Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 24
24
Cảm ơn sâu, thư sinh thăm gái nghèo
Trừ gian tế, Hoàng hậu hỏi Thái giám
Từ khi ăn của A Tỏa một chén tàu hũ ở Hội quán Tương Ngạc, Châu Bồi Công luôn lo lắng trong lòng, đã đi tới mấy lần nhưng không còn gặp cô ấy. Về sau tới hẻm mì nát hỏi thăm, mới biết A Tỏa họ Cố, nhà có một ông cha tuổi già lắm bệnh, và một ông anh đi làm thuê cho người ta, sống rất vất vả. Nhưng vì sao không kiếm ăn bằng nghề bán tàu hũ nữa, thì láng giềng không ai biết.
Sau Tết Đoan ngọ thì Châu Bồi Công phải đi xa. Đồ Hải thấy anh thay quần áo thường, liền cười nói: “Lại tới hẻm Mì nát tìm Cố A Tỏa phải không? Chú em, chú nay tư cách khác trước rồi, nên suy nghĩ cho kỹ đi! Mấy hôm trước, ông Khương, Lang trung bộ Lại có nhờ người tới hỏi thăm chú, chắc là muốn gả em gái cho chú em, tôi chỉ hàm hồ thoái thác cho qua chuyện. A Tỏa tuy tốt nhưng hơi nghèo hèn. Hơn nữa bây giờ cô ấy có ai hay chưa cũng không rõ, làm gì phải khổ sở chuyện đó – còn muốn đền ơn, thì cứ lấy năm trăm lạng bạc đưa cho người ta!”
“Đâu có! Đâu có!” Châu Bồi Công đánh trống lảng, “Tôi không có ý gì khác, chỉ vì chịu ơn người ta to như vậy, mà tìm gặp mặt không được, cũng không nói được một câu cảm ơn, há không phải là không biết lễ sao?” Đồ Hải cười ha hả: “Nếu chỉ như vậy thì sao chú không đường đường chính chính đến nhà gõ cửa, nói trước mặt cô ta: “Tôi là Châu Bồi Công đến trả cô chiếc trâm, đền ơn cho cô đây!” Nói rồi đi là xong.”
Châu Bồi Công bị trêu mặt đỏ đến mang tai, không ngờ cái anh Đồ Hải này đã nhìn thấu nỗi niềm thầm kín của mình. Suy nghĩ kỹ lời Đồ Hải nói cũng có lý, mình không có gì xấu hổ cứ mạnh dạn gõ cửa nhà cô ta thì có gì phải ngại.
Đến cửa nhà A Tỏa, Châu Bồi Công lại hơi do dự: Một chàng trai trẻ tự nhiên đi tìm một cô gái trẻ, người nhà A Tỏa hỏi thì phải trả lời ra sao? Anh vội rụt tay lại. Nhưng dáng vẻ thần sắc A Tỏa khi múc tàu hủ cho anh lại hiện ra trước mắt. Trên con đường đời tình người đạm bạc, sự ân cần, ấm áp của cô đối với chàng, một lúc lại dâng lên trong tim chàng, nếu vì mình nhút nhát mà để mất nó đi, thì ân hận suốt đời... Châu Bồi Công suy nghĩ, đang định giơ tay gõ cửa, thì cánh cửa đã kẹt một tiếng mở ra. A Tỏa xách một giỏ quần áo đi ra, thấy Châu Bồi Công đứng trước mặt, mắt cô sáng lên, rồi cô cúi đầu xuống, nói nhỏ nhẹ: “Châu… đại nhân.”
Nghe hai tiếng “đại nhân” Châu Bồi Công bỗng thấy lòng nguội lạnh, nhưng rồi anh cười cởi mở, nói: “Đại nhân cái gì, tôi vẫn là Châu Bồi Công mà! Tôi đã tới đây mấy lần, vẫn không tìm ra cửa nhà cô, lẽ ra tôi phải đến sớm hơn...”
