Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 28
28
Bà cụ Trương phiếm bàn chuyện loạn ly
Ngũ Thứ Hữu ngợi khen “Quạt hoa đào”
“Nói tới chuyện này, thì không phải một lúc mà nói xong!” Bà cụ Trương đứng lên rót cho mỗi người một chén trà, quay bảo người nhà: “Thuốc sắc được rồi thì đưa lên ngay”, rồi mới ngồi xuống thở dài, “Câu chuyện này người ngoài biết rất ít, hai nhà chúng tôi cũng không muốn làm to chuyện – nói ra thời gian cũng đã hơn bảy trăm năm rồi!”
Nghe nói vậy, Vân Nương sửng sốt. Ngũ Thứ Hữu trong bụng nhẩm tính, bảy trăm năm trước, chính là thời Ngũ đại hậu Đường – ông cũng không hề nghĩ ra hai nhà Khổng Trương lại có cội nguồn lâu đến như vậy.
Bà cụ Trương thấm giọng một ngụm trà, nói tiếp: “Đó là thời nhà Hậu Lương, vì thiên hạ loạn to, đạo nhà phủ Khổng cũng suy tàn.
“Lúc đó ông cụ Khổng Quang Tự, đời thứ bốn mươi hai, đã ba đời truyền đơn độc một người, ông cụ năm mươi tuổi mới có chút con nối dòng, đặt tên là Khổng Nhân Ngọc. Ba ngàn mẫu đất một hạt giống nảy chồi thành một cây con đơn độc, sợ để trong phủ nuôi không được, bèn bảo bà vú đưa về nhà nuôi – tức là bà cụ đời thứ nhất họ Trương chúng tôi, đến bây giờ đã truyền được hai mốt đời.”
Ngũ Thứ Hữu nghe tới đây, bất giác gật đầu: té ra “Bà cụ” này cũng là thế tập nhà họ Trương.
“Lúc đó có một người nghèo khó tên Lưu Mạc, đổi tên là Khổng Mạc để vào phủ làm sai dịch. Ông cụ thấy hắn siêng năng thật thà bàn giao cho hắn coi giữ kho phủ, các vật dụng quý, tiền bạc vải vóc và gia phả sáu mươi hộ thuộc chi gốc nhà họ Khổng tất tần tật, ban đầu người ta cho chuyện đó không quan trọng gì.”
“Hắn là người nghèo khó sao?” Vân Nương hỏi, “Nghe nói nhà họ Khổng “trai không làm đầy tớ, gái không làm nô tỳ” không phải vậy sao?”
“Đó là từ nhà Minh về sau mới đặt ra trai không làm đầy tớ, gái không làm nô tỳ, còn hồi trước vào phủ Khổng làm việc đều được đổi lấy họ Khổng.” Bà cụ Trương giải thích, “... Ai dè tên Khổng Mạc thấy đạo lý sự đời loạn lên bèn làm bậy, ăn cắp bạc trong kho, lại lén sửa gia phả tổ tông, thời gian lâu rồi, không ai không nói là hắn gốc họ Khổng, thuộc dòng máu thánh nhân.
“Năm Càn Hóa thứ ba ngày rằm tháng tám, ông cụ đặt tiệc rượu ở vườn hoa, mời người làm trong phủ uống rượu. Khổng Mạc ngồi bên cầm chịch, uống tới canh hai, đỡ ông cụ say mềm về phòng, nhân lúc không có người liền ra tay hiểm độc thắt cổ chết ông cụ.”
Tới đây, Vân Nương không nhịn được hỏi: “Tên đầy tớ này to gan như vậy lẽ nào quan phủ làm ngơ để mặc hắn sao?”
“Cô gái tốt bụng ơi, gặp lúc thiên hạ đại loạn!” Bà cụ Trương vỗ tay than, “không đến năm mươi năm đã thay đến năm triều đình, có quan phủ nào để tâm việc đó?”
