Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 39
39
Ngô Tam Quế giả vờ trách người giữ ngựa
Tôn Diên Linh giết tướng dựng cờ phản
Đám người Triết Nhĩ Khẳng đi lúc nhanh lúc chậm ròng rã một tháng trời, mãi đến cuối tháng chín mới đến phủ Vân Nam đầy chết chóc.
Triết Nhĩ Khẳng với Ngô Tam Quế vốn đã có quen biết. Hồi Ngô Tam Quế còn đóng quân ở Liêu Đông, Triết Nhĩ Khẳng là một viên thư lại, hai người thường có giao thiệp qua lại. Nay triệt phiên, triều đình cử ông tới, là thích đáng nhất rồi. Nhưng một thời gian dài ông không được tin tức gì về Ngô Tam Quế, nên cảm thấy không nắm chắc được vị Vương gia hay tráo trở này, khi đi qua thành Quý Dương bèn nảy ra một ý: để lại hai người Đảng Vụ Lễ và Tát Mục Cáp. Nói công khai là để giúp sắp xếp về ăn uống, xe ngựa cho cuộc hành trình của Bình Tây vương, chuẩn bị đón tiếp gia quyến Ngô Tam Quế đi bắc. Thực ra bên trong là sợ bị Ngô Tam Quế bắt gọn không có người về kinh phục mệnh.
Mọi việc về sau chuẩn bị ổn thỏa, Triết Nhĩ Khẳng và Phó Đạt Lễ mới dẫn hơn hai trăm tùy tùng, ồn ào đi vào phủ Vân Nam. Đêm đó ngụ tại trạm dịch, bí mật bàn bạc với Chu Quốc Trị một đêm, ngày hôm sau Chu Quốc Trị dẫn đường sắp bày thanh la cờ phướn đi thẳng đến Ngũ Hoa sơn.
Kỳ thực khi đoàn người vào Quý Châu, Ngô Tam Quế đã nắm rõ như trong lòng bàn tay, chỉ giả vờ không biết, vẫn cứ uống rượu xem hát hưởng lạc như cũ, tỏ ra vẻ trong lòng thanh thản chẳng có chí mưu gì. Bây giờ nghe nói Khâm sai đã tới dưới núi, bèn làm ra vẻ hốt hoảng, ra lệnh: “Bắn pháo, mở cổng giữa tiếp chỉ!”
Ba tiếng pháo nổ long trời lở đất vang rền chấn động Ngũ Hoa sơn. Cổng chính vương cung nguy nga tráng lệ mở toang, mấy chục tên hiệu úy trong đội danh dự mặc áo gấm, đầu đội mũ chóp có tua, hông giắt dao găm, tay cầm bốn ngô trượng, bốn lọng đứng, bốn lọng nằm, bốn cái vồ cùng với các thứ binh khí khác: búa, mâu, qua, kiếm... và cờ quạt từ từ tiến ra cổng danh dự. Bên trong đã có tiếng trống tiếng nhạc vọng ra. Khâm sai chánh sứ Triết Nhĩ Khẳng tay cầm sắc chỉ của Khang Hy, dẫn phó sứ Phó Đạt Lễ ngang nhiên bình tĩnh đứng ngoài cổng danh dự đợi tiếp chỉ. Thấy Ngô Tam Quế đội mũ chầu thân vương hai tầng rồng vàng đính mười hạt ngọc đông châu, mình mặc áo măng Thạch thanh, ngoài khoác áo thêu bốn lớp rồng vàng năm móng rực rỡ chói mắt, vương mặt mày hớn hở bước tới nghênh đón. Hai tay nhẹ nhàng vung lên lộ ra cánh tay áo móng ngựa, trước hết vái một cái nói: “Nô tài Ngô Tam Quế cung thỉnh Vạn tuế thánh an!” Rồi thong dong đĩnh đạc làm đại lễ ba quỳ chín lạy trong tiếng trống nhạc.
“Thánh thượng cung an!” Triết Nhĩ Khẳng thấy ông ta đón tiếp với nghi lễ long trọng, hơi cảm thấy yên tâm, bèn nâng tờ sắc lên, coi như thay trời thụ lễ. Sau đó nét mặt tươi cười đưa chiếu thư cho Phó Đạt Lễ, hai tay đỡ Ngô Tam Quế, tự mình quỳ một gối, vái một cái, cười nói: “Hạ quan thỉnh an Vương gia! Xin chúc mừng Vương gia! Chín năm trước đã được vinh dự gặp mặt Vương gia ở kinh một lần, bây giờ xem ra trẻ hơn nhiều, Vương gia quả thật phước to như biển!”