A Tỏa nghe chỉ cúi đầu, trên mặt thoáng mỉm một nụ cười khó mà nhận biết, mồm lại nói: “Nơi này hẻo lánh quá, chúng tôi lại là nhà dân nghèo hèn, không dễ hỏi thăm đâu…” Nói xong quay lại đẩy cửa, rồi nói với Châu Bồi Công: “Trong nhà lộn xộn lắm, ngài tạm vào đây ngồi một chốc.” Châu Bồi Công nghe giọng cô nói hình như mấy lần anh bàng hoàng trước cửa đều bị cô nhìn thấy, bất giác đỏ mặt, hoảng hốt nói: “Khỏi vào, làm kinh động người bệnh. À, cô không đi giặt áo sao? Vừa hay tôi cũng cần tới phố bờ Tây Hà thăm người bạn, ta cùng đi được không!” A Tỏa ngẩng đầu liếc nhìn Châu Bồi Công, thấy xung quanh không có ai quen, hơi ngập ngừng rồi gật đầu đồng ý.
Hai người im lặng đi một đoạn đường, không ai nói gì. Châu Bồi Công hai tay nắm đã đổ mồ hôi, rất lâu, mới nói cho có chuyện: “Trong nhà cũng sống được chứ?” A Tỏa cũng không quen trường hợp này, nghe Châu Bồi Công hỏi liền “ừ” một tiếng rồi mới nói chậm rãi: “Từ năm kia, cha tôi đã bị bệnh, trong nhà sống rất khó khăn, hai anh em chúng tôi khổ sở kiếm tiền, cũng chỉ đủ cái ăn, anh tôi lại không chịu thua kém ai, sinh chuyện ra, bị người ta…” Nói tới đây cô bỗng thấy lỡ lời bèn ngừng lại.
“Anh cô thế nào?” Châu Bồi Công dừng lại hỏi.
“Chà! Không nói được.” A Tỏa thấy anh dừng lại, đành cũng đứng lại. Nơi đây là mả tổ Trương Các nhà Minh trước, vô cùng hoang vu. Vì ngày lễ, lại gần giờ Ngọ, gần xa chẳng thấy một bóng người trên đường, ánh mặt trời chiếu qua rặng dương liễu xanh um tươi tốt, từng đám tường vi hoang nở hoa đỏ tươi trước ngôi mộ đất vàng. A Tỏa liếc mắt nhìn Bồi Công, cúi đầu than thở: “Anh làm công ở nhà họ Vưu, thích cô đầy tớ bà chủ nhà họ Vưu... sau bị người ta bắt được ở ngoài đồng, bị đánh cho một trận, cắt mất bím tóc, bây giờ nằm nhà chữa bệnh, không dám ra ngoài. Nhà họ Vưu ngày nào cũng tới, bảo anh đi làm... Ôi!” Cô nói, dòng nước mắt chảy tràn bờ mi, “Tôi khổ là không biết tiên sinh nghĩ như thế nào, việc này lẽ ra không nên nói, xấu hổ chết đi được!”
Châu Bồi Công bây giờ mới rõ lý do mấy ngày nay cô không đi ra ngoài buôn bán, suy nghĩ một lát, rút trong đôi ủng một tờ ngân phiếu đưa ra nói: “Đây là tờ ngân phiếu năm mươi lạng bạc, cô tạm cầm lấy đỡ cơn ngặt nghèo – Không không, cô đừng từ chối! Ta không có ý gì khác. Châu Bồi Công tôi phiêu bạt kinh sư, trước mắt không có người thân, chịu ơn sâu của cô, ơn này, đức ấy, lẽ nào mấy lạng bạc này đủ đền đáp sao?”
“Không phải vì chuyện đó.” A Tỏa vội phân bua, nói, mở mồm mấy lần, không nói ra lời.
“Tại làm sao!”
“Cha hỏi tiền ở đâu ra, tôi... biết nói làm sao?”
Hai người đều lo lắng, Châu Bồi Công vốn là người biết nói, giỏi bàn, túc trí đa mưu, nhưng lúc này nghe A Tỏa nói quả thật có lý. Anh từ từ rút tay lại, rất lâu mới nói: “Thôi được, hôm sau tôi sẽ tới nhà, sẽ nói rõ trước mặt cha cô, như vậy được không?” Hai người đi men theo con đường nhỏ xuyên qua giữa những ngôi mộ, bỗng A Tỏa kêu thét lên một tiếng, vội lùi lại hai bước, hầu như ngã vào lòng Châu Bồi Công. Châu Bồi Công nhìn lại, té ra là một con rắn bò ngang qua đường, anh bước tới nhặt lên run run ném vào đám cỏ, cười nói: “Đó là vị thuốc, có gì đáng sợ đâu? Tôi cứ tưởng là cô thấy xác chết đội mồ bò lên chứ?”
