Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 32
32
Mượn cuộc cờ, thư sinh luận đạo trời
Thuyết phục phò mã, Hoàng đế tỏ chân tình
Vua tôi bốn người đi vào phủ phò mã, người gác cổng định đi bẩm báo thì Ngụy Đông Đình đã ngăn lại, bèn dẫn khách vào, từ cửa theo con đường hẹp vào nhà sau. Đường đi tối tăm ẩm thấp, rêu cỏ bám đầy. Ngụy Đông Đình và Lang Thẩm, mỗi người đi kèm một bên, tay nắm chuôi kiếm bảo vệ, thiếu điều cắp nách Khang Hy mà đi. Khang Hy cũng cảm thấy phủ đệ này sửa sang kỳ lạ, rất sợ có người bất ngờ từ chỗ tối tăm nào xông ra. Chỉ có Châu Bồi Công hình như không để ý lắm, khệnh khạng đi theo sau, mỗi khi đi qua một khúc đường hẹp còn tò mò nhòm ngó.
Tới nhà sau, tên trưởng tùy đi vào nhìn ngó một chặp, đi ra cười nói: “Bẩm các cụ biết, phò mã không ở nhà sau, nhất định ở tại hiên Háo Xuân trong vườn hoa, cho phép nô tài đi trước thông báo!”
“Hãy cứ cùng đi thôi!” Ngụy Đông Đình không cho thông báo. Cái sân nhà này rất kỳ quái, không thấy Ngô Ứng Hùng không thể để người này rời xa, rồi anh cười nói: “Ông chủ của tôi với phò mã rất thân quen, căn bản không cần kiểu khách sáo.”
Tên trưởng tùy cười, đưa tay mời đi sang phía tây, rồi dẫn khách vào vườn hoa, nói: “Đấy thời Minh trước là nhà ở của Châu Diên Nho, chú họ của Châu quý phi, bên trong rất oi bức, phò mã thường ở hiên Háo Xuân vườn hoa sau, đến tối mới trở về.”
Ra khỏi cửa Nguyệt Động, bỗng cảm thấy trời đất rộng mở, trước cửa là hai cây hợp hoan cành thưa đan xen, ở giữa một con đường lát đá trồng hoa đi thẳng tới trước, lại một khối núi đá giữa hồ xinh xắn đặc sắc, ngôi nhà mát tre, cây bao bọc, lại một bục đất cao để nhìn ra xa, đó chính là “đài xem sao”. Chung quanh hòn non bộ có mấy chục bồn hoa kiểng, phía bắc một dãy bốn ngôi nhà to kiểu nhà nghỉ trên núi, ba cây cột nhô ra, phía đông có một cánh cửa nhỏ, phía nam sát tường là một hàng mười mấy cây dương liễu. Vườn tuy không lớn nhưng xếp đặt tinh tươm, vào mùa xuân thu, đến đây đọc sách, đánh cờ thú vị biết chừng nào.
“Anh về đi!” Ngụy Đông Đình căn bản không lòng nào nghĩ đến ngắm cảnh, liếc thấy Ngô Ứng Hùng cùng một người nữa đang ngồi đánh cờ vây dưới dàn đậu trước hiên Háo Xuân, đứng bên cạnh là Lang Đình Khu từng làm án văn ở phủ Nội vụ. Bây giờ anh mới yên lòng bảo gác cổng đi về.
Lang Đình Khu nhìn thấy từ xa bốn chàng trai chậm chậm đi vào, nhưng thấy Ứng Hùng không hay biết vẫn cứ cúi đầu đánh cờ, vội lấy tay vẽ trên bàn cờ, nói nhỏ: “Phò mã, Tiểu Ngụy bên cạnh Hoàng thượng đến đây.” Thực ra Ngô Ứng Hùng đã thấy từ sớm, tay nắm con cờ giả vờ suy nghĩ, nghe Lang Đình Khu nói, hắn vẫn không quay đầu lại, nói: “Người quen mà, cần gì khách sáo?”
