Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 40
40
Uông Sĩ Vinh gây binh biến Thiểm Tây
Quan Khâm sai bị giết ở Trường An
Mã Bảo tuy nói phong tỏa biên giới Vân Quý nhưng Uông Sĩ Vinh ngày hôm sau vẫn ngày đêm bôn ba từ Tứ Xuyên đến Thiểm Tây. Vì việc gấp, hắn không mang theo một người nào, chỉ tự mình cưỡi con ngựa chiến của Ngô Tam Quế ngày đi được tám trăm dặm. Sau khi lẩn vào thành Tây An, trước tiên hắn đến trước phủ Đề đốc Vương Phụ Thần dạo một vòng, thấy một đám hiệu úy đang ồn ào đóng cọc, bện cành liễu, kết dây tơ, treo đèn hoa, không ai chú ý đến anh, bèn quay trở lại. Hắn tính toán là trước tiên nên đi gặp Vương Phụ Thần hay là gặp bọn tướng tá Trương Kiến Huân, Vương Bình Phiên, Mã Nhất Côn hoặc Cung Vinh Ngộ, thăm dò tình hình thực tế nơi đây. Bọn họ đang bận rộn làm cổng chào, trong ngày nhất định có Khâm sai đến, nhưng không biết triều đình cử ai đến Thiểm Tây.
“Sĩ Vinh!” Bỗng nghe có tiếng người kêu sau lưng, tiếp sau là một bàn tay đặt lên vai anh, “Trên đầu cán cờ cột lông gà – quả là gan không nhỏ!”
Uông Sĩ Vinh giật mình, quay đầu nhìn, đúng là Trương Kiến Huân dẫn một đám binh sĩ khênh mười mấy cái giỏ vừa từ cửa nhỏ phía đông phủ Đề đốc đi ra, liền cười hỏi: “Té ra là anh! Đây có gì to gan nhỏ gan? Lần này tôi sẽ cùng anh đi gặp Vương Phụ Thần, có ngại gì không?” Trương Kiến Huân cười nói: “Anh dù nắm cái thóp đó cũng không nên quá mạo hiểm, Vương Phụ Thần không ngốc hơn anh bao nhiêu đâu! Những người biết rõ sư việc, bây giờ e tìm không ra!” Uông Sĩ Vinh đã nghĩ tới chuyện này rồi, chỉ cười nhạt nói: “Đồ đạc của hắn không phải chỉ một cái, ông ta với Bình Tây vương đã có tình cảm qua lại mấy mươi năm rồi. Hơn nữa, có anh và ông Mã ở đó, tôi còn sợ gì?”
“Khá lắm!” Trương Kiến Huân vội vàng sai dặn các hiệu úy: “Khênh mấy thứ này tới trạm dịch, giao cho Vương tham tướng sắp xếp – cẩn thận, đừng để va chạm, đều là đồ ngọc!” Rồi kéo Uông Sĩ Vinh ra một bên nói: “Vương quân môn đang muốn bày tỏ nỗi lòng với triều đình, anh tuy không sợ chết, chuyện gì phải tới nơi nguy hiểm này? Đi, đến trại của tôi, nghỉ ngơi mấy ngày, tôi đưa anh bình yên trở về Vân Nam!”
Ba vạn người ngựa của Trương Kiến Huân đóng tại phía bắc thành Tây An, vì đã được phong làm đô thống, phẩm trật ngang với Vương Phụ Thần, đương nhiên có một hành dinh trong thành. Họ không cưỡi ngựa mà cùng ngồi một chiếc kiệu lớn bằng nỉ xanh hai người tám người khênh của Trương Kiến Huân.