“Vùng này không yên ổn, thường có ma.” A Tỏa lấy tay vuốt mồ hôi trên mặt, nói ra còn chưa hoàn hồn, “Bữa nay mà không có anh đi cùng tôi phải đi vòng xa thêm hai dặm đường nữa.”
Châu Bồi Công cười nói: “Trên đời làm gì có ma quỷ! Tiên phật thần đạo đều do người hoang tưởng tạo ra. Lúc tôi mới tới Bắc Kinh, sau chùa Pháp Hoa có một vùng mộ hoang lớn, mùa hè một mình tôi tới đó nghỉ mát có thấy một con ma nào đâu? Cô lại đi tin những thứ đó!”
“Tiên sinh không nên nói bừa những lời như vậy.” A Tỏa nói nghiêm túc, “Thần quỷ là có thật... Ngài không thấy quỷ, chỉ là vì số ngài có phúc lớn, là quý nhân.”
Châu Bồi Công nghe xong im lặng hồi lâu, bỗng cười lớn.
“Ngài... ngài cười cái gì?” A Tỏa hoảng kinh dừng chân lại, chăm chú nhìn Châu Bồi Công, tưởng rằng anh ta bị ma ám.
“Tôi nhớ lại chuyện hồi tôi còn nhỏ đi thề với người ta!” Châu Bồi Công vừa đi tới, vừa nhớ lại kỷ niệm trước kia, nói: “Năm đó cha tôi vừa bị bệnh mất, mẹ thì nằm trên giường thở hơi ra. Thầy thuốc kê toa thuốc bảo người bệnh phải được bổ dưỡng, tôi chạy mấy chục dặm đường tới nhà bà chị cõng về một túi gạo, trước khi đi, bà chị lại trói một con gà cho tôi mang về – cô có thích nghe chuyện này không?”
“Có,” A Tỏa đáp, “anh nói tiếp đi, tôi đang nghe đây.”
Châu Bồi Công thở ra một hơi. “Về tới nhà, tôi vừa luộc xong con gà, có bà thím trong nhà kêu la chửi mắng từ ngoài xông vào, cứ nói là gà nhà bà. Tôi nói với bà là gà chị tôi dâng cho mẹ đấy, bà không tin, nằm lăn ra đất vừa gào vừa chửi, làm cho hàng xóm trước sau đều tới hóng chuyện, năm câu ba sợi nói bóng nói gió. Mẹ tôi trong nhà nghe không xong, gắng gượng bước ra, một mặt vái lạy cầu xin bà thím, một mặt mắng tôi “không nên người”, bảo tôi phải xin lỗi bà ta... tôi không nghe, bà tức điên lên...” Châu Bồi Công nói tới đây, giọng hơi nghẹn ngào, A Tỏa mắt cũng ngấn lệ.
“Tôi lúc đó mới mười tuổi, tính cương trực đang hăng. Thấy mẹ ngã nằm xuống đất, giận run lên, tôi điên tiết nhào tới, nắm đầu bà thím chửi: “Bà là đồ chó, không chuyện đâm sinh sự, làm mẹ tôi tức chết, tôi liều mạng sống với bà! – Bà nói tôi ăn trộm gà nhà bà phải không? Đi tới miếu Quan Công bên kia, thề trước mặt thần đi, bà có dám không?”
“Bà thím nói: “Đi thì đi!”, rồi cùng tôi lôi nhau ra miếu Quan đế. Tôi run rẩy đốt hương, quỳ xuống đập đầu lạy, khóc to gào lên: “Ngài Quan đế, ngài Quan đế! Ngài là ông thần chính trực dưới đất, chuyên quản những chuyện bất bình. Xin Ngài đứng ra phán xử hộ, tôi, Châu Bồi Công không ăn trộm gà bà, bà gân cổ vu cho tôi. Nếu ngài linh thiêng thì xui khiến mụ đàn bà này ra khỏi cửa trúng làn gió độc; còn Châu Bồi Công tôi mà ăn trộm gà người ta, thì ra khỏi miếu này té xuống gãy chân!”