Ngô Tam Quế cười ha hả, một tay đỡ Triết Nhĩ Khẳng, một tay đưa mời hai người đi vào trong: “Ông Triết vẫn cứ trêu tôi như vậy – bạn cũ mà! Mau mời vào, Phó đại nhân, mời!” Nói xong mỗi tay kéo một người đi vào chính điện Vương phủ.
“Hai vị đại nhân,” xem trà xong, Ngô Tam Quế cười khanh khách nói, “trước đây không lâu, Ngô Đan đại nhân mang chiếu đến Vân Nam, nhờ ơn Thánh thượng ban thưởng cho nhiều thứ. Ngô Tam Quế có công gì đức gì mà được ông chủ ban ơn hậu như vậy! Thực ra Hoàng thượng có việc gì cho triệu tiểu vương vào kinh truyền dụ bằng miệng là được, chứ cứ đi hết chuyến này đến chuyến khác như thế này phí bao công sức!” Nói tới đây hắn thở dài, nói tiếp, “Khang Hy ba năm tham dự triều chính coi bằng chín năm, lòng tôi không thể nào yên được. Năm kia, Hoàng thượng triệu tôi vào kinh, lại bị cái bệnh chó chết, nên không được như ý nguyện! Đành phải nhờ Chu Trung thừa gặp mặt Thánh nhờ chuyển lời thỉnh an. Nghe nói là chúa thượng ngày đêm chuyên cần, sức lực hao gầy, không biết bây giờ có đỡ hơn không? Nhất định là lớn cao lên chắc tốt hơn – Ôi, người già rồi, cứ ở mãi nơi xa xôi hoang vắng, quả thật cũng đáng lo ngại?” Giọng nói vô cùng cảm động.
Ngô Tam Quế nói những lời này tình sâu ý sát, vô cùng ân cần chu đáo, không hề có chút gì khẩu tâm bất nhất, Phó Đạt Lễ cảm thấy sự việc không đến nỗi xấu như Chu Quốc Trị nói, chỉ ngồi một bên mỉm cười gật đầu, yên tâm uống trà. Triết Nhĩ Khẳng thì biết rõ tính cách Ngô Tam Quế, không thể dùng tình cảm bình thường mà đánh giá hắn, nghe xong những điều bộc bạch, ông cười ha hả rất cởi mở, nói: “Vương gia nói rất phải. Đức Vạn tuế cũng rất lo cho Vương Gia! Quả là mây núi muôn trùng không chia cách tấm lòng vua tôi – Phó đại nhân, xin đưa thánh dụ do tự tay Đức Vạn tuế viết cho Vương gia xem.” Phó Đạt Lễ với Triết Nhĩ Khẳng đã bàn với nhau, không câu nệ đối với Ngô Tam Quế trong hình thức tiếp chỉ bình thường, chỉ cần nghe lệnh phụng chiếu là được. Thấy chánh sứ đã nói, Phó Đạt Lễ vội đứng lên hai tay dâng chiếu chỉ lên.
Không ngờ Ngô Tam Quế không chịu qua loa cho xong chuyện, hắn vội rời chỗ ngồi, làm đại lễ ba quỳ chín lạy mới tiếp nhận. Đầu tiên hắn tán một câu: “Nét chữ đẹp thật!” Rồi mới đọc tỉ mỉ.
Mặc dù nội dung hắn đã biết từ sớm, Ngô Tam Quế vẫn đọc rất chăm chú. Một lúc lâu, hắn đặt nhẹ bức chiếu thư lên bàn, cười nói: “Ta đã biết chắc Hoàng thượng đối với ta ơn nặng, nhất định chuẩn y lời thỉnh cầu của ta. Ta vốn là người phương bắc, thật sự ở đây không quen. Nói tới công đối với xã tắc, là lời Hoàng thượng quá khen. Lời tục nói “lá rụng về cội”, từ lâu tôi muốn trở về bắc đoàn tụ lúc tuổi già nhưng sợ lâu rồi, khó tránh có kẻ tiểu nhân đặt điều khích bác tôi trước mặt Hoàng thượng, Hoàng thượng đã nói thế, thì tôi yên tâm rồi. Quả thật là Đức Vạn tuế hiểu thấu lòng người xa cách, biết rõ lòng người già này!”
“Không biết xa giá Vương gia lúc nào có thể lên đường?” Phó Đạt Lễ cảm thấy Ngô Tam Quế thân thiết hiểu người, căn bản không giống như Triết Nhĩ Khẳng và Chu Quốc Trị nói, bèn cười chắp tay hỏi, “Hoàng thượng đã xây dựng Vương phủ đón tiếp Vương gia vào kinh, đại thế tử ở kinh cũng ngày đêm mong ngóng vương gia về bắc để sum họp một nhà, cùng hưởng lạc thú trời cho. Vương gia ban cho ngày giờ lên đường, theo lộ trình nào để hạ quan tâu rõ với Hoàng thượng, sớm chuẩn bị.”
