Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 43

43

Mây đông che trời, thầy trò gặp mặt

Tuyết mỏng phủ đất, hiệp sĩ bỏ mình

Một đoàn sứ giả cử đi Vân Nam có đi mà không có về, làm cho Khang Hy di dời đến Thông Châu ngày càng lo lắng không yên. Yên tĩnh có lúc là sự sợ hãi không lên tiếng, sức ép nặng nề tăng dần một cách vô hình trong sự yên tĩnh đó, làm nhà vua muốn thở không ra hơi. Thái hoàng Thái hậu cũng sợ sức ép quá nặng làm Khang Hy không chịu nổi, bèn bảo Tô Ma Lạt Cô đến Thông Châu. Nàng từ nhỏ đã săn sóc Khang Hy, hiểu rõ tư cách tính tình của vua, nói chuyện phiếm, nói về thiền phật cũng có thể giải bớt chút sầu muộn trong lòng.

Hành cung đặt trong một ngôi miếu Quan đế hoang phế ở phía bắc Thông Châu, Khang Hy thấy nàng Tô đến, trong lòng vui lên, liền sai người thu dọn một phòng sạch sẽ phía sau điện để cho nàng ở đó yên tĩnh, hàng ngày làm xong việc đều đến cùng nàng chuyện trò.

“Huệ Chân,” Ngày hôm đó Khang Hy bước vào thấy nàng Tô tĩnh tọa xong, bèn ngồi xuống mép giường ấm, lấy que cời khơi bếp lò đã rất đượm, cười hỏi, “ngươi tuy là người tu hành nhưng Trẫm vẫn xem như người chị cả, bây giờ Trẫm rất không yên tâm, theo chị thì Tây Nam đang mắc chứng gì vậy?”

Nàng Tô hình như không chịu nổi cái rét, từ năm Khang Hy thứ tám, nàng đã không ăn thịt cá, ngay cả dầu cũng không dùng, thân thể rất yếu. Nàng giơ cánh tay gầy khẳng khiu ra hơ lửa, nói không ăn nhập gì với câu hỏi: “Thời tiết thay đổi, hôm nay sáng sớm ra ngoài đã thấy có tuyết nhỏ. Bước vào tháng chạp, Vận Hà bên ngoài đóng băng như mặt gương. Tiểu Mao bao lâu nay không nghe tăm hơi gì, tôi nghĩ nơi đây ở lâu cũng không tốt, Vạn tuế nên về cung làm việc tốt hơn.”

Thực ra Khang Hy cũng đang nghĩ đến chuyện này. Nơi đây tuy có bí mật hơn một chút, nhưng không tiện triệu gặp đại thần. Tây nam nếu không việc gì thì sớm đã có tin truyền về. Tây nam có biến động lớn thì cũng không cần gì giữ bí mật. Nhà vua hiểu ngay ý nghĩa hai mặt trong câu nói của nàng Tô, liền cười nói: “Đúng, Trẫm cũng nghĩ phải sớm trở về rồi. Cũng lạ thật, bọn Dương Khởi Long gọi Tiểu Mao đi có việc gì, sao lâu thế mà không về? Chúng đã thấy được kẽ hở nào đó chăng?”