“Còn thằng bé con?” Vân Nương lại hỏi, “Ăn rằm tháng tám, chẳng lẽ không đón nó về phủ?” Bà cụ Trương gật đầu nói: “Thằng bé mạng to, ngày đó đang bị sốt, ông cụ có sai người tới đón về, nhưng gió lớn, bà nhà không cho mang đi – tên Khổng Mạc giết ông cụ, đi ra triệu tập người phủ Khổng lại nói: Ông cụ đã chầu trời, trước khi chết có nói, bảo hắn Khổng Mạc tiếp ấn. Còn nói Khổng Nhân Ngọc là con riêng của người thiếp hầu tư thông với người ngoài đẻ ra, không được kế tục hương khói họ Khổng, sai người bắt về giết chết. Nhiều người trong phủ đã bị hắn dùng tiền mua chuộc, một đám tay chân kêu la ầm ĩ, vừa đốt đèn đốt đuốc vừa cầm gậy cầm dao kéo thẳng tới nhà họ Trương.
Người nhà bà cụ vui vẻ ăn tết với chị Hằng xong đã quá nửa đêm, đang định đi ngủ, nghe bên ngoài tiếng kêu la như chạy lụt, không hiểu có chuyện gì, vừa mở cửa ra, thì tên Khổng Mạc dẫn mấy mươi tên a tòng xông vào – làm bà cụ hoảng kinh. Khổng Mạc dưới ánh đèn cầm con dao sáng quắc, buộc bà cụ giao Khổng Nhân Ngọc cho hắn, nếu không tuân theo thì giết hết cả nhà!
Bà cụ run cầm cập bước vào trong buồng, thấy đứa con nhỏ dễ thương nhất của mình Cẩu Nhi đang giành nhau bánh trung thu với Khổng Nhân Ngọc, đang chí chóe bò trên sạp... Bà ôm Nhân Ngọc lên thơm một cái, nước mắt rơi lã chã. Định bước ra ngoài, quả thực lòng đau không nỡ, bà lại bế Cẩu Nhi lên, hai tay nóng hổi của Cẩu Nhi cầm bánh nhét vào mồm bà nói: “Mẹ, ăn, ăn, ăn đi!...” Con mẹ sinh, con mẹ dưỡng, đứa nào cũng máu mủ ruột rà!”
Nói tới đây, bà cụ Trương thở dài đau đớn, Ngũ Thứ Hữu đã hiểu rõ rồi, anh nhìn ngọn đèn mờ im lặng, còn Vân Nương nước mắt lăn dài trên gò má. Bà cụ Trương lau nước mắt nói tiếp:
“Bà cụ đang do dự, cánh cửa đã bị đẩy bật ra. Khổng Mạc bước nhanh vào phòng, sát khí đằng đằng hỏi: “Đứa nào là Khổng Nhân Ngọc?” Hai đứa bé thấy vậy sợ quá khóc thét lên, mẹ con ba người ôm nhau thành một cục, khóc lóc thảm thương... Bà cụ nghĩ bụng, ta tốt xấu cũng đã có ba đứa con, nhưng nhà họ Khổng chỉ có một người nối dõi! Bà nghiến răng ôm Cẩu Nhi đưa cho Khổng Mạc... Cẩu Nhi vừa kinh vừa sợ, ôm chặt cứng cổ mẹ không chịu thả tay, khóc thét, kêu lên: “Mẹ, con sợ...”
“Bé ngoan, đừng sợ...” bà cụ vỗ vỗ Cẩu Nhi, đem kẹo bánh trên sạp nhét vào lòng Cẩu Nhi, nói “đừng sợ, đừng sợ, một chặp là... tốt thôi!”
“Khổng Mạc nhận định đứa nhỏ này là Khổng Nhân Ngọc, nắm kéo đi, hắn vênh mặt cười, liền tại chỗ...”
Nói tới đây, bà cụ Trương lau nước mắt. Trong nhà im phăng phắc, một cây kim rơi cũng nghe thấy được, một vụ án thảm khốc xảy ra trong phòng chái đông nhà này bảy trăm năm trước như hiện ra trước mắt. Đừng nói Ngũ Thứ Hữu, ngay cả Vân Nương từng giết người không gớm tay cũng đau lòng nóng mũi, một hồi lâu mới ngẩng đầu hỏi: “Rồi sau thế nào?”
