốt lấy nuốt để. Bỗng nhiên, Ngũ Thứ Hữu ăn đúng cái vằn thắn đậu duyên, ông nghiêm trang hỏi: “Nhân gì đây?”
“Ngũ tiên sinh có duyên may rồi!” Khỉ đen nói, “Tất cả chỉ có một cái vằn thắn nhân đậu duyên, ngài đã ăn rồi – Ôi chao! Cái gì đây?” Thế là chú cũng đã ăn được một cái.
Nghe Vân Nương giải thích, Ngũ Thứ Hữu bỗng bật cười, nói: “Đã nói ai ăn được là có số may, vậy tôi và Khỉ đen có số mау rồi, còn cô sao chẳng ăn được?” Vân Nương nghe nói cảm thấy rất không cát lợi, miễn cưỡng cười nói: “Tôi số không có phước, không bì được với các anh, có điều, đậu duyên, lẽ ra chỉ có một cái, làm sao cả hai người đều ăn được?” Nói xong cô cũng ngớ ra, cô cũng ăn được một cái, “Mấy người bán hàng làm sao thế này, muốn đỡ tốn nên làm rất nhiều vằn thắn nhân đậu duyên!”
“Một là có thể kiếm tiền nhiều hơn, hai là mong mọi người đều cát lợi.” Ngũ Thứ Hữu cười nói, “Đó cũng là tấm lòng tốt của họ. Hôm nay ngày lễ tắm Phật, mọi người đều ăn đậu duyên, sau này đều thành Phật, làm Bồ tát, hóa chẳng khoái hơn so với chỉ một người ăn được đậu duyên?” Nói xong liền cười ha hả.
“Tiên sinh thành Phật, sư phụ làm Bồ tát, còn con thì không được.” Khỉ đen nói rất thật thà, “Con chỉ cần làm một kim đồng bên tòa sen Bồ tát là mãn nguyện lắm rồi! Ngũ tiên sinh nếu không thể thành Phật sau này sẽ làm quan to, khi gặp lại chúng tôi đừng quên chuyện ăn vằn thắn hôm nay đó!”
“Gặp lại các người? Là thế nào?” Ngũ Thứ Hữu đặt đũa xuống hỏi, “Các người không đi cùng ta sao?”
“Chú ấy nói đúng đấy!” Vân Nương ngồi bên nói khẽ, “Tiễn đưa vằn thắn tiếp theo mì, đó là một chút lòng của chúng tôi trước lúc chia tay.”
“Tại sao vậy?” Ngũ Thứ Hữu hỏi: “Cô không tới Bắc Kinh…” Ông bỗng nhớ lại “tìm việc làm” là không thể được rồi, bỗng nhiên thần sắc u buồn, một hồi lâu mới than: “Cũng được, đành phải vậy thôi. Hợp tan có số, xa gần có duyên, tuy nói là cá đang mắc cạn tưới cho chút nước, chi bằng mong nhau ở chốn giang hồ, chỉ mong ngày sau tình cờ gặp nhau, chúng ta không nên ngoảnh mặt làm ngơ…” Nói tới đây, Ngũ Thứ Hữu cảm thấy cổ họng nghẹn ngào, cố nín không để rơi nước mắt.
Vân Nương thấy Ngũ Thứ Hữu đau buồn như vậy, rất muốn nói một câu “Em không đi nữa” nhưng cô không thể. Cô ngần ngừ một lúc gượng cười nói: “Tiên sinh không nên nhi nữ thường tình! Anh, tôi đều còn trẻ, nước sông còn chảy mãi, núi xanh cũng rộng đường, sợ không còn gặp được nhau sao? Khi gặp lại đâu có chuyện ngoảnh mặt làm ngơ?” Trưa hôm đó, ba người cùng ăn bữa cơm tiễn biệt, bao lời dặn dò đinh ninh, bao lời cầu mong giữ gìn. Ngũ Thứ Hữu quyết định ngày mai đi thăm phủ Duyễn Châu, để quan phủ đưa ông về kinh. Vân Nương và Khỉ đen dùng dằng mãi mới lên đường.