“Ha ha ha! Phó đại nhân trước kia tuy chưa tới Kinh Châu, mới nhìn cũng biết là một trụ cột quốc gia.” Ngô Tam Quế không cần suy nghĩ, thuận tay bưng một bát nước cháo đưa cho Phó Đạt Lễ rồi chau mày than rằng: “Việc của ta thì còn nói làm gì? Một chốc là có thể đi ngay với hai vị. Chỉ vì tiện nội, gia quyến chuyện các bà các con thì nhiều lắm. Tiện nội mấy ngày trước bị cảm lạnh, một lúc không thể đi lại được. Những việc vặt đó thôi không nói, phiền nhất là một số quân tướng bên dưới, đã theo ta nhiều năm rồi, bây giờ lại có lời đồn, nếu đối xử không thỏa đáng, gây ra chuyện thì nguy to!” Nói tới đây, Ngô Tam Quế ngước đầu nhìn sắc mặt thất vọng của Phó Đạt Lễ, bất giác cười thầm, mồm lại nói tiếp: “Có lẽ phải cuối tháng mười...”
Đang nói thì nghe bên ngoài có tiếng ồn ào, một vị tướng trung niên mặt vuông hai tay đẩy các thị vệ trước điện, sải bước đi vào điện, đinh thúc ngựa sáng loáng kéo trên nền nhà lát đá Vân Nam, kêu leng keng.
“Mã Bảo?” Ngô Tam Quế mặt dữ dằn, xị xuống nói, “Ta đang bàn việc đại sự với hai vị thiên sứ, ngươi có việc gì quan trọng dám tự tiện xông vào điện, còn ra thể thống gì nữa!”
Mã Bảo ngang nhiên vái Ngô Tam Quế một cái, không trả lời câu hỏi mà quay nhìn lạnh lùng Triết Nhĩ Khẳng và Phó Đạt Lễ, rồi hỏi: “Các ông là Khâm sai, ta nghe nói các ông đang bức Vương gia ta lên đường?”
“Không có việc bức” Triết Nhĩ Khẳng đã hiểu rõ, đây là một màn kịch được sắp đặt trước, chỉ chưa lường được là bắt đầu sớm như vậy. Thấy ánh mắt lạnh lẽo của Mã Bảo, mới bắt đầu đã muốn lật lọng, liền bình tĩnh bưng chén trà, liếc nhìn Ngô Tam Quế ngồi như phỗng, không chút để ý lấy nắp chén gạt xác trà nổi trên mặt, đáp không chút biểu cảm. “Vương gia tự xin triệt phiên về bắc dưỡng lão, Hoàng thượng đã ân chuẩn, chúng ta chẳng qua giúp Vương gia lo liệu chuyến đi được thuận tiện, không biết tướng quân có ý kiến gì?” Phó Đạt Lễ cười nhạt hỏi: “Xin hỏi Mã tướng quân ở đơn vị nào? Xông vào điện hỏi khách, Ngũ Hoa Sơn trước nay vẫn lịch sự như thế này sao?”
“Ta là quản quân đô thống Mã Bảo dưới trướng Bình Tây vương!” Đôi mắt Mã Bảo sáng quắc lên, “Khâm sứ đã nói Vương gia “tự xin” triệt phiên, hành trình ngày giờ quay về đương nhiên do Vương gia “tự định”! Hai người vào nhà, chén nước chưa uống đã thúc hỏi ngày đi, đó là ý gì?”
“Ăn nói bừa bãi!” Ngô Tam Quế mặt đỏ gay, đập bàn một cái, đứng lên, chỉ Mã Bảo quát to, “Đây là lề thói ở đâu, ai dạy cho ngươi? Tam Quế ta cầm binh hơn bốn mươi năm chưa từng thấy một tên lính nào ngỗ ngược như ngươi! Bay đâu?”
“Dạ!” Bọn hộ vệ trong điện ngoài điện dạ ran một tiếng như sấm rền.
“Đuổi nó ra ngoài!”
“Ha ha ha ha..” Mã Bảo ngước đầu lên cười, cười đến nỗi Triết Nhĩ Khẳng và Phó Đạt Lễ mặt mày thất sắc, dựng tóc gáy. Ngô Tam Quế bỗng nhiên nổi giận, trừng đôi mắt hổ, nghiêm giọng quát: “Ngươi cười cái gì, không biết phép vương ta lợi hại ra sao hả?” Rồi sai quát người, “Kéo nó ra, đánh bốn mươi roi, đánh tan tính thổ phỉ của nó!”