“Tôi cầu xin xong bò dậy, cảm thấy xây xẩm mặt mày, loạng choạng bước ra, quả nhiên vấp phải ngạch cửa cao, ngã đùng ra trên bậc thềm, liên tiếp lăn hai vòng, thật tình bị sái cổ chân không bò dậy được...” Châu Bồi Công tỉnh ra khỏi cơn hồi tưởng, thấy A Tỏa nghe say sưa, lấy tay áo gạt nước mắt, liền cười nói: “Cô không nói là có quỷ thần sao, vậy cô có tin là tôi nói thật không?”
“A di đà phật, tôi tin anh nói thật, nhưng đó là oan nghiệt của kiếp trước!” A Tỏa lại nói: “Người ta nghe trong lòng rất khổ sở, còn anh thì cười được!” Đã đổi tiếng “ngài” thành tiếng “anh” từ lúc nào không biết, “Rồi sau đó thế nào?”
“Về sau tôi ra sức học, mong muốn có ngày tôi khá lên, sẽ đốt sạch miếu Quan đế trong thiên hạ!” Châu Bồi Công nói. “Nhưng đọc sách rồi thì cũng nghĩ ra được, cần gì phải tức giận những người bù nhìn làm bằng đất sét đó?” Vừa nói vừa đi, nhìn thấy phía trước đã tới đường quan, phố lớn bờ Tây Hà đã ở phía trước. Hai người như từ một thế giới xa lạ nào trở lại với cõi đời. Cõi đời này không cho phép người nam, người nữ đơn độc tự do cùng đi, cùng trò chuyện với nhau. Hai người không hẹn mà đều cùng dừng lại.
“Tôi phải trở về rồi” Lòng Châu Bồi Công tràn ngập tình cảm luyến tiếc, nhìn A Tỏa với mối cảm tình sâu sắc.
“Ừm,” A Tỏa lùi lại hai bước, ngồi xuống một lát, rồi im lặng quay người đi.
“A Tỏa!” Châu Bồi Công bỗng kêu lớn.
A Tỏa dừng bước, nghi ngờ nhìn Châu Bồi Công im lặng. Châu Bồi Công bước tới mấy bước, nói khẽ: “Việc của anh cô, nhà họ Vưu có biết không?”
“Không ai biết cả, chỉ bị cắt bím tóc ở ngoài đồng.”
“Như vậy thì dễ rồi.” Châu Bồi Công cười nói, “Cô bảo anh cô, ban đêm cầm kéo đi vào rạp hát cắt hơn mười cái bím, rồi hô hoán mình cũng bị cắt mất bím, việc này thế là không còn phải lo.”
Đôi mắt to đen láy của A Tỏa chớp chớp, nghĩ mãi một hồi lâu mới chợt nghĩ ra, cô bụm miệng cười, chỉ tay vào Châu Bồi Công nói một câu “Anh này...” Rồi đỏ mặt, cô vội bước nhanh.
Khang Hy từ chùa Thanh Chân Phố Bò trở về đại nội đã là nửa đêm. Đêm hôm nay đánh nhau bằng mồm, lại tự mình chỉ huy, xử lý rất ổn thỏa. Tuy mệt hết sức, nhưng vô cùng hào hứng, không còn muốn ngủ, cứ muốn tìm một người để trò chuyện, liền bảo Trương Vạn Cường: “Sắp sẵn kiệu, Trẫm đêm nay tới cung Trữ Tú, truyền Quý phi Nữu Hộ Lộc cùng đi.” Trương Vạn Cường vội dạ một tiếng rồi đi ra.
Hoàng hậu Hách Xá Lý chưa đi ngủ, bà ngồi một mình dưới đèn với mấy lá bài giấy, bói xem về đường con cái, nghe nói hoàng đế nửa đêm sẽ tới, vội trang điểm ra nghênh đón.
Khang Hy mặt mày hớn hở cười nói: “Đêm nay Trẫm có chuyên vui, sốt ruột tìm người tâm sự!” Nói xong nắm tay Hoàng hậu bước lên thềm vào điện. Quý phi Nữu Hộ Lộc một lát sau cũng tới, thấy Hoàng đế và Hoàng hậu đang nói chuyện liền quỳ xuống một bên. Khang Hy thấy bà dập đầu làm lễ, chỉ hơi gật đầu, cười nói: “Đứng lên đi!”
