Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 44
44
Vua Khang Hy lấy nghĩa thả Vương Cát Trinh
Ngũ Thứ Hữu ngộ thiền chùa Đại Giác
Hành động khác thường của Vương Phụ Thần, Tiểu Mao mất tích gây chấn động rất lớn đối với Khang Hy. Theo nhà vua suy nghĩ, hai việc đó, một thuộc về tình hình phía tây, một là an toàn trong cung cấm, trong ngoài hô ứng đến mức này, quả thật không thể coi thường. Nên ngay buổi tối về kinh, liền triệu gặp Hùng Tứ Lý, Sách Ngạch Đồ và Minh Châu. Vốn muốn nghe ý kiến họ về cách đối phó, không ngờ cả ba người lại quay ra hục hặc với nhau.
“Vạn tuế,” Sách Ngạch Đồ nói, “còn nhớ Khang Hy năm thứ chín, Minh Châu phụng chỉ đi Thiểm Tây trở về từng đề cao Vương Phụ Thần trung trinh như thế nào, bây giờ Vương Phụ Thần tự ý giết chết đại thần của triều đình, cử binh gây sự, việc này nên mời Minh Châu nói cho rõ ràng!”
Khang Hy nhìn Minh Châu, thấy anh ta đổ mồ hôi hột trên trán, nhưng trước nay Minh Châu gặp việc không hốt hoảng, nhanh chóng bình tĩnh trở lại, anh cười nhạt nói: “Việc này từ đầu tới đuôi Hoàng thượng đều biết rõ.”
Hùng Tứ Lý lạnh lùng nói: “Vạn tuế cũng có chỗ chưa biết.”
“Đông Viên công,” Minh Châu cười nhạt nói, “ngài là đại thần lý học nổi tiếng, nói như vậy có giống như một chính nhân quân tử không?”
Hùng Tứ Lý bị vặn đỏ cả mặt.
Minh Châu cười nói: “Năm Khang Hy thứ chín tôi đã có tội, nhưng sao mãi hôm nay mới hạch sách? Trước mặt Vạn tuế, ngài phải nói thẳng ra cho rõ ràng, vì sao giấu đầu hở đuôi như vậy? Cũng không biết các ngài bàn định với nhau như thế nào – để ức hiếp tôi, hay để dối vua? Nếu ức hiếp tôi thì tới nhà riêng của tôi, Minh Châu xin chịu; còn nếu dối vua, vậy thì phải chịu tội gì?”
“Im cả đi!” Khang Hy thấy mới mở đầu đã đi lạc đề, trong lòng nổi giận, trừng mắt nhìn ba người, nói, “Chẳng ra cái gì! Trẫm triệu các khanh tới đây để bàn việc Vương Phụ Thần và Ngô Tam Quế, không ngờ các khanh công kích lẫn nhau!” Vừa nói vừa ném hòn đá chắn giấy đánh “Rầm” một cái, Ngụy Đông Đình đứng ngoài cửa cũng phải giật mình hoảng kinh. Rất lâu, Khang Hy mới bảo: “Truyền gọi Vương Cát Trinh vào đây!”
Sách Ngạch Đồ không có vẻ gì sợ hãi, vội quỳ xuống nói: “Nô tài nói chính là việc Vương Phụ Thần, Minh Châu ở Thiểm Tây bị Vương Phụ Thần hối lộ, trở về lừa dối Thánh chủ, đến nỗi đại sứ biên cương quốc gia phải chết thảm. Ông ta hết sức đòi triệt phiên, bây giờ Triết Nhĩ Khẳng lại có đi mà không về, những tên quan loạn nước như vậy nên vất cho hổ báo ăn thịt, giết chết để tạ tội với thiên hạ!”
“Có việc đó... ngươi ăn hối lộ hả?”
“Không có!” Minh Châu òa lên một tiếng, quỳ xuống, chống đỡ, “Hôm nay Sách Ngạch Đồ muốn mượn dao giết người, chẳng qua vì chuyện triệt phiên ý kiến khác với nô tài, cầu xin Vạn tuế soi xét!”