“Cô ơi!” Khỉ đen quay đầu nhìn lại thấy Ngũ Thứ Hữu không hiểu vì sao vẫn cứ đứng dưới gốc cây dương liễu góc đường ngóng nhìn theo, bèn hỏi, “con quả thật không hiểu đang ngon lành thế này mà cô quyết ra đi?”
“Trước hết chưa đi xa, tạm ở gần đây mấy ngày, sư bác của con cũng không thể đi xa.”
Ngũ Thứ Hữu đêm đó mãi tới khuya vẫn không ngủ được, hình ảnh Vân Nương và Khỉ đen cứ chập chờn trước mặt – Thuốc trong siêu chính do Vân Nương sắc sáng nay, chỉ cần hâm nóng là dùng được ngay. Một chốc ông nghe như có tiếng quạt lò phành phạch; một chốc ông nghe như tiếng Vân Nương rót thuốc thổi cho nguội. Mấy ngày trước còn cùng mấy người Hồ Cung Sơn, Vân Nương nói cười bàn luận, bỗng chốc đã đi mất tiêu, chỉ còn lại độc một mình ông.
Không biết bên ngoài mưa từ lúc nào, nước giọt trước hiên rơi xuống nền gạch tí tách không ngừng, Ngũ Thứ Hữu nghĩ lại chuyện xưa long đong lận đận, nhìn tới tiền đồ xa vời mây nước, bất giác hai hàng lệ lăn trên gò má: “Ôi! Xem ra quả thật ta bị tạo hóa ghét bỏ, trở thành kẻ bất hạnh, thiên hạ to lớn nhường này lại không dung Ngũ Thứ Hữu ta thảnh thơi giang hồ, vui cùng hoa lá!” Ông trằn trọc day trở suốt một đêm, đến gần sáng mới mơ màng chợp mắt.
Phủ Duyễn Châu là một ấp cổ Sơn Đông, một quận thành lớn nổi tiếng, lại là nơi thánh phủ. Nha phủ ở về góc tây bắc thành, trên tường vôi chữ bát treo một cái tráp, trong để một đôi ủng của quan phủ tiền nhiệm, đã phủ một lớp bụi dày.
Ngũ Thứ Hữu đi một chiếc kiệu mát vải đen, cách nha phủ một khoảng xa đã xuống kiệu. Ông lê bước nặng nề chậm chạp đi tới trước nha, thấy trước cửa có một người ra vẻ thư lại đang đi qua đi lại, bèn bước tới, đưa ra danh thiếp nói: “Cảm phiền xin kính báo bản phủ tôn đại nhân, nói là thư sinh Dương Châu Ngũ Thứ Hữu đến bái yết.”
Tên thư lại nhận danh thiếp, vừa thấy ba chữ “Ngũ Thứ Hữu” mặt mày tươi cười, vội chào nói: “Việc này con đã rõ, cụ lớn tiền nhiệm đã phụng du chỉ khắp nơi tìm tung tích Ngũ tiên sinh, bảo chúng con tìm hỏi khắp nơi. Vị đại nhân này nay đã về nhà ở Đinh Ưu, cụ lớn Trịnh mới bổ về nhận nhiệm sở chưa lâu, e chưa chắc đã biết, con xin đi bẩm báo.” Vừa nói đã quay người đi.