“Việc gì cũng nên nghĩ tới.” Đầu tóc bạc trắng của nàng Tô hơi lay động, “Đây là thời gian khác thường.” Khang Hy nghe xúc động nói: “Quả là như vậy, mấy ngày nay tâm thần Trẫm không yên, chỗ nào cũng cảm thấy có điểm không hay. Sau Tôn Diên Linh, Vương Phụ Thần bị uy hiếp cũng làm phản. Phạm Thừa Mô mỗi ngày một bức thư gấp chạy sáu trăm dặm tâu báo tình hình Phúc Kiến, nhưng không nói được vì sao như vậy. Lý Quang Địa một đi không chút âm hao, Trần Mộng Lôi đi làm quan nhà họ Cảnh, là lành hay dữ? Vương Phụ Thần làm phản, con hắn Vương Cát Trinh nên đối xử ra sao? Ngô Tam Quế nếu làm phản thì phải thế nào với Ngô Ứng Hùng? Khó thật!” Khang Hy thở ra một hơi dài. Nỗi lo lắng lớn hơn trong lòng nhà vua còn chưa nói ra: Từ tháng mười một đến giờ, quan lại ở kinh rùng rùng xin nghỉ phép, người “có đại tang” ngày càng nhiều, chắc chẳng phải là điềm lành! Nàng Tô thấy vua lo buồn như vậy liền an ủi: “Cũng không nên nghi ngờ quá lắm. Tôi tuy rất lâu không nắm chắc chuyện thế tục nhưng bình tĩnh mà nhìn, Lý Quang Địa và Trần Mộng Lôi vẫn như còn có lương tâm.”

“Văn nhân không đức hạnh.” Khang Hy dẫn một câu thành ngữ, cười ha hả, “Bọn họ đều là người Hán, nói theo kiểu người Hán, là “không cùng tộc họ với ta, lòng người phải khác”! Đại sư, không lúc nào dám quên câu đó, thiên hạ này của Trẫm quả thật rất khó ngồi.”

Câu này tuy nói người Hán thông thường, nhưng nàng Tô và Ngũ Thứ Hữu trước kia có một đoạn nhân duyên, nên nàng nghe có chút đau lòng, liền đứng lên cười nói: “Bên ngoài cảnh tuyết nhất định đẹp, đi ra dạo một lát được chứ? Tôi chắc Hà Quế Trụ cũng tới lúc đưa việc đến rồi đấy. Ngày mai còn phải khởi giá hồi cung, trở lại nơi này chắc không tiện nữa rồi.”

“Cũng được!” Khang Hy đứng lên, cũng không gọi người, tự mình khoác lên chiếc áo da khỉ sợi vàng rồi cùng nàng Tô đi ra khỏi điện. Ngụy Đông Đình đứng dưới hiên đưa mắt ra hiệu cho Lang Thẩm và Mục Tử Húc, ba người bèn đi theo sau cách hai người một quãng xa xa.

Trời tuy rất u ám nhưng tuyết xuống rất ít, chỉ lẻ tẻ, mặt đất chỉ có một lớp tuyết trắng mỏng. Khang Hy đưa tay che trán nhìn về phía bờ sông xa xa, thấy một đám người chen lấn nhau hình như đang xem chuyện gì đó, liền cười chỉ tay nói: “Đại sư hãy tạm thời làm người tục một lát, đi tới xem chuyện gì có được không?” Nàng Tô nghe nói cũng hay liền cười: “Làm hòa thượng lòng không tịnh không bằng người tục, làm người tục mà lòng tịnh thì hơn hòa thượng. Vạn tuế đã nói thì xin tuân thánh mệnh!”

Hai người đi ngược chiều gió về phía nam chân bước trên đất đông lạnh, khoảng đâu hơn nửa dặm đường đã thấy Hà Quế Trụ dẫn đầu mười mấy người phóng ngựa phi nhanh tới. Hà Quế Trụ thấy Khang Hy lập tức lăn mình xuống ngựa, quỳ xuống đất, miệng thở ra khói trắng nói: “Nô tài Hà Quế Trụ đưa sớ tâu tới cho Đức Vạn tuế!” Khang Hy thấy ông mày râu đều điểm sương trắng, liền cười nói với nàng Tô: “Chúng ta trong miếu sưởi lửa nói chuyện lại mặc ấm, không ngờ bọn họ lạnh cóng như thế này.” Rồi nói: “Đứng lên đi, bảo bọn họ đưa sớ vào trước, ngươi cùng chúng ta đi dạo một chút đi.” Hà Quế Trụ bò dậy, xoa tay giậm chân nói: “Quả thật là lạnh! Hôm nay đã là mồng mười tháng Chạp, sắp tới Tết rồi!”