Về sau, nhà họ Trương phải dời nhà để tránh tai họa, trú trong núi sâu ở miệt Thạch Môn mười mấy năm, bà cụ suốt ngày kéo sợi, dệt vải, đi làm thuê cho người ta thêu thùa may vá giặt giũ kiếm từng ít một để nuôi dưỡng, cho Khổng Nhân Ngọc học hành. Trong năm Minh Tông Hậu Đường, Khổng Nhân Ngọc vào kinh đi thi, được triều đình phong làm Thái học sinh. Lúc đó bà cụ mới dám nói cho ông rõ lai lịch của mình, nhưng đôi mắt bà cụ đã không còn thấy được.
“Nhân Ngọc vốn định về quê rước mẹ vào kinh, nghe bà cụ nói vậy, vội về kinh ngay trong đêm, đem sự việc bi thảm của mình viết thành sớ tấu trình Hoàng thượng. Hoàng thượng nổi giận, đưa lính về Khúc Phụ bắt Khổng Mạc về kinh xử tội lăng trì. Gia thế thánh Khổng suýt bị đứt đoạn lại được Khổng Nhân Ngọc tiếp nối, đó là ông “Tổ trung hưng” đời thứ bốn mươi ba họ Khổng.
“Để báo đáp đoạn ơn nghĩa này của họ Trương, Khổng Nhân Ngọc tâu lên triều đình, phụng chỉ tôn họ Trương là thân thích ơn nghĩa đời đời của họ Khổng. “Bà cụ ngoại” là một chức quan, đời đời do con dâu trưởng nhà họ Trương thế tập, tính tới tôi bây giờ đã là hai mốt đời rồi.”
Vân Nương nghe xong thở ra một hơi dài, nói: “Con và anh cả một ngày buồn rầu, Khổng Lệnh Bồi là người họ Khổng, lại là người của quan phủ, ngang ngược như vậy, đến chỗ cụ không hiểu làm sao lại phục tùng vâng chịu!”
“Nó thì đáng gì? Gần bảy trăm năm nay, hai nhà Trương, Khổng chúng ta làm sui gia với nhau rất nhiều, con gái lớn của ta là Diễn Thánh phu nhân, mỗi khi có người nhậm chức công đều đưa đến một cái gậy chống đầu rồng đốt tre, đến cả Diễn Thánh phu nhân cũng đánh được – Chúng tôi là người làm nông không sống nhờ những thứ ấy, cũng không chú ý thân thích ơn nghĩa gì. Có điều đó là cụ tổ dạy phép nhà của họ Khổng đời đời truyền lại, người nhà họ Khổng rất coi trọng điều này. Khổng Lệnh Bồi gan to tới đâu mà dám đi khám xét cái nhà này?”
Nửa tháng sau, vết thương của Ngũ Thứ Hữu hoàn toàn bình phục, giọng nói cũng trở lại bình thường, hai người bèn bàn việc lên đường. Theo Vân Nương nghĩ, Ngũ Thứ Hữu phải lập tức vào kinh, còn ở đây thì sớm muộn cũng sẽ sinh chuyện, vả lại hiện nay Hoàng thượng đang mưu tính việc lớn triệt phiên, có thể giúp vua lập kế sách. Nhưng Ngũ Thứ Hữu lại tính khác: Tư mình đã được ban vàng về quê hương, ra ngoài đi quanh một vòng lại quay về kinh sư, thì còn mặt mũi nào? Cho nên ông đã quyết ý không làm quan: mà đã không làm quan thì vào kinh làm gì?
“Tiên sinh đã không trở về Bắc Kinh,” Vân Nương nói, “Vậy thì tôi phải đi!” Đã cùng sống với Ngũ Thứ Hữu một thời gian dài như vậy, với sự tế nhị nữ tính cô nhận thấy Ngũ Thứ Hữu không sao quên được mối tình với Tô Ma Lạt Cô, cô cũng trực giác cảm thấy, hai người Ngũ Tô không có thể kết hợp lại được, đã như vậy, thì cần gì phải tiếp tục quấy rầy nữa?
Ngũ Thứ Hữu nhìn Vân Nương, một hồi lâu mới nói: “Muốn đi, cô cứ đi, không có cách gì khác. Nhưng có một điều cần suy nghĩ, bà cụ ngoại Trương đối với chúng ta như thế này, vẫn phải nên đền đáp.”