“Phò mã rất khéo sắp đặt,” Khang Hy đi gần tới nơi, cười ha hả nói, “Không ngờ phủ đệ khanh có tới hai loại trời đất!” Hoàng Phủ Bảo Trụ đang đánh cờ với Ngô Ứng Hùng ngước đầu nhìn chẳng nhận ra một người nào, vội đứng lên hỏi Ngô Ứng Hùng: “Bốn vị này là...”
“Hoàng thượng!” Ngô Ứng Hùng bỗng thất kinh kêu lên, ném con cờ trong tay, kéo Bảo Trụ và Lang Đình Khu đang ngơ ngác cùng quỳ cả xuống, dập đầu nói, “Nô tài Ngô Ứng Hùng không biết gót chân rồng giá lâm, không kịp tiếp giá, cúi xin Vạn tuế thứ tội!”
Khang Hy mặt mày hớn hở, kéo Ngô Ứng Hùng dậy, nói: “Khanh như vậy là không đúng, Trẫm như thế này mà bắt tội ngươi, há không bằng cả Tấn Huệ Đế sao? Đứng lên, đứng cả lên!” Nói xong nhìn thẳng Bảo Trụ, thấy Bảo Trụ áo vải mũ nỉ, khí thế hiên ngang, hai con ngươi như sao, ánh mắt sáng quắc, bất giác ngầm kinh ngạc: Trong phủ phò mã nhỏ bé này lại có một nhân vật như vậy! Mồm lại cười nói: “Vị đứng xem này nghe Tiểu Ngụy nói là Lang Đình Khu tiên sinh! Còn vị này tên gì?”
Bảo Trụ cũng đang quan sát vị “Hoàng thượng” mà Ngô Tam Quế mỗi ngày nhắc đến mấy chục lần, thấy Khang Hy ăn mặc giản dị như vậy, cử chỉ ung dung khoáng đạt, trong bụng nghĩ thầm: Rõ ràng đây là một thanh niên già giặn. Nhưng Vương gia ngày nào cũng nói một hai là “nhóc con”! Nghe Khang Hy hỏi mình, vội cúi người đáp: “Nô tài tiêu doanh phó tướng Hoàng Phủ Bảo Trụ dưới cờ Bình Tây vương Ngô Tam Quế!”
“À, Bảo Trụ!” Khang Hy ngước mặt hơi suy nghĩ một chút rồi tiếp. “Là vị tướng cướp cầu đánh hổ đó chăng? Trung dũng đáng khen!”
Bảo Trụ không ngờ là Khang Hy biết rõ cả đến những chuyện này, bất giác sửng sốt, vội vàng đáp: “Dạ bẩm Hoàng thượng, chính là thần hèn mọn này!”
Ánh mắt Khang Hy lóe sáng, nhìn chằm chằm Bảo Trụ rất lâu, bỗng tối sầm lại, cười ha hả nói: “Các khanh cứ đánh cờ đi, không quấy rầy làm các khanh mất hứng! Trẫm ngồi xem cờ – Lang Đình Khu, Ngụy Đông Đình, cả Lang Thẩm, Châu Bồi Công – tới đây, chúng ta xem cờ, không được nói, ngồi xem các khanh rồng hổ đấu nhau!”
Cuộc cờ này đã biến tới nửa chừng, đang hồi kịch chiến quyết liệt. Nhìn mặt cờ, con trắng của Ngô Ứng Hùng bốn góc đã chiếm được ba, đang xuyên vào giữa gặp nhau, vùng Thiên Nguyên ở giữa của Bảo Trụ hơn ba mươi điểm bị vây không được chi viện, đã không còn hy vọng sống sót, có thể nói thế thắng của Ngô Ứng Hùng đã được quyết định. Bảo Trụ tỏ ra sốt ruột ghìm nổi, lại sợ Ngô Ứng Hùng xâm chiếm cái góc cuối cùng, ông cầm con cờ do dự lui mũi nhọn lại một bước tại chỗ ngôi sao, Khang Hy còn chưa cảm thấy gì, Châu Bồi Công đã lắc đầu thở ra.