Ba người đi tới chỗ đám người mới hay là hai nghệ nhân hát rong đang biểu diễn, số người xem có đến hơn trăm có người rụt cổ lại, có người cho tay vào áo, giậm chân cho ấm. Khang Hy cảm thấy mất hứng bèn nói: “Chi bằng đến bờ sông xem sao!”

Lời vừa dứt bỗng nghe bên trong tiếng nhạc nổi lên một gọng nữ cất cao.

“Hát cái gì vậy?” Hà Quế Trụ chỉ nghe í a không nghe rõ lời, ngạc nhiên nói, rồi lách mình chen vào trong. Ông mặc trang phục nhà quan, mọi người liền tránh vào một con hẻm. Khang Hy nghe tiếng đàn bất giác gật đầu khen hay: “Không ngờ nơi đây lại có người cao thủ!” Nàng Tô thì lặng thinh không nói gì.

Hà Quế Trụ chen vào hàng đầu, thấy một cô gái ăn mặc mỏng manh, tay gõ phách, thẳng người đứng hát, lại nhìn người cầm đàn chơi nhạc, ông giật mình cơ hồ muốn ngất xỉu: rất giống cậu hai Ngũ! Ông sợ mình hoa mắt, liền dụi mắt rồi nhìn, người ấy cúi đầu tay vuốt dây đàn, mái tóc nửa bạc hơi gật gù, nhìn mãi không rõ mặt mũi. Ông ta muốn kêu lên, nhưng ngập ngừng một chặp chưa mở miệng thì người nữ lại hát tiếp:

Róc rách sông hồ chảy qua đây, khổ lòng sầu muộn bị vò dày

Giày thêu đạp tuyết rách tan nát, gió mạnh thổi tràn mây tóc bay.

Dọc đường hát xướng người cho ít, ngẩng mặt cầu xin nhịn nhục đầy.

Muốn chóng trở về về chẳng được, chiều tà nhìn lại lệ tràn mi.

Tiếng hát tới đây ngừng lại. Vì lời ca buồn khổ, giọng ca thê thảm, người nghe xung quanh đều xuýt xoa. Hà Quế Trụ cũng cảm thấy cay mũi, cúi đầu gạt nước mắt, nhìn lại một lần nữa, nhìn thẳng Ngũ Thứ Hữu bốn mắt nhìn nhau, nhất định không sai chút nào, người gảy đàn đúng là thầy vua Ngũ Thứ Hữu – Hà Quế Trụ lòng bỗng nóng lên, khóc thất thanh kêu lên: “Cậu hai, cậu hai Ngũ của tôi!”

Bất chấp mọi thứ, hai tay đẩy đám người đang ngơ ngác, ông chồm tới, ngã xuống quỳ trước mấy bước, hai tay ôm chặt Ngũ Thứ Hữu đang hai tay cầm đàn ngồi lên cái đôn đá lạnh ngắt. Ông kêu khóc gào to: “Cậu hai, ngài... Ngài lưu lạc tới bước này sao... Quế Trụ có tội, có tội!” Đám người hỗn loạn, bên ngoài tiếng ồn ào nổi lên. Số là nàng Tô đã đứt hơi, mặt trắng như sáp, Khang Hy đang đỡ nàng. … Trong khoảnh khắc, bên trong bên ngoài đều hỗn loạn, ngay cả Vân Nương đang hát cũng đứng ngơ ngác.

Như bị hàng trăm mũi tên cắm vào tim, bao nhiêu tình cảm dồn dập, Khang Hy giao nàng Tô đã hôn mê cho Mục Tử Húc chăm sóc, cùng Ngụy Đông Đình chen vào đám đông. Lang Thẩm bèn dùng roi quất vào đám người đang đứng nhìn: “Đi, đi! Có gì mà xem? Coi chừng roi đấy!”

“Ngũ tiên sinh,” Khang Hy thấy Ngũ Thứ Hữu sa sút đến mức này, trong lòng vừa xót vừa nóng, bước lên trước nói nhỏ: “Quả Long Nhi không tốt, hại người tới nước này... người quá khổ...” Vừa nói, nước mắt trào ra.