“Dạ!” Mấy tên hộ vệ dạ ran xông lên. Mã Bảo không chút nhượng bộ, một bước nhảy phốc ra cửa điện rút kiếm cầm tay, kêu to:
“Đứa nào dám tới trước? Lập tức cho máu nhuộm điện Ngân An!” Nói xong liếc nhìn Ngô Tam Quế, rồi trở lại giọng ôn tồn, “Vương gia, ngài muốn triệt phiên, thì cứ triệt ngài đi, thời gian, hành trình để Mã Bảo tôi quyết định! Tôi đã truyền tướng lệnh, các lộ ở hai tỉnh Vân Quý đều đã đóng kín, không có tín bài của tôi, một con chuột cũng không ra thoát! Hai vị Khâm sai hủ lậu cứ chịu khó ở đây, tám năm, mười năm, việc triệt phiên vương gia làm ổn rồi thì lên đường cũng không muộn! Hì hì!” Hắn vừa nói vừa cười lạnh lùng bỏ đi.
Triết Nhĩ Khẳng nhìn theo bóng lưng Mã Bảo, trong lòng lập tức trù định: Xem ra sự việc nghiêm trọng hơn nhiều so với dự liệu, chi bằng nói rõ ra, để xem Ngô Tam Quế hành động thế nào. Bèn đứng lên nói nghiêm trang: “Vương gia, ngài biết tôi rồi đó, chúng ta quen biết nhau đã hơn ba mươi năm rồi, muốn như thế nào, tôi và Phó Đạt Lễ xin lắng nghe ngài xử trí.”
“Đâu có!” Ngô Tam Quế vội nói, “Triết đại nhân nghĩ quá rồi, ngài còn chưa biết Ngô Tam Quế tôi hay sao? Tên Mã Bảo này vốn dưới tay giặc Hiến, xuất thân là lính côn đồ, biết gì lễ nghĩa? Sớ triệt phiên gửi đi rồi, bọn bên dưới bàn bạc suy đoán đủ điều, vừa rồi tôi có nói “vỗ về an ủi” là nói ý này. Hai vị đừng thèm để ý đến bọn người man rợ này, trước hết hãy ở đây đợi một thời gian, hai tỉnh Vân Quý vẫn còn nghe tôi. Ước khoảng cuối tháng mười, nhất định chúng ta đi được – đây là chuyện đại sự triều đình, cũng là nguyện ước lâu nay của tôi, không phải tùy thuộc bọn tiểu nhân đó! Ông nói có đúng không. Phó đại nhân?”
Phó Đạt Lễ cảm thấy mình bị lừa bị nhục, nhưng không có cách gì trở mặt với Ngô Tam Quế. Ông nuốt nước bọt, mặt đỏ gay cười nói: “Xin cảm ơn tâm tình của Vương gia. Phúc Tấn đã không khỏe, binh tướng bên dưới lại như vậy, thì chậm mấy ngày cũng không sao. Hạ quan trở về nhiệm sở sẽ viết sớ tâu ngay cho rõ, nói rõ lý do đầu đuôi là xong.”
“Thế nào?” Ngô Tam Quế kinh ngạc hỏi, “Chẳng lẽ hai vị không chịu chiếu cố trú ngay tại đây sao?” Nói xong, quay mặt nhìn Triết Nhĩ Khẳng. Triết Nhĩ Khẳng tự biết việc lớn không tốt, liền nhỏm người, cười nói: “Bẩm Vương gia, ngoài quán dịch đã sắp xếp tốt rồi. Chu Trung thừa cũng đã mời chúng tôi về trong nha Tuần vũ, chúng tôi cũng xin miễn rồi. Khách đi chủ nhân yên lòng, chúng tôi quả thật không muốn quấy rầy nhiều.”
Ngô Tam Quế biết họ muốn chứng tỏ có khoảng cách với Chu Quốc Trị, bèn cười nói: “Thực ra ngụ ở đâu cũng vậy thôi. Các vị là thiên sứ, đành để các vị tự nhiên – truyền dụ: bày tiệc để tẩy trần cho hai vị khâm sai!”