“Trương tướng quân!” Uông Sĩ Vinh ho khẽ hai tiếng, nhổ ra nhột ngụm đờm có máu, ngớ ra một lúc rồi cười nói, “Mấy ngày nay ngủ không tốt, lại bị chứng thổ ra huyết rồi – anh có biết tôi đến lần này làm gì không?” Trương Kiến Huân ngồi ngay trước mặt Uông Sĩ Vinh, lắc lư theo nhịp kiệu, mắt sáng quắc lên, cười nói: “Anh tuy có biệt hiệu là Tiểu Trương Lương, nhưng tôi cũng không phải là anh đần. Nếu anh chỉ đến Tây An để chơi Thanh Hoa, leo Hoa Sơn, tưởng niệm lăng nhà Đường, ăn bánh bao nhân thịt dê, ăn mì cán, thì tôi đâu khuyên anh rời xa nơi này? – Anh là ân nhân của tôi mà!” Năm đó dưới cờ Bình Tây vương, Trương Kiến Huân uống rượu say, cứ chạy tới trước Trần Viên Viên huơ tay múa chân, may nhờ Uông Sĩ Vinh dẫn ra điển cố “Hội cắt tua” trong Xuân Thu để xin xỏ mới thoát chết, nên tên Uông Sĩ Vinh này được xem là ân nhân. Lúc đó Uông Sĩ Vinh cũng chỉ cười nhạt nói: “Chuyện ân nhân hay không phải ân nhân không nên nói nữa, lần này tới Tây An, tôi muốn cứu anh lần nữa, việc phúc đức không làm tới cùng, không phải là quân tử!”
Trương Kiến Huân hoàn toàn hiểu được ý nghĩa của việc “cứu một lần nữa”, có điều... Trương Kiến Huân nhắm mắt lấy tay ôm cái đầu vừa mới cạo, buồn bã than rằng: “Nội trong ba ngày, khâm sai sẽ tới Tây An – anh biết không? Tôn Diên Linh tuy làm phản rồi, Hoàng thượng đã hạ chiếu đặc biệt cho Phó Hồng Liệt làm Tuần Vũ Quảng Tây, toàn quyền dẹp loạn, Mãng Ỷ Đồ đã dẫn ba vạn quân vào trú đóng Quảng Tây, Thượng Khả Hỷ được tấn phong là thân vương, Thượng Chí Tín là tướng quân dẹp giặc, còn Ngô Tam Quế thì không có động tĩnh gì. Tôn Diên Linh lấy dưới phạm trên, lấy một góc chống toàn cục, có thể chèo chống được bao lâu?”
“Tay chân Khang Hy nhanh nhẹn quá!” Uông Sĩ Vinh ánh mắt sáng lên, hơi suy nghĩ, bỗng cười khanh khách.
“Anh cười cái gì?”
“Tôi cười anh làm việc quân hơn ba mươi năm, trong bụng không có chút tính toán gì!” Uông Sĩ Vinh ngả người lên thành kiệu, nói rành rọt từng chữ từng câu: “Phó Hồng Liệt là anh em kết nghĩa với tôi, không ai biết ông ta bằng tôi, là một quan văn tài giỏi, nhưng đánh giặc thì không nên rồi! Chỉ mong Thượng Chí Tín, Kim Quang Tổ đánh dẹp Tôn Diên Linh, há chẳng phải để chúng cùng nhau mưu phản – bọn họ là chim cùng tổ! Ngô Tam Quế sở dĩ còn chưa động tĩnh, là do việc điều động quân mã hai tỉnh Vân Quý chưa xong, bố trí chưa thỏa đáng cho nên Uông Sĩ Vinh tôi phải vội đến Thiểm Tây! Trương Quân môn, nội trong hai tháng nếu thiên hạ không loạn, khói lửa không nổi lên, cái đầu của ân nhân giao cho anh, tác thành cho anh thăng quan tiến chức!”
“Còn Mãng Ỷ Đồ...”
“Quân binh hai nhà Ngô Thượng không dưới bảy mươi vạn, ba mươi vạn quân muốn cứu vãn cục diện Quảng Tây, cho dù hắn là Ngô Khởi tái sinh cũng không được việc!” Uông Sĩ Vinh mỉm cười nhìn ra cảnh vật bên ngoài cửa kiệu, hắn bỗng chuyển giọng, lại hỏi: “Nói cả buổi, khâm sai đến Thiểm Tây là ai?”
“Là Mạc Lạc...”
“Là kẻ có chí lớn, thích hư danh!” Uông Sĩ Vinh cười nói, “Đó là triều đình biết chọn người!”
“Phí Dương Cổ bị sai đi làm đốc quân Phụng Thiên rồi, người thông thạo Bình Lương chỉ còn có Mạc Lạc.” Trương Kiến Huân ngẫm nghĩ câu nói của Uông Sĩ Vinh, lòng bỗng nghĩ ra “Từ đó thấy rõ sự tình cấp bách, triều đình biết rõ Mạc Lạc và Vương Phụ Thần bất hòa, vẫn cứ cử ông tới, xem ra Sĩ Vinh đặt điều nói dối!” Đang định nói, Uông Sĩ Vinh phấn khởi đỏ mặt, hai tay bỗng vỗ vào nhau, cười nói: “Trương công, anh mà chỉ cố ý muốn sống cho qua ngày, thì tôi không cần nói gì nữa. Nếu anh có chí khôi phục nhà Đại Minh, lưu tiếng thơm ngàn đời, làm một trượng phu lẫm liệt, thì sẽ xem anh đối xử như thế nào đối với tên Mạc Lạc mù mờ ngu xuẩn này!”