Ngũ Thứ Hữu như người trong mộng ban đầu là hoảng hốt, bỗng nhìn thấy Khang Hy, ông kinh ngạc đứng lên nói: “Là... Long Nhi! Sao người lại ở đây? Bên ngoài chư hầu làm phản à? Trong cung có gian tà bức hại sao?”

“Không.” Khang Hy cảm động phát run lên. Người thầy thân thiết như anh cả, vừa mới gặp mặt đã dẫn lời Tư Mã Nhương Thư trong Xuân Thu, trách cứ mình không nên khinh suất rời cung. Nhưng nỗi lòng không thể một hai câu mà nói rõ, nên nhà vua gạt lệ cười nói: “Con nghe lời thầy, một chốc nữa là trở về. Ở đây lạnh quá. Chúng ta vào cái miếu bên kia nói chuyện nhé.”

Vân Nương vốn muốn đi đi cho xong chuyện, nhưng thấy Tô Ma Lạt Cô ngất xỉu, thấy Mục Tử Húc nửa đỡ nửa dìu rất khó coi, đành miễn cưỡng đến ra mắt chào Khang Hy, tự mình cõng Tô Ma Lạt Cô đi vào miếu. Khang Hy nhìn Vân Nương, nhớ lại sự việc ở đồn Sa Hà năm đó, lại cảm thấy thương xót, cố lấy lại bình tĩnh nói: “Hôm nay gặp lại ở đây, việc đáng tiếc xưa có thể hiểu được. Khó có dịp may, có cơ hội tốt đẹp thế này!” Nói xong lệnh cho mọi người trở về miếu.

Rất lâu sau nàng Tô mới tỉnh lại, nghe Khang Hy sai người tới quán rượu Thông Châu tìm thức ăn, bèn vịn vào Vân Nương bước ra.

Ba năm ròng không gặp Ngũ Thứ Hữu, bây giờ được ngồi đối mặt, nàng Tô nhìn ông chăm chú. Thấy Ngũ Thứ Hữu bên trong mặc chiếc áo vải màu xanh da trời đã vừa bẩn vừa rách, chân mang đôi giày vải hai sống chính tay mình làm, đã rách ló ra mũi tất trắng, lang thang trôi đạt đến bây giờ vẫn không mất đi phong cách nho nhã ấm áp ngày nào. Anh khoác chiếc áo da khỉ lông vàng của Khang Hy, vẫn thong dong nói cười. Nàng Tô chỉ hơi gật đầu, đưa mắt làm lễ, rút tay ra khỏi tay Vân Nương, ngồi xuống tấm đệm hương bồ trước bàn thờ thần, nhắm mắt ngồi tĩnh tọa. Hà Quế Trụ tất bật chuyển xoay, thấy Khang Hy và Ngũ Thứ Hữu đang nói chuyện nghiêm túc, vội bước ra, đứng bên cạnh Ngụy Đông Đình đợi người đi kiếm rượu thịt trở về.

“Tiên sinh,” Khang Hy hai tay chống gối, nghiêng người tới trước nói, “vừa rồi con đã nói cho thầy nghe đại khái tình hình, bước sau nên làm thế nào?”

“Thánh thượng!” Ngũ Thứ Hữu kính cẩn đáp, “Đã định triệt phiên, thì phải chuẩn bị đánh, chọn tướng là việc khẩn cấp trước tiên, quyết không được chậm trễ.”