Ngô Ứng Hùng đã nghe thấy, ông liếc Châu Bồi Công một cái, cười mỉm, đặt một quân trắng chỗ ngã ba, lấn vào trận địa Bảo Trụ. Bảo Trụ tuy có học mấy ngón của Ngũ Thứ Hữu hồi ở Duyễn Châu, nhưng vẫn là mới học, háo sát, bèn tập trung lực lượng vây đánh, định cứu vãn khỏi thất bại, không ngờ bị Ngô Ứng Hùng nhanh nhẹn xê dịch mấy bước, đánh sâu vào vùng trung tâm, quân trắng liền chạy trở ra, trước mắt liên hệ với cuộc cờ. Bảo Trụ biết không còn hy vọng mong thắng liền đứng dậy cười nói: “Bảo Trụ toàn quân đã bị tiêu diệt không dám nói đánh nữa!”
“Nước cờ của ông xem ra như có được cao thủ chỉ vẽ.” Ngô Ứng Hùng nói, “Hỏng ở chỗ quá vội ham thắng, quá ham giết quân, nên mất cái thế đi trước.” Nói xong, liếc nhìn Khang Hy, nét mặt lộ vẻ đắc ý, hắn suy nghĩ rồi thêm một câu, “Há chẳng nghe Kinh lạn kha có nói: “Người yếu mà không chịu nhận, tốt hơn là khuất phục, người nôn nóng mà muốn thắng thì phần nhiều bại”?”
Châu Bồi Công chí khí cao, vì Khang Hy có nói nguyên tắc “xem cờ không nói”, thấy Ngô Ứng Hùng múa cái môi dày, lại có ý dạy đời “quá ham giết quân”, còn dẫn ra điển cứ, vẻ mặt dương dương tự đắc, lòng anh đã nổi cáu, cười khẽ một tiếng nói: “Ông Ngô, đạo lớn sâu thẳm, há đâu chỉ ở đầu lưỡi? Há chẳng nghe Kinh Dịch nói, “cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu”? Ván cờ này của Bảo Trụ tiên sinh là ông ta tự chịu thua, cứ nhìn cuộc chiến trên bàn, thắng thua thuộc về ai còn chưa biết đấy!”
“Hả?” Khang Hy tuy cũng cảm thấy lời của Ngô Ứng Hùng có ý châm chọc, theo vua suy đi nghĩ lại, cũng cảm thấy thế cờ của Bảo Trụ không còn khả năng thắng được, nghe Châu Bồi Công nói như vậy, hình như còn có thể đánh được, liền quay mặt hỏi, “Cuộc cờ như vậy lẽ nào còn có thể cứu vãn?”
“Thế cờ của ông Ngô đã không còn hy vọng thắng.” Châu Bồi Công qua quan sát tỉ mỉ đã biết rõ nước đi của Ngô Ứng Hùng, nên cười cười nói, “Đáng tiếc, Bảo Trụ tiên sinh phán đoán không sáng.”
“Vậy xin mời Châu tiên sinh tiếp tục đánh!” Ngô Ứng Hùng cảm thấy chàng thư sinh này ngông cuồng tới mức không còn biết bờ bến, nuốt một mồm nước bọt cười nói, “Ông chắc là tay cao cờ trong nước, kẻ bất tài cũng được nhờ thỉnh giáo một ván!”
Chầu Bồi Công nhìn Khang Hy.
Khang Hy cười nói: “Khanh đã lỡ huênh hoang, còn không mau ứng chiến?” Bấy giờ Châu Bồi Công mới cáo lỗi ngồi vào bàn, vừa ra tay đã bồi thêm một quân trắng bên cạnh chỗ Ngô Ứng Hùng vừa xâm nhập.
“Hay thật!” Ngô Ứng Hùng nhìn, tuy là tay trên nhưng không bất ngờ, bèn lui con cờ về sau một hàng, cười phúc hậu, “Chàng có nói: Người thận trọng mà liêm phần nhiều thắng!”
Châu Bồi Công biết hắn nói móc mình, thấy trận địa mình đã vững chắc, anh mỉm cười bồi thêm một quân, cắt đứt chỗ nối giữa trung tâm với gốc cờ của Ngô Ứng Hùng.
“Cao đấy!” Ngô Ứng Hùng thấy bản lĩnh của anh chẳng qua chỉ tới đó, vẻ mừng lộ ra trên sắc mặt, hắn vén tay áo vững vàng đặt ra một quân, cười nói: “Cho dù vô sự mà cố đi, chi bằng nhân đó mà tự vá víu.”