Trương Kiến Huân yên lặng rất lâu mới nói: “Việc này có quan hệ trọng đại, để tôi suy nghĩ kỹ đã, gây chuyện thì dễ dàng, nhưng thu dọn thì khó!”
Mạc Lạc đến Tây An đã ba ngày, là một kinh lược đại thần, toàn quyền phụ trách quân vụ cánh tây, lời căn dặn đinh ninh của Khang Hy trước khi đi: “Đừng sinh sự, giỏi điều động nhân sự”, ông không cho là đúng. Ông cũng biết Phí Dương Cổ đóng quân lâu năm ở Nội Mông do không rút ra khỏi Phụng Thiên được, Khang Hy trong lúc khó xử mới miễn cưỡng sai ông đến Thiểm Tây, cho nên trong lòng vì thế mà không vui. Từ năm Thuận Trị thứ mười bảy đến Thiểm Tây, ông ở đó đằng đẵng mười năm, từng cành cây từng ngọn cỏ ở Tây An, ông đều quen thuộc, ngay cả những người bán hàng rong cũng đều biết ông. Những người hát rong trong lầu trà họ Sử đến nay vẫn còn hát câu chuyện ông lúc mới vào Tây An ra sức diệt trừ bảy mươi hai “ông trời” Tây An. Khang Hy nói nơi đây là vùng đất nguy hiểm, nguy ở chỗ nào? Ban ngày đám người trên đầu phố vẫn ồn ào huyên náo, cho mãi đến đêm, hai bên dãy phố vẫn đèn đuốc xanh đỏ như cũ, trống phách những lầu hát lớn còn rộn ràng mãi đến tận canh ba...” Ông chủ có thánh minh đến đâu, rốt cuộc không phải là thần tiên!”
Ngày thứ tư, Mạc Lạc và Vương Phụ Thần cùng đi thăm lăng nhà Tần, trên đường về, mặt trời đã khuất núi, những con quạ liệng vòng trên cao, Mạc Lạc ngồi trên mình ngựa nhìn cảnh tượng mặt trời lặn, bỗng nói: “Phụ Thần, binh lính có dễ điều khiển không?”
“Hả?” Vương Phụ Thần chợt tỉnh khỏi cơn trầm tư, thở ra than rằng: “Cũng được, đều là bộ tướng dưới quyền đã theo tôi nhiều năm.”
“Mấy ngày nay tôi vẫn cứ nghĩ một việc,” Mạc Lạc nói, “không nói ra thì như cổ họng mắc xương, nói ra lại sợ anh đem lòng ngờ vực.” Vương Phụ Thần gò mạnh cương ngựa, nhìn Mạc Lạc lặng yên. Mạc Lạc cười nói: “Anh đừng nhìn tôi như vậy, mấy năm nay, những chuyện trên đời tôi nghĩ rất sâu, thấy rất rõ, không khí thịnh vượng trước kia không còn nữa, chỉ muốn phơi bày gan mật nói hết nỗi niềm với anh.”
Vương Phụ Thần nghe ông nói rất thành tâm, lấy roi ngựa chỉ một tảng đá to phía trước do ánh chiều tà phủ lên thành một màu vàng kim, nói: “Đại nhân có lời muốn nói riêng với tôi, trở về trong thành e không tiện, chúng ta đến đó ngồi nghỉ một chốc được không?” Mạc Lạc cười gật đầu, phóng ngựa đi, Vương Phụ Thần lệnh cho tùy tùng đợi lệnh tại chỗ, rồi phóng ngựa đuổi theo, hai người đến ngồi trước tảng đá trên hòn đá nhỏ được nước mưa lâu ngày gột cho sạch bóng.
“Tôn Diên Linh đã làm phản rồi.” Mạc Lạc bỗng nói một câu, “Anh đừng ngạc nhiên – đáng lo hơn là cha con Thượng Chí Tín cũng đang có hành động khác thường, khâm sai cử đến chỗ Ngô Tam Quế đến nay hơn hai tháng không có một tin tức gì! Xem ra tam phiên muốn làm loạn, biến động lớn sẽ xảy ra ngày một ngày hai!”