Khang Hy gật đầu nhè nhẹ, lại nghe Ngũ Thứ Hữu nói: “Thần không rành việc quân sự, Châu Bồi Công đã nói quyết chiến tại Hồ Nam, Chúa thượng nên điều đại quân tập kết tại Kinh Tương, Hán Dương, Nam Kinh bố phòng, các đảng gây loạn ở Bắc Kinh, Trực Lệ phải nhanh chóng tiêu diệt làm cho chỗ đứng chân của ta vững chắc mới phải.” “Tiên sinh nói phải.” Khang Hy nói, “Trẫm định bổ nhiệm An thân vương Nhạc Lạc, Giản thân vương Lại Bố nắm tổng cục trung lộ, Đồ Hải và Châu Bồi Công đối phó mặt tây Vương Phụ Thần, khang thân vương Kiệt Thư đối phó mặt đông Phúc Kiến, Ngô Tam Quế nếu làm phản thì sẽ tiêu diệt quân chủ lực của hắn ở Hồ Nam!”

“Tốt!” Ngũ Thứ Hữu nghe, suy nghĩ, bất giác buột mồm khẽ, “Hoàng thượng nghĩ thật kín kẽ! Mấy năm nay thần cũng từng trù tính thay cho Hoàng thượng, tất cả có tám chữ, không biết…”

“Tám chữ gì?” Khang Hy mắt sáng lên, hỏi.

“Trước sửa đông nam, sau lo tây bắc!”

“Ừm!” Khang Hy đứng lên, chắp tay sau đít suy nghĩ rất lâu sau, bỗng cười to: “Tiên sinh vẫn là người thầy khai sáng đầu tiên cho Trẫm, người hiểu Trẫm, không ai bằng tiên sinh!”

“Thần cho rằng tám chữ này có thể đặt nền móng cơ nghiệp muôn đời của Đại Thanh ta!” Ngũ Thứ Hữu đứng lên cúi người nói, “Bệ hạ xứng là thánh quân xưa nay chưa từng có, dẫu Đường Tống, Hán Võ cũng không bằng!”

Khang Hy cười, đang định nói tiếp thì Hà Quế Trụ xông thẳng vào cười nói, “Tiệc rượu đã mang tới, xin ông chủ cho ý kiến!” Khang Hy cười nói: “Sau này còn có thời gian, thủng thẳng hãy nói... Xem những người này, trừ Lý cô nương ra, đều là khách cũ của quán Duyệt Bằng năm nào, chỉ thiếu có Minh Châu.”

Hà Quế Trụ vội nói: “Quả vậy! Duyên số nhân quả thật là vừa khéo, khí số tạo hóa đã định không sai chút nào, nô tài vẫn làm nghề nghiệp cũ, xin chúc rượu cho Hoàng thượng và chư vị!” Nói xong liền bày dọn tiệc ra. Khang Hy tỏ ra rất phấn khởi, vừa cười vừa nhăn mặt nói: “Tử Cấm thành tuy tốt, nhưng nhiều quy tắc ràng buộc quá, làm cái lệnh rượu cũng vẫn là Trẫm thắng, chẳng hay ho gì, đáng tiếc ở đây không có thẻ rượu.” Ngũ Thứ Hữu nghe rồi cười nói, “Cũng không nhất thiết phải có thẻ rượu, tôi và Vân Nương từ Thiên Tân hát rong tới đây, hãy để chúng tôi hành nghề vậy.”

Ngụy Đông Đình bây giờ không còn lo lắng gì, đứng bên hòa theo: “Thật không ngờ Vân Nương hát những bài hay như vậy. Vừa rồi chúng tôi đều rơi nước mắt!” Khang Hy cười: “Xin mời Vân Nương hát lại một hai bài giúp vui được chứ!” Ngũ Thứ Hữu bèn lấy đàn, rồi cười nói: “Chúng ta khổ đến cùng rồi, hát đi!”

“Tiên sinh!” Vân Nương nhìn Tô Ma Lạt Cô dáng người khô đét, ngồi lần tràng hạt niệm Phật, nói không hết nỗi đắng cay chua xót trong lòng, trăm ngàn lời nói lúc này cũng trở nên vô ích, nên định cất tiếng hát lên. Một chút do dự, cô cầm que gỗ cười nói: “Chúng tôi cùng nhau trải qua ngàn dặm, suốt mấy năm liền, cũng chỉ vì ngày hôm nay! Vâng, tôi xin hát một đoạn làm bài kết thúc.” Mọi người đang vui vẻ, nghe vậy không hiểu ra sao, chỉ duy Khang Hy thấy cô dung nhan tàn tạ, giọng nói đau buồn, cảm thấy có gì không phải nhưng không biết nói sao, chỉ đành cười lắng nghe.