“Ông Ngô!” Châu Bồi Công không thể không đè bẹp khí thế của hắn, anh vừa đặt quân vừa nói nghiêm túc, “Ông đã đọc thuộc Cờ nước mười ba thiên rồi chứ, trong đó có một thiên nói rất hay: Nói mưu lược, làm xảo trá là thuyết tung hoành đời Chiến Quốc. Cờ tuy là đạo lý nhỏ, thực ra hợp với việc quân. Người phẩm bậc ở dưới, nâng lên không cần suy tư, hành động thì trở thành xảo trá, hoặc lấy tay để hiện cái thế, hoặc phát ngôn để tỏ động cơ. Người phẩm bậc ở trên thì khác thói đời, đều nghĩ sâu lo xa, tùy tình thế mà dùng quyền, tinh thần phiêu du trong cuộc, ý trước ở con cờ, vì thắng mà không có điềm báo trước, chấm dứt ở chỗ không tự nhiên, đâu phải huyên thuyên trong ngôn từ giả dối, hoặc nhanh nhẹn ở thế tay ra hiệu!” Châu Bồi Công rất ghét thói khoe khoang khoác lác của Ngô Ứng Hùng, nên đã dẫn lời Thiên tà chính trong mười ba thiên kinh cờ. Ngô Ứng Hùng nghe xong mặt đỏ đến mang tai, hắn không nói không rằng, trong bụng cười nhạt nói: “Ta sẽ ăn hết sạch của anh, không còn một mống quân để anh đọc Thiên tà chính!” Hắn nghiến răng ăn một loạt quân trên góc duy nhất của Châu Bồi Công.
Đâu có ngờ, Châu Bồi Công căn bản không thèm để ý, anh thấy một mảng quân trắng lớn ở trung tâm với góc biên của Ngô Ứng Hùng đã bị cắt đứt, liền áp sát tới vây chặt quét mạnh.
Ngô Ứng Hùng nhếch mép cười nhạt, một tay giơ con cờ trắng thả từ trên cao xuống, không mấy chốc đã thu hết hơn ba mươi con cờ của Châu Bồi Công bị vây ở vùng trung tâm, hai tay bê lên bỏ lại qua bên tay Châu Bồi Công. Trong hộp cờ của Châu Bồi Công, quân đen bỗng chốc chất thành đống cao, trên bàn cờ chỉ thấy một mảng lớn quân trắng. Ngô Ứng Hùng ngước đầu liếc nhìn vẻ mặt không chút biểu cảm của Châu Bồi Công nhưng không dám nói năng gì.
Khang Hy đã biết trước kết cục không mấy tốt đẹp này, vội nói với Châu Bồi Công: “Đánh cờ thắng bại là lẽ thường, xóa bàn thôi!”
“Hoàng thượng,” Châu Bồi Công bình tĩnh nói, “thử đánh mấy ván có sao đâu?” Nói xong, giành lấy quân đen đặt nhè nhẹ vào chỗ vừa rồi là quân trắng.
Bây giờ Ngô Ứng Hùng mới thấy một mảng quan trọng lớn của mình bị vây ở khu trung tâm đều là những điểm đứt đoạn. Một con này của Châu Bồi Công đưa vào, chính là làm điểm mắt quan trọng. Khi hắn vội vội vàng vàng bổ cứu thì đã muộn! Trong khoảnh khắc đã giống như hai con rắn để cho Châu Bồi Công cắt giết. Những quân trắng ở bốn góc, cũng vì phía trước thúc bách quá nên bị nguy hiểm. Châu Bồi Công không còn dè dặt, mặc sức hoành hành, trổ tài chính xác, Ngô Ứng Hùng lo chạy trốn ứng phó không nổi. Lúc này ngay cả người không biết chơi cờ như Lang Thẩm cũng đã nhìn thấy, Ngô Ứng Hùng đã hoàn toàn sụp đổ.