Mặc dù Vương Phụ Thần suy đoán đã lâu, nhưng nghe được tin thực tim ông vẫn đập thình thình liên hồi, nói ra giọng cũng hơi run: “Nói vậy, Hoàng thượng cử ngài tới đây là sợ tôi cũng làm phản theo?”
“Hoàng thượng không sợ anh phản, trước khi tôi lên đường, Hoàng thượng vuốt cái thương bạc da báo nói: “Khanh quyết không được nghi ngờ Vương Phụ Thần mà phải cùng ông ta đối phó trước khó khăn!” Mạc Lạc nghiêng người, “Nhưng bộ hạ của anh, anh có dám bảo đảm là, không làm phản?” Vương Phụ Thần suy nghĩ rồi mím môi nói: “Mã Nhất Côn, Vương Bình Phiên và Cung Vinh Ngộ tôi sai bảo được, Trương Kiến Huân trước nay vẫn không hòa với tôi, thì khó nói đấy. Ông ta vốn là bộ hạ Lý Tự Thành, bất đắc dĩ mới đầu hàng...” Mạc Lạc ngẫm nghĩ một lát, rồi nói: “Mã Nhất Côn cũng chưa chắc tin cậy được, ông ta chẳng phải cũng là người của Trương Hiến Trung sao? Bây giờ bọn họ còn chưa biết Ngô Tam Quế động tĩnh thế nào, một khi có tin truyền tới, những người này cũng khó nói lắm!”
“Theo ngài thì nên làm thế nào?” Vương Phụ Thần đặt tay lên đầu gối, nghiêng người hỏi.
Mạc Lạc thở ra nói: “E rằng chỗ anh nghi ngờ cũng là ở đây. Những người này tụ tập ở Tây An, một khi có biến thì anh hoặc là cũng làm phản theo, hoặc là nhà tan người mất! Cho nên bước thứ nhất tôi nghĩ là nên điều hai bộ Trương Kiến Huân và Mã Nhất Côn đi khỏi Tây An, một bộ lên phía bắc, một bộ về phía tây, làm cho chúng khó bề câu kết với Ngô Tam Quế, một mình đơn độc không làm phản được!”
“Đó thì khó gì, được thôi!” Vương Phụ Thần nói, “Còn bước thứ hai?”
“Đổi người cầm quân!”
Vương Phụ Thần im lặng, người điều đi vẫn dưới quyền điều khiển của ông, nếu ổn thỏa thì được rồi hà tất phải đổi người? Mạc Lạc như đoán đúng ý ông liền cười nói: “Đương nhiên là không động đến chủ tướng, nhưng thiên tổng du kích đều phải đổi người của anh!” Vương Phụ Thần bỗng ngẩng đầu lên kinh ngạc hỏi: “Người của tôi, tôi lấy đâu ra ngần ấy người?”
“Lần này tôi đến đây mang theo hai trăm tên gia nô thân tín, sẽ chuyển hết qua cho anh.” Mạc Lạc vừa nói vừa rút trong chiếc ủng ra một tờ giấy. “Anh đã thuộc quân cờ đỏ chính Hán quân, có mấy tên nô tài không tốt hơn sao? Nhận lấy tờ văn khế chuyển tặng này thì anh trở thành chủ cờ của bọn chúng, nắm quyền hành sinh sát đối với chúng, thì việc điều hành quân không dễ hơn sao? Có số người này làm quan phía dưới, chức Đề đốc của anh chẳng vững hơn bây giờ sao?”
“Mạc đại nhân!” Vương Phụ Thần tay run run nhận tờ giấy, cảm động không biết nói gì hơn, cái quà tặng quý giá này vạn lượng vàng ròng cũng không mua nổi, bởi vì những người thuộc quân cờ thân tín này, cho dù sau này vào quan ra tướng, có xưng vương phong hầu thì cũng vẫn là nô tài của ông, Vương Phụ Thần! Trong khoảnh khắc ông cảm thấy những bất hòa với Mạc Lạc trước kia, toàn là do tiểu nhân không đánh giá được lòng quân tử, chả trách bá tánh Tây An gọi ông ta là “Mạc thanh thiên” (ông Mạc trời xanh)...