Tâm trạng chơi vơi của Ngũ Thứ Hữu đã cảm thấy vững vàng. Ít nhất cũng không bị đuổi ra khỏi cửa. Đang suy nghĩ thì cái cửa hông phía đông ít ai chú ý mở ra. Tên thư lại dẫn đường, phía sau là một viên quan, gương mặt trắng ngần, hai mép râu đen như mực y hình chữ bát, mặc áo dài quan tám xà năm móng thêu chim nhạn trắng, tua dây đỏ phe phẩy trên cái mũ chóp pha lê trắng, chân chữ bát, lắc lư đi ra. Sau hắn có một người giống như ông thầy, mặc áo khoác lụa đen, đầu đội mũ quả dưa bằng vóc đen, mắt đeo một cặp kính đen to, hầu bao lưng thắt đung đưa, cũng chăm chăm quan sát Ngũ Thứ Hữu.
Ngũ Thứ Hữu thấy Thái thú thân hành ra đón, vội bước tới cúi người thi lễ, nói: “Vãn sinh Ngũ Thứ Hữu nghe danh tiếng cụ lớn đã lâu, đi đường ngang qua trụ sở quý quan, đến xin ra mắt.”
“Ôi chao tiên sinh, không dám vậy!” Viên quan vội chắp tay đáp lễ, nắm tay Ngũ Thứ Hữu nói, “Học sinh Trịnh Xuân Hữu sớm phụng lệnh cấp trên chuyên tìm Ngũ tiên sinh. Những tưởng tiên sinh đã sớm xuống phía nam, không dè lại thân hành đến tệ phủ – À, vị này, Khổng Lệnh Bồi, là hậu duệ Thánh Khổng. Học sinh đến nhiệm sở truyền mời anh Khổng đến nha giúp chỉ vẽ cho. Chúng tôi vừa tán gẫu ở nhà sau còn nói đến tiên sinh đấy, không ngờ tiên sinh đã tới, thật là hạnh ngộ, hạnh ngộ!”
Ngũ Thứ Hữu hình như đã nghe mang máng ở đâu ba tiếng “Trịnh Xuân Hữu” nhưng một lúc không nhớ ra. Thấy Trịnh Xuân Hữu mặt mày rạng rỡ, thái độ ân cần gần gũi, lại nói năng cởi mở, lòng những mừng thầm. Khổng Lệnh Bồi bên cạnh chắp tay cười nói: “Tiên sinh xem ra không khỏe lắm, tiệc rượu phía sau còn chưa bắt đầu, xin tạm dùng tẩy trần cho tiên sinh!” Trịnh Xuân Hữu cười nói: “Đúng như vậy! Tiên sinh đã đến thì tạm ở đây mấy ngày. Chúng tôi có đủ cầm kỳ thi họa, nhất định hợp ý tiên sinh. Còn nếu tiên sinh không chiếu cố, thì tôi có phải dùng bá quyền mà giữ khách không đây?”
Trịnh Xuân Hữu cười ha hả, vô cùng ân cần thân thiết, mời Ngũ Thứ Hữu vào nhà sau: “Mời vào, mời ngồi bên này, ngồi ở phòng tây sảnh hoa đây!”
Ngũ Thứ Hữu vừa bước vào sảnh hoa, lập tức đứng đực ra đó, hoảng kinh mặt trắng bệch ra, không bước nổi nữa. Vốn là thị vệ trước giá Bình Tây vương phụng lệnh bắt ông ở gác nghênh phong phủ An Khánh, đả hổ tướng Hoàng Phủ Bảo Trụ đang cười hí hửng ngồi tiếp đãi ông!
“Quả thật là Đất nứt trời nghiêng không thấy mặt, núi non cách trở lại tương phùng!” Hoàng Phủ Bảo Trụ thấy ông bước vào, cười ha hả đứng lên nói, “Tiên sinh thật là người tốt tướng trời, gặp đại nạn không chết, không ngờ gặp lại tiên sinh ở đây, há chẳng phải ba sinh duyên số?”
“Quan Tây Tuyển!”
“Không... phải!” Đôi lông mày của Trịnh Xuân Hữu nhướn lên, hắn kéo dài tiếng cười nói, “Học sinh mười năm nghèo khó, ba bận văn chương, hai bảng tiến sĩ, điện thí chọn vào nhị giáp thứ mười một. Tuy không tôn quý bằng tiên sinh cũng là người có văn hóa! Tiên sinh không nên hoảng sợ, xin yên tâm nhập tiệc, chúng ta sẽ bàn cụ thể.”