“Đúng như vậy!” Vân Nương bỗng nghĩ lại: Ơn to như thế này mà không trả, thì còn kể là con người sao? Cô suy nghĩ rồi nói: “Cả quần áo chúng ta mặc cũng là của người ta, trong mình lại không có một đồng tiền, vậy đêm nay đành phải làm một vụ rồi.”
“Vân Nương!” Ngũ Thứ Hữu nổi giận, “Nói bao nhiều lần rồi, làm sao cô vẫn như cũ vậy? Cô gây án, người ta không làm gì được cô, cũng chỉ nói được là gặp một tên cướp ỷ mạnh ngang ngược, nhưng đồ cướp được, nhà có người chết lại chẳng giống nhà họ Trương lâm nạn xưa kia sao? – Đó là thời Ngũ đại loạn lạc, còn bây giờ đang cần dân yên nước trị, cô vẫn cứ như vậy thì sao được? Hơn nữa nếu bà cụ ngoại Trương biết lai lịch đồng tiền cô kiếm được thì có chịu nhận của cô không?”
“Vậy anh nói nên làm thế nào?” Vân Nương cũng do dự, ngần ngừ một lát rồi nói, “Nếu không thì bán chiếc nghiên ngọc tiết gà lấy tiền?” Sắc mặt cô hơi tái đi.
Ngũ Thứ Hữu hết cách, liền cười. Ông không phải không dứt được nàng Tô, cũng không phải không có cảm tình với Vân Nương. Về tình cảm, về đạo nghĩa, ông có một gánh nặng không dứt bỏ được, cảm thấy bản thân mình đã bất hạnh, hà cớ gì phải dây sang để người khác cũng phải chịu chung nỗi bất hạnh với mình! Thấy Vân Nương như vậy, thì không nỡ quá quyết liệt, bèn ôn tồn khuyên nhủ: “Vân Nương, cô nghe tôi nói, trên đời có người không phải vợ chồng mà tình hơn vợ chồng, cũng có người không phải anh em mà nghĩa hơn anh em. Tôi với nàng Tô, với cô lúc này đang ở trong hoàn cảnh này. Cô cứ lấy cái nghiên tiết gà để nổi giận với tôi, đã đau lòng cô lại xót tình tôi, cần gì phải vậy? Ơn đức của bà cụ ngoại Trương, không thể lấy tiền mà đền đáp được ...”
“Đúng vậy!” Bà cụ ngoại Trương bên ngoài đã nghe rất lâu, lời nói của Ngũ Thứ Hữu bà nghe vừa cảm động, vừa đau buồn, thấy hai người tranh cãi mãi không ra ý kiến gì, liền vén màn bước vào nói, “Ta mặc áo đã có ruộng bông khung cửi, ăn cơm đã có lúa gạo, cối xay, lấy tiền của các người làm gì? Tiền không sạch sẽ ta càng không cần! Con gái ơi, hai đứa con ta đi làm ăn bên ngoài, trong nhà chẳng có người nào để nói chuyện, các người không ở với ta thêm vài ngày, để nói chuyện với bà cụ già này, cho vơi bớt nỗi sốt ruột chẳng tốt sao!”
Bà cụ Trương hiền từ cởi mở, nói năng tình cảm, Vân Nương từ nhỏ mồ côi cha mẹ nghe thấy thế xúc động vô cùng, cô khóc òa, sà vào lòng bà cụ, nghẹn ngào nói: “Bà cụ ngoại! Nếu bà không chê cười, con xin nhận bà làm mẹ nuôi!”
“Lòng ta vui mừng không xiết kể, làm sao lại chê cười?” Bà cụ vuốt mái tóc đen nhánh của Vân Nương, rồi quay mặt nói với Ngũ Thứ Hữu, “Bữa trước ta đã nói, Thượng Nhiệm nhà họ Khổng học hành trên núi Thạch Môn, muốn viết một cuốn sách gì đó. Anh có học thức như vậy, ở đây một năm dăm bảy tháng, dạy dỗ thêm cho nó, nếu sau có nên người, chẳng phải là vừa làm việc cho Hoàng thượng vừa đền “ơn” cho ta? Ôi, hai đứa con ta từ nhỏ đã không thích học hành, nếu không…”
Đang nói thì bên ngoài có tiếng cười nói to: “Có tin tốt cho cụ ngoại đây! Vị Ngũ tiên sinh trú ở đâu?” Bà cụ Trương bỏ tay Vân Nương, cười nói: “Đang nói hắn, thì hắn tới! Mẹ con ta tới trước nói chuyện đi... Này, Sính Chi, qua bên phòng này đi!” Nói xong cùng Vân Nương đứng lên đi, Ngũ Thứ Hữu biết Khổng Thượng Nhiệm đã tới, vừa mới đứng lên thì Khổng Thượng Nhiệm đã cười ha hả bước vào, liếc nhìn Ngũ Thứ Hữu, vái chào rồi nói to:
“Kẻ thư sinh không chịu ràng buộc xin bái kiến thư sinh gặp gỡ tình cờ!”