Một chốc, đàn sáo nổi lên, trống nhạc inh ỏi, từng bàn tiệc thịnh soạn do bốn hiệu úy khênh ra sắp xếp lên. Bỗng chốc mùi rượu thơm phức tỏa ra ngào ngạt khắp phòng. Văn quan võ tướng đưới cờ Ngô Tam Quế nối đuôi nhau vào điện, mỗi người cầm thiệp tay lý lịch lạy chào hai vị khâm sai. Hai vị Khâm sai cũng đứng lên đáp lễ từng người. Triết Nhĩ Khẳng vì quen nhiều người, thỉnh thoảng còn nắm tay hàn huyên. Không khí dương cung tuốt kiếm, sát khí đằng đằng vừa rồi như có phép màu đã biến thành cảnh tượng thân tình nồng nhiệt. Hồ Quốc Trị điều khiển bữa tiệc, bận rộn mồ hôi đầy người, liếc nhìn thấy Uông Sĩ Vinh bước vào liền đến gần hỏi nhỏ: “Không phải anh đã nói là đi Tây An sao, làm sao anh lại đến đây?”
“Uống một chén rượu trước khi lên đường cho khỏe khoắn rồi đi cũng không muộn.” Uông Sĩ Vinh chậm rãi nói nhỏ, che miệng cười nói. “Tôi nói cho anh biết một tin, Tôn Diên Linh, Kim Quang Tổ hiện giờ chắc cũng đang bày tiệc rượu, kịch hay màn này tiếp màn khác, hãy chờ mà xem!”
“Được! Tôi đợi tin hay của Tiểu Trương Lương!” Hồ Quốc Trụ nói, thấy mọi thứ đầy đủ liền tới bên ghế đầu Ngô Tam Quế lớn tiếng hô to: “Chúc hoàng đế ta vạn tuế, vạn vạn tuế! Vương gia thiên tuế, thiên thiên tuế! Chúc hai vị khâm sai đại nhân phúc thể an khang!” Mọi người nghe đều nhất tề nâng chén chúc mừng, duy chỉ tên Mã Bảo “ngang ngược” không đến, tự đi truyền đạt lệnh vương: “Hai tỉnh Vân Quý kể từ hôm nay chỉ cho người vào, không cho người ra khỏi địa phận!”
Uông Sĩ Vinh nói không sai chút nào, Quế Lâm ở ngoài ngàn dặm, trong tướng phủ của Tôn Diên Linh cũng đang bày tiệc thịnh soạn một kiểu khác hơn.
Từ lúc Khổng Tứ Trinh thu phục Đái Lương Thần trong trại, giành quyền điều hành trong quân, Tôn Diên Linh vẫn luôn buồn rầu lo lắng. Ông vốn là người tâm tính rất cao ngạo, sau khi vào kinh được Khang Hy đối xử ưu đãi, rồi thăng Khổng Tứ Trinh lên công chúa gả cho, hy vọng với tư cách phò mã vinh quy Quế Lâm trấn áp được hai bộ Mã Hùng và Vương Vĩnh Niên, làm một danh tướng oai vang bốn biển. Nào ngờ con gà mái Khổng Tứ Trinh cứ đòi gáy sáng, làm cho uy tín của ông cũng không bằng trước kia. Người công khai phát lệnh điều hành vẫn là ông, Tôn Diên Linh, nhưng thực ra, mọi việc đều phải xem sắc mặt phu nhân mà làm. Sau lưng không khỏi có người chỉ trỏ, nói là “sợ vợ”, điều này vẫn miễn cưỡng nghe được đi, lại còn nói nào là “khăn đầu xanh”, nào là “bị cắm sừng”, toàn những lời độc địa, làm sao mà chịu nổi! Ngày nào cũng tức giận không có chỗ để xả hơi. Tôn Diên Linh dứt khoát không để ý việc quân nữa, nói thác là bị bệnh phong, tự đi đánh cờ, đàn trống, vẽ theo thiệp cổ, vẽ tranh để giải khuây. Một hôm, Tôn Diên Linh mang theo hai tên hiệu úy đi bắn chim trên bờ Ly Khẩu. Đi qua lại một hồi lâu trên bờ Ly Khẩu chỉ bắn được hai con gà rừng, đang lúc không vui, bỗng nghe trên sông có người ca hát, lắng tai nghe là:
Sông Ly đẹp, đẹp do nước mùa xuân thanh thoát, nước biếc một dòng chảy về nam.
Núi xanh ngan ngát người không già... Sông Ly đẹp...
Tôn Diên Linh nghe say mê. “Giọng ca này hình như quen thuộc, hát hay như vậy, phối với tiếng mái chèo khua nước nghe thật vui tai.” Rồi ném dây cương cho tên hiệu úy, cười nói: “Hôm nay bắn chim chẳng được gì, ta sẽ tự đi một mình, các ngươi đi về bẩm với công chúa, buổi tối ta không về ăn đâu. Nói xong một mình men theo triền dốc đi xuống, đứng trong lùm cây trên bờ, chỉ thấy xa xa trời nước như nhuộm một màu lục đậm. Thấy một người đàn ông đội nón lá, chèo một chiếc “thuyền bé tẹo” bồng bềnh đi tới, liền kêu to: “Này... chèo tới đây, cho tôi cùng xuôi với có được không?”