Chiều ngày hôm sau, Vương Phụ Thần tụ tập chúng tướng tại phủ Đề đốc, tuyên đọc tướng lệnh của kinh lược đại thần, Khâm sai cánh tây: lệnh cho Trương Kiến Huân dẫn bộ tướng dời về tấn đóng Bảo Kê, Mã Nhất Côn dẫn bộ sậu đi phòng vệ Dương Gia Lĩnh, đề phòng Thổ Tạ Đồ, Trát Tát Khắc và Xa Thần đánh lấn về Thiểm Tây.
“Cứ như vậy,” Vương Phụ Thần sắp đặt xong, thở ra một hơi dài khoan khoái, cười nói: “Bộ sậu anh Bình Phiên vẫn ở chỗ cũ chuẩn bị điều về Lũng Nam, chỉ để lại ở đây bộ phận trung quân của Cung Vinh Ngộ để trấn giữ Tây An, anh em chúng ta tạm thời chia tay, đợi phía bắc yên ổn thì sẽ điều động trở về – bày tiệc rượu!” Vương Phụ Thần đang nói, thấy Trương Kiến Huân mặt mày tái xanh ngồi bất động, liền hỏi: “Anh Trương, anh làm sao thế?”
“Tôi...” Trương Kiến Huân vội cười nói: “Không có gì, sắp đi xa, không khỏi có chút lưu luyến đối với chốn Trường An phồn hoa.” Nói xong đứng lên gọi: “Ông Mã, ông Vương, đừng có mặt mày ủ rũ thế, một năm nửa năm rồi cũng gặp mặt thôi – tới đây, ngồi!” Nhân lúc mọi người không để ý. Trương Kiến Huân vẫy tay gọi một tên hiệu úy lại, nói nhỏ vào tai mấy câu, rồi im lặng ngồi xuống, cùng với Mã Nhất Côn, Vương Bình Phiên chơi trò đoán số ngón tay.
Qua ba tuần rượu, cốc chén đã bừa bộn. Bỗng nhiên Cung Vinh Ngộ giữ cửa thành mặc võ phục đeo kiếm từ bên ngoài vội vàng bước vào, nói nhỏ vào tai Vương Phụ Thần mấy câu rồi lui lại phía sau. Tướng tá trong sảnh không biết có chuyện gì đều ngơ ngác nhìn nhau.
“Có chuyện như vậy sao?” Vương Phụ Thần mắt lóe sáng, nhìn chúng tướng khắp lượt, nghiêm giọng hỏi: “Quân của ai vào thành?”
Không có ai trả lời, lúc này trong sảnh lặng như tờ, tưởng một cây kim rơi cũng nghe thấy tiếng động. Vì yên lặng nên tiếng huyên náo bên ngoài dinh đã văng vẳng dội vào, Vương Phụ Thần nóng ruột, vội lên trước bàn rút ra một lệnh tiễn, ra lệnh: “Vinh Ngộ, anh mang lệnh tiễn này ra ngoài, truyền tướng lệnh của ta, bảo binh lính tất cả trở về doanh trại, đợi nghe tướng lệnh!”
“Không ích gì đâu!” Trương Kiến Huân nửa người dựa vào ghế, ngồi xếp bằng nói: “Đây là binh biến do tôi phát động!”
“Binh biến?” Vương Phụ Thần giật mình, mù mờ nhìn chư tướng trong sảnh, hình như người nào cũng trở nên xa lạ, đầu và tay ông run lên bần bật, ngơ ngác hỏi, “Vì sao?”
Trương Kiến Huân thả chân xuống, bưng chén rượu lắc lắc rồi ngửa cổ ực một cái uống cạn, cười nói: “Quân môn, vì còn muốn sống! Ba vạn thiết kỵ của tôi đã vào thành cả rồi. Giờ này e rằng tên khâm sai gì đó đã đầu rơi xuống đất rồi!”
“Hả?” Vương Phụ Thần hai chân mềm nhũn, ngã ngồi trên ghế, chiếc thương bạc da báo dựa trên thành ghế bị đụng ngã ra một bên. Ông vừa nôn nóng vừa kinh ngạc vừa giận vừa sợ, hỏi không ra tiếng: “Ai bảo anh làm?”
“Tôi!”