Khang Hy trong lòng mừng rỡ, thấy Châu Bồi Công cầm quân công lấy góc cuối cùng của Ngô Ứng Hùng, làm cho quân trắng hầu như không còn tồn tại, lại thấy Ngô Ứng Hùng mồ hôi đầm đìa vô cùng ngượng ngùng, vội cười nói: “Quân tử đừng vì mình quá.” Châu Bồi Công mới cười nghỉ tay. Một cuộc cờ coi như đã xong, Ngô Ứng Hùng chỉ được hơn tám mươi con, tức giận mặt tái mét. Châu Bồi Công im lặng, đứng lên trở về chỗ cũ sau lưng Khang Hy, bảy con người mười bốn con mắt nhìn thấy quân trắng xác chất như núi và bàn cờ đen thui mà sửng sốt.
Một hồi lâu, bỗng nhiên Ngô Ứng Hùng thay đổi nét mặt, hắn cười nói: “Châu tiên sinh quả là một tay cao cờ có hạng trong nước! Tôi bái phục!” Hắn đã trở lại trạng thái bình thường, cuộc đụng độ nảy lửa vừa rồi coi như chưa hề có.
Hoàng Phủ Bảo Trụ càng khâm phục sát đất, nghĩ thầm rằng Ngũ Thứ Hữu cũng chưa chắc tài cao như thế này, bất giác ca ngợi: “Phò mã Ngô cũng coi là danh thủ nổi tiếng Sơn Đông, chưa hề gặp một đối thủ như Châu tiên sinh đã không ngờ là sau khi giết tôi hơn ba chục quân, tiên sinh còn có thủ thuật đi tiếp được!” Khang Hy cũng mừng rỡ há hốc mồm. Nhà vua nghĩ cuộc chiến hôm nay vô cùng cát lợi, giờ này nếu ở hoàng cung, nhà vua nhất định ban thưởng vàng bạc cho Châu Bồi Công rồi.
“Phò mã, xem ra người ta quý ở chỗ sáng suốt tự biết mình, ngài thất lợi, mới là do “quá ham giết quân” đó!” Châu Bồi Công cười nói, “Đạo cờ phù hợp đạo người, đạo người phù hợp đạo trời, quân cờ ba trăm sáu mươi con phù hợp với một vòng trời (một năm), trắng đen mỗi bên một nửa, phù hợp biến đổi âm dương; bàn cờ vuông mà tịnh giống như mặt đất bình yên, con cờ tròn mà động giống như bầu trời thay đổi! Binh hung thì đánh dữ, không thể tùy tiện giết quân. Lo toan cẩn thận như đứng trước vực thẳm, như đi trên băng mỏng, ngài nếu bình tâm đối với cuộc cờ, hợp lý hợp tình, hết lòng với việc người mà thuận đạo lớn, thì làm sao có thể thua thê thảm thế này? Anh Hoàng Phủ cũng không cần ca tụng quá mức đâu?”
Tuy anh nói rất bình tĩnh, nhưng Ngô Ứng Hùng nghe thấy thì câu nào cũng cay nghiệt châm chích, trong lòng bất chợt nổi lửa, hắn cười gằn một tiếng, nói “Được nghe cao kiến lòng bỗng thấy sáng, có điều, theo ý kẻ ngu này, đạo trời cũng tốt, đạo người cũng tốt, quy tới cùng vẫn phải xem ai có mưu đồ sâu xa. Mưu lược sâu, tính được xa thì thắng; mưu lược cạn, tính toán ít, thì không thắng. Nhận định thắng thiên, cho nên binh pháp mới nói “tính nhiều thì thắng, tính ít thì không thắng”.”