Việc hối lộ trước mắt không có cách gì tra xét ra. Khang Hy trầm ngâm rất lâu, ngồi xuống ghế, bỗng nhiên cười nói: “Quả là không thể hiểu nổi, ba người các khanh trước hết đã vặt nhau bằng chuyện chặt đầu bổ óc! Vậy thì làm sao có thể đồng tâm hiệp lực? Triệt phiên là ý của Trẫm, can hệ gì đến Minh Châu? Cho dù Minh Châu không tán thành triệt phiên, Trẫm vẫn cứ làm như thường! Lẽ nào các khanh xem Trẫm là đầu têu gây họa?” Lời này nói quá nặng, Hùng Tứ Lý và Sách Ngạch Đồ vội quỳ xuống lạy xin tha tội. Khang Hy nói tiếp: “Trẫm sao không biết triệt phiên là khó! Trẫm đã chuẩn bị rồi, việc không thành là tự vẫn, các khanh có biết không?”
Ba vị đại thần hoảng hồn run lên, nhìn nhau thất sắc.
“Các khanh hoảng hồn rồi phải không?” Khang Hy bỗng cười, “Sống chết lẽ thường, Trẫm không sợ, chỉ sợ đại quyền trong thiên hạ không thể để rơi vào tay kẻ khác, mà phải nhất thống làm một! Trẫm thà chết vì nghiệp đế như Đường Tống, Hán Võ, không chịu sống cầu an như Đông Tấn, Nam Tống!”
“Vâng! Nô tài... hiểu rõ!” Hùng Tứ Lý dập đầu nói, “Chúng nô tài không thấy cái chung, không biết chuyện lớn, xin Hoàng thượng trị tội!” Sách Ngạch Đồ và Minh Châu cũng liên tiếp dập đầu. “Như vậy mới đúng, trước mắt kẻ thù lớn đang ở phía trước, vua tôi triều đình cùng chung mối thù, cùng tiến lên phía trước. Đại trượng phu lập đức, lập ngôn, lập công là trong lúc này! Trẫm hòa giải cho các khanh rồi nhé! Từ nay không ai được khích bác như vậy. Các khanh thấy thế nào, Hùng Tứ Lý, Sách Lão Tam?”
“Dạ!”
“Còn khanh?” Khang Hy lại hỏi Minh Châu.
“Nô tài vốn không có gì.” Minh Châu dập đầu đáp, rồi cười hì hì nói, “Nghĩ kỹ ra, bản ý hai vị cũng là vì quốc gia xã tắc, cái đầu của nô tài nếu quả đổi được thiên hạ thái bình, thì chặt đi cũng xứng đáng! – Hai vị đại nhân yên tâm, Minh Châu không biết hằn thù đâu!”
“Đó mới là phong độ của đại thần!” Nỗi bực tức trong lòng đã dịu hẳn, Khang Hy mới hỏi: “Vương Cát Trinh nên xử thế nào? Nên giết, nên thả, hay bắt giam?”
“Giết!” Minh Châu đáp không chút do dự. Vừa rồi Sách Ngạch Đồ nói anh nhận hối lộ nên anh không thể không quyết mạnh như vậy. “Vương Phụ Thần đã phụ ơn vua, các quan bên ngoài bàn tán nhiều lắm, đã làm phản thì triều đình không thể tỏ ra yếu đuối.” Sách Ngạch Đồ cũng nói: “Mưu phản là tội lớn thuộc mười điều ác hại, không thể tha! Luật lệ đã sớm có quy định: Không chia ra chủ mưu hay tòng phạm đều phải xử chết lăng trì!”
Khang Hy gật gật đầu, rồi nhìn Hùng Tứ Lý. Hùng Tứ Lý nói: “Bây giờ trong triều ngoài cõi đều chấn động, đều nói Vương Cát Trinh phải xử chém, nhưng nô tài có một ý kiến ngu ngốc, chi bằng giam lại, làm cho Vương Phụ Thần không thể dốc sức dụng binh…” Khang Hy nghe nói đứng dậy, đi qua đi lại mấy vòng, nói: “Hôm qua Trẫm đã hỏi Ngũ tiên sinh, ông cho rằng thả mới tốt!”
Hùng Tứ Lý ngạc nhiên ngước đầu, ánh mắt sáng quắc nhìn Khang Hy: “Ông Ngũ Thứ Hữu này trước nay chú trọng thuật tiến công, vì sao lại có lòng lành như vậy?” Khang Hy cười, không thể có chủ định ngay được, liền quyết định gặp Vương Cát Trinh, xem tình hình rồi mới quyết. Quay ra hỏi Ngụy Đông Đình bên ngoài điện: “Vương Cát Trinh đến chưa?”
Vương Cát Trinh đã đến, vì bên trong đang bàn việc, Lừa bướng ngăn hắn lại trước cửa Thùy Hoa bên ngoài điện Dưỡng Tâm đợi chỉ. Nghe bên trong truyền lời ra, Vương Cát Trinh vội đáp: “Có thần!” Hắn cẩn thận đặt ống tay áo móng ngựa xuống khom người vội vã tiến vào trong, gục đầu xuống đất nói: “Nô tài Vương Cát Trinh kính chúc thánh an!”