Uông Sĩ Vinh tay cầm cây sáo ngọc, lưng đeo bảo kiếm nhảy vào đứng giữa sảnh, ngẩng đầu nói: “Ta phụng mệnh Bình Tây vương, đã đến đây mấy ngày, để cho quân tướng khỏi bị đời sau chửi mắng, khôi phục áo mão nhà Hán, xướng quân nghĩa, hưng binh trời, cùng đánh dẹp mọi rợ Khang Hy!”
“Bắt tên đó cho ta!” Vương Phụ Thần hét to một tiếng.
“Dạ!” Các quân hiệu trung quân đồng thanh dạ ran.
“Ai dám?” Trương Kiến Huân đập bàn một tiếng đứng lên, “Quân của ta đã vào phố rồi!” Lúc đó đã nghe tiếng la như nước triều ở trước cửa dinh, hàng ngàn lên lính đã vượt qua quân giữ thành xông vào. Trương Kiến Huân từ từ đứng lên, đi ra phía cửa phất tay, lập tức tiếng la im bặt. Lúc này hắn mới quay lại cười nói: “Việc này chưa bẩm báo trước cho quân môn, xin tha cho người em tội vô lễ. Đề đốc yên tâm, tôi không có ý muốn làm hại ai, chỉ mời đề đốc dương cao cờ nghĩa, đưa anh em chúng ta cùng dựng nghiệp lớn!”
Vương Phụ Thần muốn khóc nhưng không có nước mắt, không ngờ sự việc đi đến kết quả như thế này, ông liếc nhìn xung quanh, Mã Nhất Côn chỉ lo ăn to uống lớn, coi như không có ai bên cạnh; Vương Bình Phiên mặt mày rạng rỡ liên tiếp xoa hai tay vào nhau. Biết không còn hy vọng gì vào số người này, ông thở dài, nhặt cây thương dưới đất lên, nhằm cổ họng mình đâm mạnh một nhát...
“Khoan!” Uông Sĩ Vinh biết rõ người này mà chết thì quân đội Hán trung như rắn mất đầu lập tức nổi loạn tranh giành nhau, hắn nhảy lên một bước giữ chặt cánh tay Vương Phụ Thần, “Tướng quân không nên như vậy, chúng ta bàn việc lâu dài!” Cung Vinh Ngộ cũng bước tới một bước, giật lấy cái thương trong tay Vương Phụ Thần nói: “Quân môn không nên phí hoài mạng sống!” Mã Nhất Côn vất xuống đất cái xương đang cầm trong tay, kéo chiếc khăn bàn lau mồm nói: “Ông Trương, mẹ cha nó chẳng biết nghĩa khí gì cả! Việc tốt như thế này sao không báo trước thằng Mã này một tiếng? Để ông cũng làm theo!” Vương Bình Phiên cũng cười nói: “Anh Uông Sĩ Vinh này ranh mãnh thật, giữa thanh thiên bạch nhật cho nổ pháo ngon lành, làm thật tuyệt!”
“Các ông làm đi, các ông làm đi!” Vương Phụ Thần che mặt, nước mắt chảy ròng theo kẽ ngón tay, “Tôi xin đi nhận tội với triều đình!”
“Ông không nhận tội được!” Uông Sĩ Vinh cười, thấy bên ngoài bê vào một cái mâm to bèn hỏi: “Đề đốc đại nhân, ngài hãy xem, đây là cái gì?” Nói xong, bước tới nhẹ nhàng giở tấm vải đỏ phủ phía trên.
Đầu người. Một cái đầu người máu me đầm đìa, bím tóc khoanh tròn trên vũng máu quanh cổ. Vương Phụ Thần trừng mắt nhìn như trong cơn ác mộng. Không thể sai, đúng là Khâm sai đại thần Mạc Lạc, người mới vừa tâm sự bàn việc với mình chiều hôm trước. Môi ông hơi run, sắc mặt trắng bệch, méo mó, ông ngã quỵ xuống ghế, mắt đờ ra, lắp bắp: “Là ông... là ông...”