“Nhân định thắng thiên là thế nhỏ, thiên định thắng nhân là thế lớn, không thuận theo lẽ trời là vì cái thế nhỏ mà quên cái thế lớn!” Châu Bồi Công nổi hứng tranh luận, vẻ mặt rạng rỡ, “Ông Ngô, người đi vào có nhiều hướng, nhưng thành công chỉ có một đường! – Cờ vây gồm chín bậc: Nhập thần, ngồi chiếu, cụ thể, thông u, dùng trí, tiểu xảo, đấu lực, như ngu, thủ truất. Như ông vừa nói, thì nhiều nhất chỉ là bậc năm, ngay cả thông u cũng không được. Không thông đạo trời, thì không biết đạo nhà, sợ chính là sợ mất cái căn bản này! Ví dụ Hoàng Phủ tiên sinh cục thịt mềm đó bị ông dùng sức mạnh ăn mất, sau gặp kẻ mạnh, dùng bậc cao đánh với ông, chẳng phải là thất bại hoàn toàn sao?” Hoàng Phủ Bảo Trụ ngẫm nghĩ kỹ luận điểm chính xác của Châu Bồi Công, liếc nhìn thần sắc tự chủ thoải mái của Khang Hy, rồi bỗng nghĩ tới Ngũ Thứ Hữu, bất giác xúc động. Ngụy Đông Đình cũng thầm ca ngợi: Người này tuy không phong lưu hào phóng bằng Ngũ Thứ Hữu, nhưng anh trầm tĩnh tinh tế, thông đạo lý trọng thực dụng xem ra như còn hơn Ngũ Thứ Hữu!
Đối đáp qua lại mấy chập, Ngô Ứng Hùng biết mình không phải là đối thủ nên cũng không muốn tiếp tục đề mục này, hắn bỗng đổi giọng: “Vạn tuế, chúng ta mải nói chuyện đánh cờ! Đức Vạn tuế thân hành tới tệ phủ, một chén trà cũng không dâng mời, nô tài quá sơ ý!” Nói xong bảo Lang Đình Khu, “Đi lấy trà “Hương sợ chết người” quận chúa gởi cho năm ngoái, mời Vạn tuế thưởng thức.”
Khang Hy chưa từng nghe nói tên loại trà này, liền hỏi: “Sao lại gọi “Hương sợ chết người”? Có ghê gớm như vậy không?”
“Trà này có ở ngọn Bích La hồ Động Đình,” Ngô Ứng Hùng nhìn Lang Đình Khu đi xa, chậm rãi nói, “Chỉ có mười mấy mẫu trà trên núi phẩm chất chuẩn nhất. Con gái hái trà trở về, đem trà để trong lòng, trà hấp hơi ấm bỗng có mùi hương lạ, người hái sợ hoảng kinh, nên gọi là trà “Hương sợ chết người” – Em gái thần mỗi năm mua được mấy cân kính dâng cha già, Ứng Hùng mới được chia hưởng chút ngon miệng.”
Đang nói thì Lang Đình Khu đã cầm gói trà bước vào. Vì ở phủ Ngao Bái, Khang Hy đã có bài học về “Trà con gái”, đâu chịu ở đây uống trà “Hương sợ chết người” chi đó, vội cười nói: “Khanh không cần pha, trà này đã tốt như vậy, thì cứ để đấy mang về cung uống từ từ.” Ngô Ứng Hùng cũng có nghe nói việc xảy ra ở phủ Ngao Bái, biết Khang Hy nghi ngờ, nên chỉ cười. Lại nghe Khang Hy cười nói: “Trẫm hôm nay đi dạo chơi, tình cờ tới đây thăm, nhân tiện hỏi khanh một việc – cha khanh mấy năm nay sức khỏe thế nào?”
Hoàng thượng hỏi tới cha, thì thần tử phải dập đầu lạy. Ngô Ứng Hùng vội quỳ xuống dập đầu đáp: “Cha nô tài thường viết thư tới, ba bốn năm nay ngày càng khó khăn, thường bị chứng xây xẩm, bệnh mắt cũng rất nặng, từ lâu đã không đọc được văn thư rồi, nhìn bình thường cũng khó, lần trước té ngã, hầu như trúng gió, khó nhọc lắm mới điều dưỡng khá hơn một chút...” Khang Hy nghe xong suy nghĩ rất lâu mới nói: “Đã như vậy, lần trước ban cho sâm núi già không thích hợp. Ngày mai khanh tới phủ Nội vụ lãnh mười cân thiên ma tốt gửi về, cứ nói là Trẫm đã nói rồi, nhân sâm quyết không thể dùng tùy tiện.” Ngô Ứng Hùng liên tiếp dập đầu, cảm động đến nỗi nghẹn ngào, giọng run run nói: “Vạn tuế đối với cha thần, ơn sâu như biển, ba kiếp khó đáp đền!”