“Được thôi!” Đến bước này Ngũ Thứ Hữu biết đã rơi vào bẫy đồng lưới thép, lòng cứng rắn lên ngồi ngay vào ghế đầu, bưng chén uống cạn một hơi, thấy trong mâm có tay khỉ, vịt quay liền cười nói, “Hai món này nếu làm tốt thì là món ăn thượng hạng, nếu làm không tốt thì một miếng cũng không ăn nổi – Không có một trăm lượng bạc thì không làm được, đã nhờ hai vị yêu mến như vậy kẻ bất tài này xin nhận trước!” Vừa nói vừa gắp một miếng thịt lợn sữa quay bỏ vào mồm nhâm nhi, cười nói, “Bệnh lâu ngày muốn ăn, được thưởng thức món ngon này thật là có phúc – Lệnh Bồi tiên sinh, ông tổ ông nói nghe nhạc ba tháng không biết mùi thịt, e rằng không đúng.”
“Khoái thật!” Hoàng Phủ Bảo Trụ thấy Ngũ Thứ Hữu khí khái như vậy, cảm thấy hơi hổ thẹn, đứng lên rót rượu cho Ngũ Thứ Hữu, cười nói, “Tiên sinh tao nhã vô cùng, tôi ở dưới cờ Bình Tây vương hơn mười năm rất ít thấy được người khoáng đạt như thế này!” Khổng Lệnh Bồi bên cạnh cười nói: “Tướng quân Bảo Trụ tới đây đã ba tháng, chuyên đợi tin tức tiên sinh, không ngờ tiên sinh đến thăm nha phủ.” Vừa rồi Ngũ Thứ Hữu có nói ba tiếng “ông tổ ông” ông nghe rất khó chịu, liền nói móc một câu trả thù.
Ngũ Thứ Hữu lại uống một chén rượu, gương mặt trắng bệch đã có sắc hồng, đặt ly lên bàn đẩy ra, cười lạnh lùng: “Chẳng qua họ Ngũ tôi thời vận không tốt, gặp đúng người ôm cây đợi thỏ!”
“E chẳng phải thế đâu?” Trịnh Xuân Hữa cười ha hả rót rượu cho Ngũ Thứ Hữu, “Thiên hạ làm gì có cái cây to như vậy – phía trên lá chạm mây xanh, ở dưới rễ thông ba suối, lay động thì sinh ra gió, hít thở có thể làm mưa, kỳ lân, báo gấm chầu ở dưới, chinh loan, phượng hoàng làm tổ ở trên, chồi mọc khắp mặt đất, nhặt mắt mà rễ lan rộng...”
“Đó chẳng qua là cây bàng quỷ, lâu thì sinh biến, trở thành cây ma quái, tưởng Ngũ Thứ Hữu không biết nó sao?” Ngũ Thứ Hữu vừa nghe đã biết trò ma mãnh “Sách Quỷ Cốc gửi Tô Tần Trương Nghi” nói lời đại ngôn để lừa người, thuận mồm đối đáp, “Nếu mà Thượng đế nổi giận, gió mây đổi màu, chớp nháy trên không, sấm sét giáng xuống, thần gió vỗ cánh ra uy, Chúc Dung đốt lửa lên, thần rồng rắn ra sức phụng sự, Phục Hy cưỡi xe thiên mã sáu rộng tới Ngũ Hoa sơn, thì cây đó có còn không?”
Trịnh Xuân Hữu đầu óc lắc lư, đang đắc ý nói thao thao bất tuyệt, bỗng nhiên bị mấy câu “lửa bốc ngút trời” của Ngũ Thứ Hữu chặn họng, một lúc không nghĩ ra ý gì hay bẻ lại, cười gượng một tiếng, bưng chén rượu uống, cười nói: “Làm gì có ngọn lửa to như vậy, có điều văn chương làm ra vẫn có thể đọc.” Bảo Trụ và Khổng Lệnh Bồi thấy hai người vừa gặp nhau đã nổ rền như sấm sét, bất giác trong bụng phục ngầm.