Ngũ Thứ Hữu cười nói: “Suốt dọc đường đều gọi là anh cả, sao bây giờ lại đổi là “tiên sinh”?” Nói xong vừa gảy đàn vừa hỏi: “Cô hát điệu gì?”

“Xin đánh bài bản Đêm thâm trầm.” Vân Nương cười nói, nâng váy lên múa xoay tròn một vòng rồi cất giọng hát:

Ngựa vàng lầu ngọc, cột rường chạm trổ, bổng lộc ngàn chung, cung cấp cho mấy nhà vui vẻ, lòng hỏi lòng: Có mấy nơi đến được với trăm họ cha con? Trống chiêng ngọc ngà, trâm anh huy hoàng, ai chứng kiến linh quang tổ tông – hỏi có phải là máu huyết hôi tanh, thần đâu dám hơi thở bình thường như vậy?

“Hay!” Khang Hy nghe tới đây, vỗ đùi khen hay, “chửi hết bọn tham quan ô lại, bọn loạn thần tặc tử trong thiên hạ!” Tiếp theo lại nghe:

...Hôm qua là “anh hai”, đêm nay ta làm cô nàng buồn khổ. Hỏi tiên sinh ngày mai làm lộ việc triều đình, trong lòng có chút buồn đau? – Không làm quan tốt, không làm quan tốt!

Chàng không thấy, cha mẹ mỗi hoàng hôn tựa cửa ngóng về tây, vợ yêu sầu khổ mái tóc điểm sương! Cũng chẳng trách Hứa Do rửa tai, cúc ngũ liễu nằm xuống nhìn mây trắng lênh đênh!

Hát tới đây bỗng nghẹn ngào nín lặng, chỉ nghe tiếng gió xạc xào bên ngoài miếu Quan Đế.

“Ai viết đó?” Khang Hy cười hỏi Ngũ Thứ Hữu, “Chưa từng nghe lời ca hay như vậy, bỏ đi đoạn “không làm quan” thì có thể biểu diễn ngay ở triều đình cho trăm quan đều nghe.”

Ngũ Thứ Hữu cười nói: “Đây nguyên là Hồ Cung Sơn trước ở viện Thái y không biết xem ở đâu truyền lại cho cô.”

Khang Hy nghe gật gật đầu nói: “Đáng tiếc một người tài Hồ Cung Sơn, khúc ca này viết đã tốt, được giọng hát Vân Nương càng thêm xúc động như vậy.”

Nàng Tô mở mắt nhìn Vân Nương, nàng không hiểu vì sao cô gái này đau khổ như vậy?

“Xin đàn bài Quảng Lăng tán anh mới làm.” Vân Nương nghỉ một lát rồi nói với Ngũ Thứ Hữu. Quảng Lăng tán nghe nói là do Kê Khang đời Tấn làm, thất truyền đã lâu, Ngũ Thứ Hữu lại có một loạt bài Quảng Lăng tán mới làm! Mọi người đều lấy làm lạ. Ngũ Thứ Hữu đã cúi đầu, rất lâu mới gảy lên một tiếng, âm thanh trong lạnh run rẩy, mọi người trong miếu lòng nặng trĩu. Khang Hy bất giác than thầm: “Âm nhạc là tiếng lòng, Ngũ tiên sinh tấm lòng buồn lạnh như vậy làm sao...” Vân Nương đã cất cao giọng hát chầm chậm:

Sương lạnh chín đỉnh ban đêm càng lạnh, cửa trời sông ngân mênh mang...

Ngũ Thứ Hữu vốn không biết cô định hát đoạn này, nghe ra là bài mình viết, ông xúc động, nước mắt đã lặng lẽ tuôn trào.