“Vạn tuế,” Hách Xá Lý đang sai người mang nước sâm bà đã hãm cho Khang Hy, nói, “Đêm nay có chuyện gì hay? Nói cho các thần thiếp nghe để được vui lây.”
“Ừ!” Khang Hy vén tay áo, bưng chén sâm hớp một ngụm, rồi đem màn kịch vui ở Phố Bò diễn tả sinh động cụ thể một lượt, làm cho Nữu Hộ Lộc nghe lúc thì mặt mày xám ngắt, lúc thì che miệng cười.
Hoàng hậu thì cả buổi không nói năng gì, lặng im nghe Khang Hy nói xong, trầm ngâm một lát mới cười nói: “Đức Vạn tuế, năm đó Ngũ tiên sinh giảng bài cho ngài, thần thiếp có lén nghe mấy lần, nói cái gì “Người tri mệnh yêu thân mình, không đứng dưới bức tường đá”. Người nghèo hèn rất coi trọng việc này, huống chi Hoàng thượng là vua một quốc gia hùng mạnh? Về sau bớt tới những nơi nguy hiểm mới tốt, những việc như thế này chỉ cần sai một vị tướng đi là được. Đó là một.”
“Hả! Còn điều thứ hai nữa sao?”
Hoàng hậu ngó qua ngó lại, mấy cung nữ, thái giám vẫn còn hầu ở cửa điện, bàn phất tay áo nói: “Các ngươi lui hết ra, chỉ để một mình Mặc Cúc ở lại hầu.”
Mặc Cúc là nô tài sinh ra trong nhà mà Hoàng hậu đưa vào cung, được tin cẩn nhất, nghe Hoàng hậu dặn, quỳ xuống dạ một tiếng, rồi đi ra xua mọi người tránh đi, còn mình đứng hầu bên ngoài điện.
“Khanh cũng quá cẩn thận.” Khang Hy thấy mọi người lui ra liền cười nói, “Ở đây còn có người ngoài sao?”
“Thứ hai nói là điều này.” Hoàng hậu đứng lên rót một chén trà Phổ Nhĩ, hai tay bưng cho Khang Hy, rồi ngồi xuống nói, “Vạn tuế vừa nói rất cụ thể, thần thiếp nghe từng câu từng chữ. Có điều tên giặc họ Dương sau đó đã biết Hoàng thượng đích thân đến Phố Bò, lẽ ra phải bỏ mà đi, vì sao cứ mải miết đốt lửa? Quả thật là to gan!” Nữu Hộ Lộc cũng ngẩn người, căn bản bà không hề nghĩ tới điều này.
“Đốt lửa làm ám hiệu!” Khang Hy hoảng hốt đứng ngay dậy. Trên đường trở về, vua cũng thấy việc đó lạ lùng, bây giờ Hoàng hậu nhắc tới lập tức tim đập thình thịch: “Đốt lửa làm hiệu”, việc này quyết định ở cung Càn Thanh, bọn giặc làm sao biết được nhanh vậy! Khang Hy suy nghĩ, đặt mạnh chén trà xuống bàn, ánh mắt sáng quắc nhìn ra bên ngoài, nghiến răng nói: “Khanh nói rất đúng – trong cung quả có gian tế... té… ra… là... vậy!”
Hách Xá Lý thấy Khang Hy vừa sợ vừa giận, sắc mặt biến đổi nhiều, vội đứng lên nói: “Vạn tuế cần gì phải giận dữ như vậy? Còn tốt là kế gian của giặc chưa thực hiện được đã bị chúng ta phát giác. Việc này để thần thiếp và Quý phi dần dần truy xét.
“Bay đâu!” Khang Hy bỗng kêu lên, “Truyền chỉ gọi Trương Vạn Cường và Tiểu Mao điện Dưỡng Tâm tới đây!”
Mặc Cúc ở ngoài cửa dạ một tiếng rồi đi sai người. Hoàng hậu cười trách: “Vạn tuế hôm nay không mệt sao? Đã quá nửa đêm rồi, còn bảo chúng đến làm gì nữa? Cửa cung các nơi đều đã khóa, gây việc kinh động phải tính sổ đó.”
“Tính sổ thì tính sổ.” Khang Hy đã nguội bớt, thở ra một hơi, đưa chén trà cho Nữu Hộ Lộc, “Đổi chén trà nóng đây – Việc này phải xử lý càng sớm càng tốt. Cửa cung đã khóa, người biết chuyện cũng ít, thì tốt hơn chứ – truyền lệnh, ai dám nói bậy thì đưa phủ Nội vụ nhốt bỏ chết đói!”