“Có còn gì cứ nói hết đi?” Ngũ Thứ Hữu cười nhạt nói. “Vừa rồi xem như một màn mở đầu xuất sắc.” Lúc này anh đã hăng lên, hoàn toàn đã không còn là một người bệnh lâu mới khỏi.
“Ừm... Như thế này,” Qua hai lần tiếp xúc với Ngũ Thứ Hữu, không hiểu sao Bảo Trụ lại muốn báo đáp, hắn mỉm cười nói, “thực ra tiên sinh đã biết, chúng tôi phụng vương mệnh, cũng là chuyện chẳng đặng đừng, tốt nhất vẫn cứ mời tiên sinh đi Vân Nam, gặp Vương gia, những chuyện khác sẽ dễ bàn thôi.”
“Vân Nam là không đi.” Ngũ Thứ Hữu nói dứt khoát. Ông có vẻ như chẳng đáng để ý, gắp một đũa thức ăn cho vào mồm, “Nơi đó chốn chốn đều khí chướng hơi độc, ta không muốn đi chết. Muốn chết thì chết ở Trung Nguyên tốt hơn.”
Trịnh Xuân Hữu nghe xong cười nham hiểm, ghé sát Ngũ Thứ Hữu nói: “Không đi cũng được, nghe nói Hoàng thượng bảo tiên sinh thảo văn bản gì đó, ngại gì không dạy cho một chút, đảm bảo tiên sinh có thể du ngoạn giang hồ, không ai dám làm phiền tiên sinh.”
“Còn nếu ta không chịu dạy cho? Đừng có quên, Ngũ ta đến quý phủ, người biết rất nhiều!” Ngũ Thứ Hữu cười híp mắt nhìn Trịnh Xuân Hữu, lấy tay nắm nhẹ ly rượu hỏi, “Bây giờ ta nhớ lại rồi. À, Trịnh Xuân Hữu, rốt cục ngươi là thần tử của nhà nào? Ngươi mặc sắc phục triều đình lại đi bắt người cho Ngô Tam Quế, viết biển, tập trung thuốc cho nhà thờ Chung Tam Lang, rốt cuộc có mấy ông chủ? Là ba, hai, hay là một?” Ngũ Thứ Hữu vạch rõ mối quan hệ của hắn với nhà thờ Chung Tam Lang ngay trước mặt làm hắn hơi hoảng: Ừ ào cho qua chuyện với Chu Tam Thái tử là có con cháu Ngô Tam Quế đồng ý, còn cấu kết thêm bước nữa là chủ trương của tự hắn. Trịnh Xuân Hữu giận dữ nghiến răng, cười gằn một tiếng: “Bây giờ tốt nhất là ông nên nghĩ về chuyện của mình. Ông nên biết, thư sinh giết người không giống bình thường. Ví dụ tên thư lại vừa rồi đưa danh thiếp của ông vào, ông rất khó đoán được bây giờ anh ta ở đâu, còn sống hay đã chết.”
“Tùy ngươi thôi.” Ngũ Thứ Hữu cười như không có chuyện gì, đứng dậy hỏi, “Ở dưới giếng hay trên xà nhà? Dùng dao hay dùng rượu độc? Xin chỉ giáo.”