“Đúng, là ông ta.” Uông Sĩ Vinh phủ lại tấm vải đỏ, chau mày bước đi nói chậm rãi, “Người này trước nay ham danh háo thắng, vốn có tiếng là quan thanh liêm, cho nên bá tánh Tây An rất kính nể hắn. Nhưng danh tiếng tốt của hắn từ đâu mà có? Năm Khang Hy thứ sáu, hắn ăn bớt lương hướng quân tướng hai mươi vạn, đem đi cứu tế dân đói, bá tánh tặng cho hắn mười vạn chiếc ô; Còn ba vạn binh sĩ, quân tướng mùa đông không có áo rét, lạnh cóng phải trốn trong lều run cầm cập; Hắn bắt tay câu kết với tướng Tây An Ngõa Nhĩ Cách định điều toàn bộ quân lính ra Y Khắc Chiếu Minh phía bắc Trường Thành, may mà tướng quân qua con đường của đại học sĩ Minh Châu, âm mưu của hắn mới bị ngăn chặn. Tôi nói những việc này có đúng không? Lần này hắn đến còn muốn chia ra điều động các đội quân để cho tướng quân hai tay không, hắn còn muốn đổi đi hết các thiên tổng du kích thuộc hạ của tướng quân, trở thành tướng không quân – ngài đừng đứng đực ra thế, hắn chuyển nhượng cho tướng quân những nô tài thân tín, – đó chỉ là một tờ giấy suông! Ngài có nghe nói ở đâu người Hán được làm chủ cờ? Những lời hoang đường như vậy mà ngài cứ tin, chẳng phải là sự hoang đường ghê gớm sao?”
Trước những lời nói có lý, có bằng chứng đó, Vương Phụ Thần từ từ ngước đôi mắt lệ nhòa.
“Ôi, cũng hay thật!” Uông Sĩ Vinh, than rằng, “Trong thiên hạ địch ta thù bạn đều có duyên số cả! Khang Hy ban thưởng, chỉ hy vọng không tốn một đồng mà mua được lòng trung thành của ngài; Ngài vốn là một chiến tướng tâm phúc của Bình Tây vương, chỉ vì một chút việc nhỏ nhặt đã cách xa Tần Việt; Mạc Lạc vốn là trung thần của Mãn Thanh, ngày trước vốn có thù hằn với ngài, ngài lại khóc cho ông ta. Nếu lần trước tôi không trốn thoát thì khó tránh làm quỷ dưới lưỡi dao của ngài; còn bây giờ chúng ta tụ hội ở tại nơi Tổ Long Cao Tổ hưng nghiệp. Ngài, tôi, các vị anh hùng và Bình Tây vương cùng mưu nghiệp lớn, chẳng lẽ đó không phải là ý trời? Trái lại ý trời là không tốt!”
“Ý trời... trái ý trời không tốt?” Vương Phụ Thần lẩm bẩm, trong lòng ngẫm nghĩ từng việc, bỗng cười điên dại như phát khùng, “Tốt! Thì chiều theo ý trời – ôi, không! Các ông cứ giết ta đi, ta không thể phụ lòng Vạn tuế!”
Các tướng ngơ ngác nhìn nhau, Vương Bình Phiên nhìn quanh gọi người đi truyền cho thầy thuốc đến xem bệnh, Uông Sĩ Vinh ngăn lại, nói: “Ông bị bệnh “ông cụ lớn”, “ông cụ lớn” Vương Cát Trinh ở Bắc Kinh!”
Vương Phụ Thần giương mắt há hốc mồm nhìn Uông Sĩ Vinh, đứng đực ra nhìn, ông không biết hắn là thần tiên hay là yêu quỷ, làm sao mà việc gì hắn cũng biết rõ như trong lòng bàn tay?
“Lúc này nôn nóng cũng vô ích.” Uông Sĩ Vinh nói. “Tôi nghĩ triều đình chưa chắc gây khó dễ cho anh Cát Trinh, Ngô Ứng Hùng chẳng cũng ở Bắc Kinh sao? Cứ xem đi, hắn không dám làm mếch lòng ngài đâu!”
“Tại sao?” Vương Phụ Thần buột mồm nói không suy nghĩ.
Uông Sĩ Vinh câm miệng không đáp lời. Hắn lại lo Khang Hy thật tình không giết Cát Trinh, làm cho cái của quý hay thay lòng đổi dạ này càng như đòn xóc nhọn hai đầu.
Trương Kiến Huân ra lệnh đưa Vương Phụ Thân ra nhà sau, nói với Uông Sĩ Vinh: “Phát đại bác xung thiên đã nổ, anh đừng có xuôi tay bỏ mặc!”
“Đương nhiên!” Uông Sĩ Vinh cười nói: “Tôi phải giúp anh sắp xếp mọi thứ rõ ràng, có điều còn phải trở về phục mệnh.” Hắn đã trù tính trong bụng việc của Phó Hồng Liệt rồi.