Hoàng hậu gật đầu cười nói: “Hoàng thượng sáng suốt, chỉ là đêm khuya rồi, đừng làm mệt quá!” Khang Hy lại than: “Làm Hoàng đế như Trẫm đây không dễ, theo như người Hán nói, ta, khanh đều là mọi Di, có rất nhiều người trong bụng không phục. Phải biết rằng, những việc Hoàng đế nhà Minh cũ chỉ cần một phần sức thì Trẫm phải bỏ sức ra năm phần mười phần mới làm được!”
“Điều Vạn tuế nói là tình thực.” Nữu Hộ Lộc cũng gật đầu than.
“Nay đang lúc nước nhà có lắm việc, Trẫm không thể xuôi tay mà trị – đều bảo bên dưới đi làm, thì dễ sinh điều tệ hại.” Khang Hy nói, rồi bất giác thở dài, “Không yên dân, không thể nói đến dẹp phiên; không tập trung tiền của, không thể nói đến việc quân – đây là lời Ngũ tiên sinh viết trong thư gửi Trẫm, nói rất đúng! Kho nhà nước của Trẫm thiếu thốn như vậy, mỗi năm còn đưa hai mươi triệu lượng bạc đi nuôi ba cái của báu sống đó, xưa nay đâu có hạng Hoàng đế u ám như vậy? Yên lòng dân, tập trung tiền của, lo việc quân, đều phải bắt đầu từ việc gần dân, Trẫm không gần dân, mỗi ngày ngồi trong cung Càn Thanh, đừng nói là hơn Đường Thái Tông, ngay so với cả các vị Tống Huy Tông, Tống Khâm Tông cũng không bằng! Các khanh thử nghĩ xem, là nên làm Trưởng Tôn Hoàng hậu hay là Chàng ở đầu tường dựng cờ hàng, Thiếp chốn thâm cung đâu được biết tốt hơn?”
Trong lúc Khang Hy đang thuyết lý dông dài tâm trạng nỗi niềm của mình thì Trương Vạn Cường và Tiểu Mao thở không ra hơi chạy vào, một trước một sau dập đầu chào Hoàng đế, Hoàng hậu và thỉnh an Quý phi, xong mới hỏi: “Đức Vạn tuế truyền nô tài chúng tôi vào có ý chỉ gì?” Cơn giận của Khang Hy đã nguôi rồi, vua thổi những bọt trà, quay mặt nói với Hoàng hậu: “Khanh là chủ ở Lục cung, khanh nói với họ đi. Trẫm muốn nghỉ một chút.”
“Vâng ạ!” Hoàng hậu đáp một tiếng, bà ngồi hơi chếch trước mặt Khang Hy hỏi, “Hôm nay Hoàng thượng bàn việc tại cung Càn Thanh, trong hai người ai trực?”
Trương Vạn Cường vội quỳ xuống thưa: “Bẩm Hoàng hậu, nô tài trực ạ!”
“Ngoài các đại thần Vạn tuế triệu gặp, còn có ai trong cung không?”
“Có nô tài,” Trương Vạn Cường ngẩng đầu, bấm đốt ngón tay nhớ lại, “Lưu Vĩ, Hoàng Tứ Thôn, Thường Bảo Trụ, Trần Tự Anh... cộng là hai mươi tư người, đúng rồi, Vương Trấn Bang ở điện Vân Hoa cũng có việc tới đó.”
Khang Hy nghe thấy chưa nhằm chỗ, liền hỏi xen vào một câu: “Trẫm nói “đốt lửa làm hiệu, mười hai nơi chùa Thanh Chân đồng loạt ra tay”, các ngươi có nghe thấy không?”
“Nô tài có nghe thấy.” Nghe tới đây, Trương Vạn Cường đã nắm được ý Khang Hy, vội cúi đầu đáp, “Người khác, nô tài không dám nói đều nghe thấy, nhưng khẳng định số người nghe được không phải ít, lúc đó bàn một hồi, mới giao cho Đồ Hải đại nhân – Đức Vạn tuế không bảo nô tài tránh đi.”