“Tốt!” Chỉ bấy nhiêu đã rất hợp khẩu vị Ngũ Thứ Hữu, vừa mời ngồi, vừa cười nói, “Thư sinh đọc hết vạn ngàn số phận xin đón hầu thư sinh hào khí ngất tầng mây – Mời ngồi!”
Khổng Thượng Nhiệm vén vạt áo sau, xếp bằng ngồi trước mặt Ngũ Thứ Hữu. Bây giờ Ngũ Thứ Hữu mới ngắm nhìn kỹ, Khổng Thượng Nhiệm khoảng trên dưới hai mươi tuổi, chỉ mặc một chiếc áo dài màu mận chín, lưng mang chiếc thắt lưng xanh nhạt, đầu mới cạo cũng không đội mũ, bím tóc đen lánh, đôi mắt phung long lanh sáng quắc, trong bụng thầm khen ngợi: “Quả là một người tài hoa! Lại là hậu duệ của thánh nhân có thể nói tư chất đều tốt!” Nhưng mồm lại cười nói: “Đã nghe danh tiếng từ lâu! Nghe cụ ngoại nói anh đang viết cuốn sách “Hoàng tử” gì đó, có thể cho kẻ bất tài này đọc được không?”
“Là một bộ truyền kỳ.” Khổng Thượng Nhiệm cười nói, “Không hiểu có cao kiến gì về vấn đề này?” Hiển nhiên, anh ta rất thích tính cách của Ngũ Thứ Hữu.
Ngũ Thứ Hữu rất thích thú, nhưng mồm lại nói: “Truyền kỳ, con đường nhỏ vậy! Anh đã là tú tài, vì sao không nghiền ngẫm kinh sử, bát cổ, lại trốn trên núi Thạch Môn viết truyền kỳ?”
“Truyền kỳ tuy thuộc con đường nhỏ, nhưng lại bắt nguồn từ con đường lớn.” Khổng Thượng Nhiệm cười nói, “Đối với thơ từ, khúc phú, bái quan dã sử, hoặc là kinh sử tử tập, nếu có một đường nào không tinh thông, thì khó viết được truyền kỳ. Ngài không phải thích văn bát cổ sao, tôi có một bài, xin chỉ bảo!” Nói xong, lúc lắc cái đầu, thư thả đọc lên:
Trời đất là càn khôn vũ trụ; lòng ta quả có hoài bão; Đã lâu lắm rồi, có đến hàng ngàn năm, chứ không phải một ngày. Ngược chuyện xưa nhớ lại, đừng giở ghi chép và thuộc làu điển tích thi thư. Sau bắt đầu là thiên tử đế vương, trời xanh sinh ra là lê dân bá tánh, là thứ dân, trong ức triệu người dân, chứ không phải một người vậy...
“Ha ha ha ha…” Khổng Thượng Nhiệm còn chưa đọc hết, Ngũ Thứ Hữu đã lớn tiếng cười to, từ rất lâu, ông chưa bao giờ hả hê như vậy, “Thật là sách vở khóc hết những thối nát xấu xa trong thiên hạ, tôi xin đọc cho anh một câu này:
Nghĩ hợp thời mà dùng vào đời, đừng có nhằm một tòa nhà mà trèo lên triều đình lăng miếu!
Khổng Thượng Nhiệm nghe nói bất giác cũng cười to.
“Phải mời bà dâu ra đây gặp đức ông chồng.” Ngũ Thứ Hữu cười nói.