“Ông đã đọc Trung Tử chưa?” Người đó cao giọng hỏi. “Cá đang mắc nạn, lấy nước bọt mà thấm cho nhau... à, Diên Linh đó hả?”
“Ông là Uông Sĩ Vinh?” Tôn Diên Linh cũng ngạc nhiên, quay đầu nhìn lại không có ai liền cười nói, “Anh quả tiêu dao tự tại, một mình chèo thuyền ở đây! Lên đây cùng ngồi được chứ?” Uông Sĩ Vinh ném sợi dây lên bờ, ghìm chiếc thuyền nhỏ lại, đứng trước mũi thuyền cười nói: “Hà tất phải cùng ngồi, anh trên núi, tôi đang ở trên nước, núi có cái linh của núi, nước có cái đẹp của nước, chắc làm được chuyện ngư tiều vấn đáp!” Tôn Diên Linh nghe xong cười nói: “Lòng người ta buồn chết được, anh lại có những lời thiền tinh tế ở đây – sao anh không về Vân Nam?”
Uông Sĩ Vinh cười không trả lời, thả chèo xuống nước, đặt cây sáo dài ở đầu thuyền, rồi mới cười nói: “Không phải tôi không muốn lên bờ cùng ngồi với ông, chỉ sợ con sư tử nhà ông gầm lên – đại tướng quân còn phải thuận theo chiều gió, huống chi một thư sinh như tôi?”
Một lời nói trúng tim tâm sự của Tôn Diên Linh, mặt tái nhợt, ông chọn một hòn đá sạch sẽ ngồi xuống, sững sờ yên lặng nhìn dòng Ly giang trôi xuôi như một dải gấm.
“Vừa rồi ông hỏi tại sao không về Vân Nam.” Uông Sĩ Vinh nói nhẹ nhàng chậm rãi, “Có thể nói thẳng ra là công việc ở Quế Lâm tôi chưa làm xong, vội vàng về Vân Nam làm gì? Tôi vẫn là người tự do trong trời đất, không mang gông cùm như anh, muốn làm một ngư ông trên sóng nước Ly giang, chẳng tốt sao?”
Tôn Diên Linh nghe lời nào cũng nói móc hông, ông bẻ mười đầu ngón tay kêu rôm rốp, hỏi lại: “Ông có việc gì? Tôi giúp ông làm được không? Tôi xem ông nên sớm về Vân Nam tốt hơn, nơi này lắm chuyện lôi thôi! Hai bộ Mã Hùng và Vương Vĩnh Niên bất hòa, Mã Hùng đã dẫn bộ chỉ huy của mình rời Quế Lâm sang Liễu Châu, Vương Vĩnh Niên tâu với triều đình cử binh đánh dẹp, trước mắt họa binh đao khó tránh khỏi!” Uông Sĩ Vinh bỗng cười nói: “Đấy là do cách nắm quân của tôn phu nhân! Thực ra cái loạn ông nói đây chỉ mới là một vết ngứa, bây giờ triệt phiên, Giang Nam gấm vóc sẽ có ngày xóm làng nào cũng dậy lửa, cỏ cây còn bốc khói! Trượng phu anh hùng hoảng sợ nổi lên, khôi phục cơ nghiệp Hán, lâu đài bốc khói chỉ mong có một cuộc này. Đáng tiếc cho ông, một anh hùng cái thế, chịu lép vế dưới tay nội tướng, như hổ không thể gầm trong rừng xanh, như nhạn không cất cánh, buồn thay buồn thay!” Giọng hắn không cao, nhưng âm điệu xuống lên trầm bổng có sức vang vọng.
“Chẳng trách hắn không chịu lên bờ, vốn là muốn nói với ta những lời đại nghịch vô đạo!” Tôn Diên Linh nghe trong lòng run rẩy, mặt mày biến sắc, nói: “Ông là người của Bình Tây vương, tôi là đại thần triều đình, tình riêng là bạn bè, nghĩa chung là hai nước. Sĩ Vinh, đừng lấy cái đầu ra mà đùa!”