“Không nên nói như vậy!” Khang Hy nói thực lòng. “Có một số việc Trẫm một lúc không nói được rõ ràng. Cha khanh gửi văn bản tâu xin triệt phiên, Trẫm đã phê rồi, chiếu chuẩn. Trong số đại thần có người cho rằng Bình Tây vương không phải thực lòng, bên cha khanh cũng có người nghi ngại...” Nói tới đây nhà vua ho một tiếng, những người chung quanh căng thẳng không dám thở mạnh, một hồi lâu, Khang Hy nói tiếp “Những lời đó, không viết trong chiếu thư, truyền tới Vân Nam, Quảng Đông, Phúc Kiến rất không tốt.”
Ngô Ứng Hùng nghe như có gai đâm sau lưng, tìm không ra lời ứng phó, chỉ dập đầu lia lịa.
“Điều này đều là ý kiến của bọn tiểu nhân!” Khang Hy hơi bị kích động, đứng lên đi mấy bước, nhìn bàn cờ tàn cuộc. “Trẫm từ nhỏ đọc sách, đã hiểu được “thiên hạ vì việc công”, ngày trước không triệt phiên nhằm đề phòng bọn hề Nam Minh gây rối, bây giờ triệt phiên càng vì để bá tính phục hồi sinh lực. Cha khanh trước kia công cao như núi, nay tự xin triệt phiên, những vương hiền biết sâu nghĩa lớn như vậy tới đâu mà tìm?” Nhà vua nhấn mạnh thêm, “Đây là một lẽ, mặt khác, ban đầu cha khanh theo vua vào Quan Trung, cùng triều đình giết ngựa ăn thề, mãi mãi không bội ước. Con người lấy tín nghĩa làm gốc, Ngô Tam Quế không phụ triều đình, Trẫm há chịu là ông vua bất nghĩa sao?”
Khang Hy nói chân thành cạn lý, mà lời nào cũng là sự thật, ngay cả Lang Đình Khu và Hoàng Phủ Bảo Trụ cũng ngầm có lòng ngờ: phải chăng Vương gia quá đa nghi? Đang suy nghĩ thì hình như để trả lời mối nghi ngờ đó, Khang Hy nói tiếp:
“Trẫm đã phơi hết gan ruột, nhưng những người có lòng dạ khác cũng chưa chắc đã tin. Nếu nói nghĩa lớn thì các khanh là thần tử của Trẫm: nói về tình riêng, khanh là chú dượng của Trẫm. Ông cụ chúng ta có đa nghi, khanh viết thư chuyển cho cha khanh những lời này của Trẫm, bảo ông cụ phải giữ chủ kiến của mình, trước tiên không nên tự mình nghi ngờ, càng không nên nghe bọn tiểu nhân xúi giục, vừa nấu muối, vừa đúc đồng, Trẫm xem rất không nên như vậy. Khanh nói có đúng không?”
“Đúng ạ!” Ngô Ứng Hùng dập đầu đáp, “Ông chủ phơi trải gan ruột ra như vậy, là lương tâm đạo lý, nô tài và cha thần đều phải lấy chết báo đền!”
“Khanh ở kinh sư lâu rồi, như vậy không tốt.” Khang Hy lại nói, “Có vẻ như Trẫm giữ khanh làm con tin vậy – khanh nói có phải không?”
“Vâng – không phải ạ!” Ngô Ứng Hùng trống ngực đánh thình thình, mấp máy đôi môi nhợt nhạt, hoảng loạn không biết trả lời thế nào cho phải. Châu Bồi Công, Ngụy Đông Đình nghe những lời này, giống như có ý muốn để Ngô Ứng Hùng rời Kinh, bỗng chốc con tim muốn vọt ra ngoài.
Khang Hy cười thầm trong bụng, giọng nói chuyển sang thâm trầm đau đớn: “Người nói lời này, Trẫm không biết lòng dạ thế nào! Trẫm có phải là tên vua u mê, lạm sát giết bậy người chăng? Khanh đều đã thấy rồi đó, Ngao Bái phạm biết bao tội ác, Trẫm đâu có giết, người em thứ tư của ông ta cũng thăng quan như thường! Khanh với Trẫm là chú cháu, lại là bậc trên, Trẫm nỡ ra tay giết khanh chăng?”