Canh cánh lòng đơn, ngọn đèn lấp lánh, từ rời Trường Môn trở về, khi buồn đứt từng khúc ruột! Là liễu Bá kiều, là đàn hương Hoa Hoắc, là tùng Tung Đại, là dứa dại nước Nam, là vua hoa Lạc Dương – đắng tựa hoàng liên, như hoa bách hợp...

Mới nghe tới đây, lòng Khang Hy bùi ngùi đủ thứ mùi vị, nhà vua bưng ly rượu, một hơi uống cạn, nghe cô tiếp tục hát:

Hoa mai như sao trên cành thưa, đều giao trả cho dòng nước chảy dưới cầu. Điểm trang trước lầu, rửa sạch vết phấn son. Việc gì xuân tới cứ điểm trang? Nỡ đem một cành hoa bẻ gãy, mà đào đất chôn hương?

Bỗng tiếng đàn ca im bặt, bốn bên đều thút thít. Khang Hy gượng cười nói: “Mọi người đã trải qua bao khúc thăng trầm, khó có ngày nay, những bài ca như thế này làm người ta đứt ruột. Huống chi cuộc biến động lớn còn đang phía trước, nhân dịp này Trẫm muốn lo liệu việc của Ngũ tiên sinh. Thấy cô Vân Nương này tài mạo phảng phất như dáng vẻ Uyển Nương năm đó, rất hợp đối với Ngũ tiên sinh!”

Ngụy Đông Đình không biết làm thế nào, chỉ nhìn Tô Ma Lạt Cô đang ngồi sụp ở đó, lại nhìn Vân Nương cúi đầu lặng lẽ, anh gật đầu ca ngợi: “Đúng rồi, nô tài thấy như vậy cũng tốt.”

“Ngũ tiên sinh.” Khang Hy ưỡn người tới hỏi, “Ý kiến của thầy...”

Ngũ tiên sinh đỏ mặt, đang định trả lời, ông liếc nhìn nàng Tô dáng người gầy đét, nhắm mắt ngồi thiền, tay không ngừng lần tràng hạt, lòng ông bỗng ớn lạnh rùng mình, yên lặng.

“Ngũ tiên sinh là anh tôi, tôi đã vui lòng mãn nguyện rồi.” Vân Nương mắt nhìn thấy mọi việc. Với nàng Tô, cô đã là lần thứ hai gặp mặt, thấy nàng Tô vô cùng yếu ớt xanh xao, có thể biết là nàng đã đau khổ đến mức nào. Ngũ Thứ Hữu một mực chung tình sâu sắc với nàng Tô, lòng cô càng biết rõ. Đôi mắt sáng quắc của Vân Nương liếc nhìn Ngũ Thứ Hữu cũng mang nỗi khổ sâu sắc, nhưng cười đầy ý nghĩa, nói: “Lòng thương yêu của Vạn tuế và Ngụy đại nhân tôi xin nhận. Nhưng cũng như Vạn tuế vừa nói, Ngũ tiên sinh đang là lúc phải báo đền ơn nước, tôi không muốn quấy rầy tiên sinh vì mối tình riêng nhi nữ. Cả một đời tôi có hai điều tâm nguyện, một là nguyện Hoàng thượng mau chóng dẹp trừ Ngô Tam Quế báo mối thù máu nhà tôi, hai là nguyện những người yêu nhau trong thiên hạ đều được trở thành vợ chồng gia thất. Cả hai điều này Hoàng thượng đều làm được – “người yêu tôi luôn luôn yêu người tôi yêu” anh cả tôi thường nói như vậy. Tôi tuy không có tài văn chương nhưng cũng thuận mồm nói ra mấy câu vè, nói ra đây mong Vạn tuế nghe vậy.” Nói xong, cúi đầu hơi suy nghĩ một chút, rồi bỗng ngước đầu ngâm:

Dây mây leo cành già, rễ lá dựa vào nhau

Khi cả hai không còn, chim bay tới đậu ở đâu?