“Hãy xem cái này!” Hình như Uông Sĩ Vinh không nghe thấy, từ dưới sông, hắn quăng lên bờ một tờ sớ. Tôn Diên Linh nhận lấy đọc, bất giác giật mình, vốn là bản sao tờ trát mật ông gửi cho Thượng Chí Tín ngày trước. Tờ trát nói mình không làm chủ được mình, nhưng là thân ở Tào lòng ở Hán, nhất định giữ nghiêm trung lập. Tên Uông Sĩ Vinh này quả là tai mắt ghê gớm. Còn có một tờ chiếu thư đính kèm, trên có mấy dòng nguệch ngoạc:
Đại Châu thiên tử khâm phong Tôn Diên Linh làm Lâm giang vương, mệnh lớn bằng trời, phong Vương để khuyến khích!
“Đây... đây là cái gì?” Tôn Diên Linh kinh ngạc toàn thân run lên, giọng run rẩy hỏi. Uông Sĩ Vinh ôm gối nhìn trời, nói lạnh lùng: “Đây quả là biết rõ mà cố hỏi. Ông một đời trung hiếu với triều đình Thanh, e cũng khó có được vương vị như thế này? Bây giờ liên kết với tam phiên, đã là người thất tiết rồi. Khuyên ông đừng có giả bộ vờ vĩnh, nghiêm túc bàn định kế hoạch một lần vậy!”
“Công chúa thì làm sao?” Bất chợt Tôn Diên Linh buột miệng nói ra.
“Thời Minh trước có một viên tướng thân thích, đánh với giặc Oa trăm trận không hề sợ hãi, khôi phục được Đài Loan, không hổ là anh hào một thời, nhưng người này suốt đời sợ vợ.” Uông Sĩ Vinh mắt sáng quắc nhìn Tôn Diên Linh vẻ mặt vừa có chút sợ hãi vừa có chút hưng phấn, nói chậm rãi, “Anh đừng học hắn!” Nói xong kéo cái giỏ dưới nước lên, mười mấy con cá béo nhảy tưng trong lưới. Uông Sĩ Vinh cười hì hì, nói nhỏ: “Mười hai con, một mẻ lưới tóm được mười hai con! Chỉ cần động dao thớt thì chẳng phải là món ngon trong miệng ta sao?”, nói xong nhổ sào lướt sóng mà đi, từ xa tiếng hát của hắn vọng lại:
Sông Ly tốt, sông Ly vốn là nơi ta tìm cái ăn cái mặc! Gió Hồ thổi đến cả sông buồn, gió Hồ qua rồi cá đầy khoang... sông Ly tốt...
“Mười hai con!” Tôn Diên Linh nhảy lên như điện giật, “Vương Vĩnh Niên, Mã Hùng Trấn, Vương Mạnh, Thái Nghĩa Hồng... à, mười hai người không thừa không thiếu! Tên Uông Sĩ Vinh này thật là một tên học trò đa mưu!” Càng suy nghĩ, hắn thấy tinh thần phấn chấn, vén cao tà áo dài dắt vào thắt lưng, không thèm ngoái đầu, hắn rời bờ sông.
Đêm đó, hắn bày một bữa tiệc Hồng Môn tại vương phủ trên bờ sông, mời Tuần vũ Mã Hùng Trấn đến bàn việc, lấy việc ném ly làm hiệu lệnh, bắt giết mười một tướng bọn Vương Vĩnh Niên... và cả Mã Hùng Trấn, sau đó sai người “đưa kiệu về phủ!”
Cuộc biến động lớn đột nhiên xảy ra, Khổng Tứ Trinh vẫn còn như bịt tai trước trống. Những ngày này liên tiếp nhận được cấp báo các nơi nói Thượng Khả Tín và Ngô Tam Quế rầm rộ điều động quân lính, bà có dự cảm những chuyện không hay sẽ xảy ra với bà, Tôn Diên Linh chỉ ầm ừ cho qua chuyện, bà cũng đã nhìn thấy. Để đề phòng binh sĩ thành Quế Lâm gây biến bất ngờ, bà cử Đái Lương Thần ngày đêm theo dõi động tĩnh ở hành dinh, cứ giờ Tuất mỗi ngày trở về bẩm báo sự việc diễn ra trong ngày. Nhưng đêm nay đã giờ Hợi quá hai khắc, cả Đái Lương Thần cũng chẳng thấy tăm hơi, trong lòng đã sinh nghi hoặc, bà sai người khênh tới chiếc kỷ dài, nằm dựa ngửa phía đầu ghế, nhìn say mê những ngôi sao trên bầu trời xa xăm.
Khổng Tứ Trinh đang mơ màng, nghe văng vẳng tiếng hò hét bên hành dinh truyền sang, tiếp đến là tiếng vó ngựa dồn dập, làm kinh động hai hàng phố, tiếng chó sủa dậy lên từng hồi. Khổng Tứ Trinh vùng dậy, đang định sai người đi dò tin thì đã nghe phía tường cửa thứ hai lối vào nha phủ đầy dây leo rậm rạp có mấy tiếng kêu gấp gáp, liền nghiêm giọng hỏi: “Ai!”