“Ta không nỡ giết ông!” Hoàng Phủ Bảo Trụ cười. “Có điều tiên sinh ngạo mạn quá đáng, như vậy thôi – tiên sinh bệnh nặng mới khỏi, trước hết cứ ở trong thư phòng vườn này, việc của chúng ta không gấp, cứ chầm chậm đợi tiên sinh nghĩ thông rồi chúng ta hãy lên đường. Ở đây có mấy chục anh em phục dịch tiên sinh, cần gì cứ sai bảo, chỉ có bên ngoài thời tiết không tốt, không nên ra ngoài.” Nói xong đứng dậy khoát tay, hai tên to cao khỏe như vâm đã vào đứng trước cửa. Ngũ Thứ Hữu đứng dậy, rũ tay áo bước theo, không thèm quay đầu nhìn.
Người thư sinh gàn bướng này không chịu nghe theo mệnh lệnh, ba người bọn Bảo Trụ thấy khó xử. Đợi Ngũ Thứ Hữu đi ra, Trịnh Xuân Hữu nhìn Khổng Lệnh Bồi, hỏi như có ý cật vấn; “Ông thấy chưa?”
“Người này thích mềm, không thích cứng.” Khổng Lệnh Bồi cười nói, “Chúng ta nên học gương Tào Mạnh Đức, cũng làm chuyện “ba ngày một tiệc nhỏ, năm ngày một tiệc lớn”, gái đẹp thêm gấm vóc dưỡng sức cho hắn, cho là thép cứng cũng phải tan chảy thôi – Chỉ đáng tiếc cô nương Tử Vân đã đi Bắc Kinh rồi.” Bảo Trụ cười nói: “Kế này làm được. Rốt cuộc là sau thánh nhân, các cách nghĩ ra đều mang mùi vị “hưởng lạc”. Nhưng đó không phải là chuyện ngày một ngày hai.”
“Vẫn phải giải hắn về Vân Nam nhanh nhất!” Trịnh Xuân Hữu ngẫm nghĩ một hồi nói, hắn cảm thấy để Ngũ Thứ Hữu ở lâu trong phủ là không hay.
Bảo Trụ nghe không cho là đúng, ngần ngừ rất lâu mới nói: “Vân Nam cách đây trăm núi ngàn sông, Ngũ Thứ Hữu nếu chịu đi thì không có gì phải nói. Bây giờ ông ta không chịu đi, triều đình bốn phương tìm kiếm ông ta, chẳng may có chuyện bại lộ, tôi dù có bản lĩnh đến đâu cũng không dám trở về Vân Nam! Hơn nữa, bây giờ Vương gia cần là con người Ngũ Thứ Hữu, trên đường đi, nếu ông ta không ăn không uống, lẽ nào bảo ta kéo cái xác chết về gặp Vương gia.”
Khổng Lệnh Bồi phe phẩy chiếc quạt, trầm ngâm nói: “Như thế này, Ngũ Thứ Hữu đã rơi vào tay chúng ta, tôi thấy cũng chưa chắc đã cần đưa hắn về Vân Nam, ở đây ta moi cho được cái Vương gia cần, chẳng tiện hơn sao? Ngũ Thứ Hữu còn hay chết chẳng liên quan gì.”
Bảo Trụ lại nói: “Tốt nhất là còn sống, tôi đoán Vương gia muốn dùng hắn, cũng là muốn nắm rộng nhân tài, vả lại có thể lấy làm bằng chứng cự tuyệt triệt phiên, chết rồi thì chẳng còn gì đáng giá.”
“Tên nho gàn này cứng mềm đều không được, anh giữ hắn thì được cái gì?” Trịnh Xuân Hữu thường ngày rất tự phụ, bài bản hôm nay làm hỏng bét, cảm thấy ảo não, nghe Bảo Trụ nói như có ý bảo vệ Ngũ Thứ Hữu liền vặn lại một câu.
“Mềm chưa chắc không ăn.” Khổng Lệnh Bồi cười nói, “Chỉ cần nuôi được nó, cung phụng cơm ngon canh ngọt. Chúng ta cũng thừa dịp kết bạn với hắn, có thời gian nhất định tìm ra chỗ hở – Bảo Trụ không phải thích đánh cờ sao, có thể thường xuyên đánh cờ với hắn.”