“Hoàng thượng nói bên này, tin tức lộ ra bên kia, như vậy còn ra cái gì?” Hoàng hậu bỗng nổi giận nói, “Trương Vạn Cường, công việc ông làm như thế nào?”
Giọng nói tuy không cao, nhưng rất nghiêm khắc. Tiểu Mao một bên cũng sợ xanh mặt, vội quỳ xuống cúi đầu, không dám thở mạnh. Trương Vạn Cường nghe lời khiển trách, chỉ liên tiếp dập đầu, “Dạ, dạ!” mà không nói ra lời.
Khang Hy thấy ông hoảng kinh, liền nói khẩu khí trở lại bình thường: “Trương Vạn Cường, Trẫm cũng biết ngươi trước nay vẫn cẩn thận, hôm nay cái thùng đó thủng rất to, ngươi biết không?”
“Nô tài đáng chết!” Trương Vạn Cường đáp giọng như mếu, xin Hoàng thượng và Hoàng hậu trị tội!”
“Trị tội cũng chưa xong việc...” Hoàng hậu lại nói, “ngươi đoán thử xem ai truyền tin ra!”
“Đó...” Mồ hôi nhỏ giọt trên trán Trương Vạn Cường, anh suy nghĩ rất lâu rồi lắc đầu đáp: “Trong một lúc, quả thật nô tài không đoán ra, không dám nói bậy khi quân.”
Bỗng Tiểu Mao bên cạnh nói: “Những người này nô tài biết hết, Vương Trấn Bang, Hoàng Tứ Thôn, ngoài họ ra thì không còn ai khác! A Tam đốt lửa phòng ngự trà cũng chưa dám chắc...” Trương Vạn Cường nghe, quay đầu nói: “Tiểu Mao, đây không phải trò đùa, mà là đầu rơi xuống đất đó!” Tiểu Mao nghe lời này không dám nói gì nữa.
“Ngươi ấm đầu rồi!” Hoàng hậu đập bàn một cái “đốp”, Khang Hy ngồi cách xa một chút cũng giật mình, bà nghiêm giọng nói, “Anh ta để ý giúp chủ mà ngươi ngăn cản – Làm sao ngươi biết ông chủ xử oan người ta?”
“Dạ!” Trương Vạn Cường hoảng sợ toàn thân run rẩy, giọng cũng run run nói, “Nô tài ấm đầu, sợ ông chủ xử oan người ta!”
“Hừm!” Hoàng hậu cười gằn: “Ngươi không nên hầu hạ ở điện Dưỡng Tâm nữa, về cung Từ Ninh thôi!”
Về cung Từ Ninh hầu hạ Thái hoàng Thái hậu, đó không phải là xử phạt. Nhưng là hắn bị đuổi trở về, không chỉ hắn mà cả Thái hoàng Thái hậu cũng khó chịu. Khang Hy lo lắng trong lòng, ra lệnh: “Cả hai người đều lui ra!” Trương Vạn Cường và Tiểu Mao bò dậy hai chân run bần bật bước ra ngoài, thắc thỏm quỳ dưới bóng đèn ngoài sân.
Khang Hy quay mặt lại, thấy Hách Xá Lý vẻ mặt giận dữ, bất giác cười nói: “Nhìn không ra bà chủ nhà này, quá lợi hại!” Nữu Hộ Lộc mãi đến lúc này mới dám thở ra, mặt mới lại có máu.
“Việc này không thể tùy tiện cho qua,” Hoàng hậu bình tĩnh lại, nói nghiêm trang, “không tề gia được thì không thể trị nước, bình thiên hạ.”
“Lời này cố nhiên không sai,” Khang Hy trầm ngâm nói. “có điều trước mắt không xử phạt Trương Vạn Cường, Trẫm đã nghĩ ra rồi, lần lộ tin tức này, không phải do thái giám ngồi lê đôi mách, mà cố ý truyền ra nhằm mưu việc lớn. Trương Vạn Cường làm sao ngăn cản được? Bên cạnh Trẫm hiện chỉ còn hai người này có thể tin giao việc. Tiểu Mao, Trẫm sẽ sắp xếp sau, không phá được kẻ thù, thì cũng không tự làm tổn thương mình. Hoàng hậu nên tha cho Trương Vạn Cường.”
“Vậy thì,” Hoàng hậu ngước mắt sai dặn Mặc Cúc, “gọi họ trở vào!”