Mọi người nghe đều ngơ ngác, Vân Nương nhảy một bước tới trước Ngụy Đông Đình. Ngụy Đông Đình nhanh nhẹn vội tránh ra, chỉ cảm thấy hơi tê trên vai, thì đã bị điểm huyệt, lảo đảo một bước, hoảng hốt hỏi: “Làm gì vậy?” Vân Nương đã rút mũi gươm của anh nắm trong tay!

Sự việc xảy ra nhanh như chớp, không ai biết được là cô nàng làm gì, bèn ngơ ngác đứng ngây mà nhìn. Vân Nương cười nói: “Không sao, làm sao tôi dám đâm Thánh chủ của Ngũ tiên sinh? Hôm nay là lúc tôi tự kết liễu!”

Nàng Tô nghe nói vội mở hai mắt hô to: “Em ơi, hãy khoan, chị có lời muốn nói!” – Nhưng nào có kịp, Vân Nương mỉm cười, đặt lưỡi gươm sau gáy kéo mạnh! Đáng thương... dòng máu đỏ tuôn ra bắn tung ra... Rồi cô loạng choạng, ngã vật ra trên đất, nằm bất động, hương hồn cô phiêu diêu.

“Vân Nương!” Ngũ Thứ Hữu đứt từng đoạn ruột, tan nát tim gan, kêu lên một tiếng thảm thiết, ông nhào tới chồm lên cái xác ngất xỉu.

Khang Hy hoảng kinh, vội bước đi xem. Ngụy Đông Đình, Lang Thẩm, Mục Tử Húc, Hà Quế Trụ cũng đều sửng sốt.

Ngũ Thứ Hữu bỗng tỉnh lại, nhìn Vân Nương, rồi nhìn Khang Hy, nàng Tô và Ngụy Đông Đình, hình như ông không nhận biết được một ai. Rõ ràng là mọi người đau buồn khôn xiết, Ngũ Thứ Hữu tưởng là họ cười. Ông cúi người cẩn thận hai tay ôm Vân Nương rồi từ từ đặt xuống, rồi bỗng nổi lên một trận cười điên dại: “Các anh cười cái gì? Lẽ nào Long Nhi cười được, Ngụy Đông Đình và Uyển Nương cười được, Ngũ Thứ Hữu làm thầy thì không cười được hả? Ha ha ha ha…”

“Thầy cười được, đương nhiên là cười được!” Khang Hy ngán ngẩm nói, “Học trò cười được, vì sao thầy không cười được? – Thầy mệt rồi, Đông Đình, đỡ thầy đi nghỉ đi, bảo ngự y đến xem mạch cho tiên sinh...”

“Tôi không có bệnh, tôi không cần chữa bệnh!” Ngũ Thứ Hữu nhảy hai chân lên, cố sức vùng ra, vùng vẫy mấy cái không được gì, bị Ngụy Đông Đình và Mục Tử Húc mỗi người một bên đỡ đưa vào điện bên.

Khang Hy bước vội ra cửa điện, ngơ ngác đứng nhìn ra bên ngoài, gió điên cuồng cuốn tuyết lẫn đất vàng làm thành vầng xoáy tít lên cao, rất lâu không nói một lời.

“Đức Vạn tuế, việc đã như vậy, không nên suy nghĩ nhiều, chúng ta khởi giá về cung thôi. Còn rất nhiều chuyện đang đợi chúng ta!” Lang Thẩm khẽ nói.

“Đúng!” Khang Hy vội hốt hoảng đáp, “Còn nhiều việc lắm, chúng ta đi thôi...”

“Khởi giá!” Hà Quế Trụ đứng trong miếu hô to.

Khang Hy nuốt một ngụm không biết là nước mắt hay nước bọt, chỉ cảm thấy vừa đắng vừa chát. Nhà vua hít sâu một hơi, chân bước lên chiếc xe kiệu.

Báo cáo nội dung xấu