“Con...”
Khỉ đen cầm thanh kiếm gãy một nửa, loạng quạng ngã vào, toàn thân trên dưới đều như mới dội một thùng nước, màu đỏ tươi theo ống quần nhỏ xuống. Khỉ đen không còn đứng vững, hai tay bíu vào khuông cửa, mắt trắng bệch, mồm lắp bắp một hồi nói: “Cô... có binh biến rồi! Cô mau, mau lên!”
Khổng Tứ Trinh kinh ngạc la lên, nhưng mới đi hai bước đã dừng lại, hỏi: “Nói mau! Sự thể ra sao?”
“Tôn Diên Linh đã thay lòng!” Khỉ đen lấy hết sức nói. “Nhân bọn chúng chưa kịp tới, cô đi mau lên! Đến chỗ Phó dại nhân bên Thương Ngô…” Câu nói chưa dứt, người Khỉ đen mềm oặt, quỳ xuống, dùng một nửa thanh kiếm gẫy chống đỡ thân mình khỏi ngã ra, nhưng không còn động đậy nữa.
Khổng Tứ Trinh kêu lên một tiếng thảm thiết: “Khỉ đen!” rồi chồm tới, tay run rẩy vuốt mái tóc rối bù của Khỉ đen, khóc thất thanh, “Cô đã hại con, không nên đưa con tới...” Bà bỗng nín khóc, quay người lấy thanh bảo kiếm trên tường, gọi to một tiếng về phía sau: “Các nô tài nhà họ Khổng, ra hết đây!”
“Không cần đâu!” Tôn Diên Linh lạnh lùng đáp. Liếc nhìn Khỉ đen đang nằm trên ngưỡng cửa, ông nghiêng người lách vào, nói với Khổng Tứ Trinh, “Ta vì phục hồi cơ nghiệp nhà Hán, đã thụ tước phong Lâm Giang vương, bây giờ bên ngoài có hơn ngàn tướng tá, xin phu nhân chớ làm điều vô ích!” Nói xong nhìn ra ngoài hô to: “Vây chặt phố sau, không có vương lệnh của ta, không được giết người!”
“Ông, Lâm Giang vương?” Khổng Tứ Trinh kinh sợ, tức giận tới cực điểm, nhưng cố trấn tĩnh lại, “Ngô Tam Quế phong cho ông hả?”
“Cứ cho là vậy đi,” Tôn Diên Linh lạnh lùng đáp, “có điều phu nhân yên tâm, chúng ta là vợ chồng kết tóc, ta đâu có làm khó cho bà!”
Khổng Tứ Trinh nhìn sững Tôn Diên Linh một hồi lâu, bỗng phá ra cười điên dại: “E không phải là tình cảm vợ chồng? Ông để lại tôi, chắc là còn để lại một con đường rút đối với triều đình, phải vậy không?”
“Tứ Trinh, bà...”
“Lầu phía sau là nơi cha tôi Định Nam vương tuẫn tiết.” Khổng Tứ Trinh như một pho tượng ngọc bất động, nói, “Nếu ông còn nhớ tình nghĩa vợ chồng thì cứ để tôi chết ở đó, được chứ?”
Tôn Diên Linh chỉ hất đầu, hai tên hiệu úy bước vào, giữ tay giật lấy thanh kiếm trong tay Khổng Tứ Trinh. Bây giờ Tôn Diên Linh mới cười nói: “Dù cho thế nào, họ Khổng nhà bà rất biết tam tòng tứ đức, ta không làm giấy từ hôn, bà vẫn là vợ ta, tại gia tòng phu, xuất giá tòng phu. Ta không cho bà chết, chỉ từ nay về sau, bà không còn là Tứ Cách Cách, cũng không phải là Tứ Công chúa, mà vẫn là vương phi của Lâm Giang vương! À – nói tới Ái Tân Giác La – Huyền Hoa, ta thấy vị Hoàng thượng này quyết không có khả năng giành thắng lợi, nhiều lắm chỉ là cùng chúng ta vạch định ranh giới cùng trị vì thiên hạ! Bà có biết không, Vương Phụ Thần Thiểm Tây cũng đã giương cao cờ nghĩa, không còn bao lâu nữa, tam vương sẽ hội quân ở Trực Lệ, toàn Trung Quốc sẽ nổi dậy!” Nói xong quay người ra lệnh: “Hầu hạ vương phi cho tốt!” Rồi cất bước ra đi.