Khổng Thượng Nhiệm nghe, chồm người tới trước hỏi nghiêm trang: “Bộ truyền kỳ này của tôi chỉ cho người quen đọc, không làm kẻ tối dạ hiểu sai, viết ra sắc và khí một thời hưng vong. Dám xin hỏi, thế nào là sắc?”
“Sắc, tượng trưng cho ly hợp!” Ngũ Thứ Hữu đáp theo nghĩa lý của truyền kỳ. “Trai có bạn, gái có bầy vui buồn tan hợp ở trong đó không sai chút nào!” Nói tới đây, bỗng nghĩ tới mình, ông không cười nữa.
“Ừm.” Khổng Thượng Nhiệm rất hài lòng câu trả lời đó, anh lại hỏi, “Vậy còn khí?”
Vừa rồi Ngũ Thứ Hữu có nghe anh nói tới “Hưng vong một đời”, trầm ngâm một lúc chậm rãi trả lời: “Khí, kể về hưng vong, quân tử coi là bạn, tiểu nhân thì kết thành bè đảng, rối rắm ở trong đó, có những cái sai trong nhỏ nhặt!” Ông suy nghĩ rồi thêm một câu. “Tôi chẳng qua theo lý mà nói, theo tình mà đoán, viết hay tự nhiên sẽ như vậy; Viết không hay mà cố nặn ra câu chuyện truyền kỳ thì tôi không có thì giờ xem đâu!” Nói xong xếp bằng đôi chân, nhìn Khổng Thượng Nhiệm cười.
Khổng Thượng Nhiệm nghe những lời này, câu nào cũng phải, gật gật đầu, đứng lên đi qua đi lại trong nhà mấy bước, nói “Tôi có làm bài “Hương cúc vàng” xin ngâm cho tiên sinh nghe:
Có một thiên văn chương người quen biết cũ chốn giang hồ tới gõ cửa cốc cốc hỏi anh, mang theo mấy bài thơ mới, đòi được bình xét, anh đừng bó buộc, cái đó nhường người thiên thu!
“Hay hay hay!” Ngũ Thứ Hữu cười nói, “Cụ ngoại Trương còn bảo tôi chỉ dạy, chỉ cần nghe từ khúc này của anh, tôi không còn gì chỉ dạy được, cái “thiên thu” này, anh đừng nhường cho tôi, tôi cũng không bó buộc anh – cứ mang hết đây tôi thưởng thức trước là được.”
Khổng Thượng Nhiệm bèn rút trong bao ra một tập bản thảo, Ngũ Thứ Hữu hai tay cầm lấy kinh ngạc hỏi: “Đây phải không?” Khổng Thượng Nhiệm không cuồng nhiệt như trước nữa, anh cười nói: “Đây là tập Quạt hoa đào gồm bốn cuốn, bản thảo chưa xong, ngài xem trước một tập. Tôi chuẩn bị mười năm sửa chữa lại mới cho ra – đáng tiếc không có duyên gặp được Hầu công tử, có một số chỗ viết không ưng ý lắm!”
“Vậy chuyến đi của anh hôm nay không uổng công, tiền bối Hầu Phương Vực chính là thầy dạy của tôi!” Ngũ Thứ Hữu liếc nhìn Khổng Thượng Nhiệm vừa sợ vừa mừng, liền lật bản thảo xem. Khổng Thượng Nhiệm im lặng ngồi bên uống trà.
Lặng yên một hồi lâu, Khổng Thượng Nhiệm đứng lên đến bên cửa sổ quan sát một cành hoa mai nằm ngang trên đầu tường, đang cấu tứ viết một bài từ, đang lúc ngần ngừ chưa quyết, bỗng nghe “bốp” một tiếng, quay đầu nhìn thấy Ngũ Thứ Hữu đang xem say sưa, vỗ đùi khen hay.
“Tuyệt diệu!” Ngũ Thứ Hữu cười nói, “Màn Thăm thúy này làm sao anh nghĩ ra được!” Vừa nói ông vừa lật lại, tay chân múa may, say mê như bị ma ám:
… Ngăn sóng xuân, khói biếc nhuộm song; dựa trời hửng, hạnh hồng dòm tường ngỏ.