Đó cũng là lời nói thực tình, mọi người bất giác nhìn nhau.
“Cha khanh sức khỏe không tốt, phận làm con khanh nên trở về thăm hỏi. Đó là lẽ thường của con người!” Khang Hy thuận mồm nói ra, khẩu khí càng ôn tồn dễ cảm, “Bây giờ cái gì cũng tốt, Trẫm sẽ xây một tòa vương cung ở Liêu Đông, khanh trở về đó hầu hạ cụ, cũng là tận hiếu, cũng bịt được mồm bọn tiểu nhân. Lúc nào muốn vào cung chơi, muốn ra ngoài du ngoạn, báo cho Trẫm một tiếng là xong. Thiên hạ rộng lớn, những cảnh đẹp các người chưa tới còn nhiều lắm! Huệ phi Na Lạt sắp sinh rồi, sinh ra hoàng tử, thì chức Thái tử Thái bảo của khanh cũng có chỗ sử dụng, Trẫm còn nhờ cậy ở khanh nhiều nữa kia...” Nhà vua vẽ ra cho Ngô Ứng Hùng một tiền đồ tốt đẹp, Ngụy Đông Đình nghe tới đây, gương mặt tái xanh đã có sắc hồng, anh thở ra thoải mái. Lang Thẩm và Châu Bồi Công cũng đã yên tâm.
“Vâng ạ!” Ngô Ứng Hùng bầu máu nóng bốc lên liền lạnh ngay lại, “Nô tài tuân chỉ, chuẩn bị hầu hạ Hoàng tử!” Tâm trạng hắn vừa tức vừa hận: “Ngươi chưa chắc đã có hoàng tử, không biết chừng là một mụn con gái, cũng chưa chừng là một quái thai!” Hắn suy nghĩ, mắt liếc nhìn Hoàng Phủ Bảo Trụ và Lang Đình Khu đang khom người đứng hầu một bên.
Hoàng Phủ Bảo Trụ và Lang Đình Khu tình cảm hoàn toàn khác hẳn. Họ không khẳng định trong lời nói của Khang Hy không có chút nào giả dối, nhưng quý là thiên tử, ông vua một nước to rộng, lại thân hành tới phủ đệ này, nói ra những lời như vậy, câu nào cũng thấu tình thấu lý, cho dù có giả dối, thì cũng là khuyên người làm điều thiện, ráng sức làm việc cho triều đình, cũng không có gì xấu!
“Khanh ở đây càng không nên nghe những lời đồn đại, viết thư cho Bình Tây vương đi, Khâm sai cũng sắp đi rồi, nhất định phải làm cho triều đình hài lòng, Tam Quế hài lòng, bá tánh cũng hài lòng.” Khang Hy suy nghĩ rồi tiếp, “Vua tôi chúng ta nên đồng lòng hiệp sức, cùng nhau trị nước an dân, nếu có quyết định sai lầm thì sẽ thây chất thành núi, máu chảy thành sông!” Nhà vua cười, lấy tay nghịch cái bàn cờ tàn.
Khang Hy ân cần nhắc nhở, nói đi nói lại đạo lý trị nước an dân, rồi dẫn ba người đi ra. Ngô Ứng Hùng tiễn ra cổng, mới phát hiện chiếc áo lót mồ hôi ướt đầm.
“Vừa rồi Vạn tuế làm thần sợ thiếu chết!” Châu Bồi Công nói, “Nô tài cứ tưởng thả phò mã về Vân Nam thật!”
“Đó là kiểu trá mà cũng là chính đạo, cũng giống như khanh nói đạo trời âm dương biến hóa trong cờ vây.” Khang Hy quất nhẹ một roi, nói lạnh lùng, “Khanh trở về truyền chỉ quan viên bộ Binh và ty sự nha môn tuần phòng ngày mai đưa thẻ bài đi vào, ngày mai chúng ta bàn lại việc bố phòng vùng Trường Giang tại cung Dục Khánh.”