“Quả là lời đẹp như chuỗi ngọc!” Ngũ Thứ Hữu liên tiếp ngợi khen, “Văn chương đã đọc hai mươi năm nay, đều không bằng thiên này của anh! Anh xem …”
Thêu khăn lụa, nhạn bay trong hoa khói. Gặp tiết linh, quần áo mới sao sa.
Có ngọc biển, ngọc sông cùng sữa ngọc. Chàng gảy đàn, sanh tiêu cũng vang xa.
Ngũ Thứ Hữu cười nói: “Chữ nào cũng có ý sâu có thể nhấm nháp, câu nào cũng tinh tế xúc động lòng người! Trời đất ơi, con người như anh mà ở sâu trên núi, quả thật không thể tưởng tượng nổi!” Rõ ràng là Ngũ Thứ Hữu cho rằng người Giang Nam mới có tài văn chương viết được thế này.
“Ngũ tiên sinh không nên khen.” Khổng Thượng Nhiệm cũng rất vui mừng. “Có chỗ nào cần bổ khuyết cũng xin nói ra cho.”
“Sách như thế này tôi không bổ khuyết được cái gì đâu.” Ngũ Thứ Hữu cười nói, “Trời sinh ra cái vật tôi này tất có ích dụng, anh nên xuống núi, có cần tôi viết một lá thư tiến cử anh?”
Khổng Thượng Nhiệm sửng sốt, nói: “Người quân tử nắm thời đợi số, không dám nhận thư tiến cử của tiên sinh.”
“Ừm, đúng là như vậy!” Ngũ Thứ Hữu càng khen ngợi, “Tài năng như anh, tất có thể tự mình lên tới mây xanh. Có điều nếu tôi không tiến cử, trong lòng sao nỡ? Sau này gặp mặt Thánh thượng, tôi nhất định hết sức tiến cử!”
“Đáng tiếc, đây không phải chính sách trị nước,” Khổng Thượng Nhiệm cười nói, “Hoàng thượng chưa chắc đã coi trọng.”
Tâm trạng Ngũ Thứ Hữu đã bình tĩnh trở lại, ông mỉm cười nói: “Đương kim là một vị vua hiền chủ tốt, chẳng lẽ để anh thất vọng ư?” Nói tới đây, ông ngẫm nghĩ rất lâu, rồi nói, “Đáng tiếc là tam phiên chưa dẹp đang lăm le dòm ngó trung ương, Hoàng thượng tuy có ý này nhưng chưa chắc có thời giờ rảnh rỗi để giải quyết việc văn chương!” Nói tới việc này, Khổng Thượng Nhiệm hơi nản lòng, gật đầu nói: “Tôi đã sớm nghe tiếng đạo đức văn chương của ngài, cho dù Hoàng thượng chưa tới lúc dùng người, tiên sinh không cần phải tự mình xa lánh? Phải trở lại bên cạnh Hoàng thượng tham gia bàn kế lớn mới phải!”
Lời nói làm cho Ngũ Thứ Hữu xúc động. Đúng vậy! Người thời loạn không bằng chó gà thời trị, một dòng họ to như phủ Khổng này, suy vi đi, có thể xuất hiện tấn thảm kịch như Khổng Nhân Ngọc; Người tài như Khổng Thượng Nhiệm gặp thời điểm này cũng chỉ đành ngồi chờ thiên hạ thái bình. Nắm thời đợi số, đến bao giờ mới chấm dứt thời cuộc này?”
Đang ngẩn ngơ im lặng, bà cụ ngoại Trương dẫn Vân Nương bước vào, cười hà hà nói: “Thượng Nhiệm, xem ra biết là các con có duyên nói chuyện hợp nhau, bên kia, ta đã nghe các con vừa nói vừa cười, bao nhiêu ngày đến đây không được vui vẻ thế này, xin báo Ngũ tiên sinh một tin vui, đất Duyễn Châu này đã yên ổn mấy ngày nay rồi, ta đã đồng ý với Vân Nương, cứ làm như lời đã nói.”
“Kính xin tuân lệnh cụ ngoại, tôi và anh Sính Chi còn muốn bàn thêm một số việc học vấn,” Ngũ Thứ Hữu nói, lòng ông không khỏi ngạc nhiên: Không nghe nói có khâm sai đến, làm sao bỗng nhiên giết được Trịnh Xuân Hữu?