Không có tiếng trả lời. Vương Cát Trinh trộm liếc nhìn, chỉ thấy Khang Hy đang đi qua đi lại, bên cạnh hình như còn có mấy người nhưng không dám ngước đầu nhìn. Trong điện Dưỡng Tâm im ắng, chỉ nghe tiếng ủng của Khang Hy và tiếng đồng hồ chuông tích tắc.
“Cha ngươi làm phản rồi!” Khang Hy bỗng nhiên hỏi một câu: “Ngươi có biết không?”
“Hả?” Vương Cát Trinh hoảng hốt kêu lên, mở đôi mắt kinh hoàng nhìn Khang Hy, hai hàm răng đập vào nhau lộp cộp, rồi run rẩy đáp: “Nô tài... nô tài... nô tài vốn không hay biết gì, gần đây có nghe có nghe phong thanh... xin...”
Lại một hồi im lặng, mấy tờ giấy bay tới trước mặt Vương Cát Trinh, hai tay hắn nhặt lên, mới đọc mấy câu, đã đổ mồ hôi lạnh, hắn thất thần dâng cho Minh Châu đứng bên, toàn thân hắn run lên như cầy sấy, mồm nghe lộp cộp nhưng không nói ra được tiếng nào.
“Ngươi nghĩ thế nào?” Ánh mắt Khang Hy bỗng trở nên đe dọa.
“Xin... xin tùy... tùy Đức... Vạn tuế phán xét...” Vương Cát Trinh đổ quỵ xuống như một cục đất.
Chính lúc này Khang Hy cũng đang suy nghĩ căng thẳng, giết một con người cũng dễ như giẫm một con kiến. Nhưng Ngũ Thứ Hữu cho rằng Vương Phụ Thần làm phản không quyết liệt, giết chết con hắn chỉ có thể làm cho hắn quyết tâm chống triều đình tới cùng, lời này không phải không có lý. Nhà vua muốn gặp Vương Cát Trinh cốt để xem thái độ hắn mà quyết định. Nếu hắn có tài trí thì đương nhiên phải giết. Bây giờ thấy hắn thế này, nhà vua đã yên lòng. Nhưng nếu thả như thế này, có phần dễ dãi quá đối với Vương Phụ Thần chăng?
“Ngươi, một cậu ấm của Diều ngựa lại chỉ có chút xíu gan dạ như thế này sao?” Khang Hy đã quyết định, nói một cách khiêu khích, “Ngước đầu lên nghe Trẫm nói! Thiên hạ có hàng trăm hàng ngàn người làm phản, Trẫm không tin cha ngươi thực tình làm phản, còn nếu làm phản thật, Trẫm không giết thì trời cũng giết ông ta! Mạc Lạc, con người này trước nay thường nông nổi khinh suất, dưới tay cha ngươi có không ít là người các băng cướp cũ, vốn rất khó điều khiển, bây giờ binh biến nổi lên cũng có khi bị bức ép mà không đàn áp được!”
“Đây là ơn khoan hồng của triều đình, xin Đức Vạn tuế soi xét!” Vương Cát Trinh nằm mơ cũng không ngờ Khang Hy nói như vậy, hắn liên tiếp dập đầu đáp.
“Trẫm có ý triệu ngươi đến đây…” Khang Hy vừa suy nghĩ vừa nói, “Ngươi ngày đêm gấp rút trở về, nói lệnh của Trẫm: Tội của cha ngươi là do sơ suất qua loa, giết Mạc Lạc là do cấp dưới lén làm, Trẫm biết rất rõ. Bảo ông ta phải chú ý có cách đề phòng điều khiển quân tướng, giữ tốt Bình Lương cho Trẫm đừng nghe người ta xúi giục. Chỉ cần có công lao, sau này ngay cả việc giết Mạc Lạc, Trẫm cũng không truy cứu!”
“Vâng vâng, vâng ạ!”
“Lòng ngươi tất nghĩ, giờ này Trẫm nói hay vậy, chứ sau này chắc gì giữ lời hứa, có phải vậy không?”
“Vâng – thần không dám!” Vương Cát Trinh không biết nên trả lời như thế nào.
“Có phải vậy không, dám hay không thì ngươi cứ nghĩ, ngươi cứ nói!” Khang Hy nói, “Cha ngươi nếu làm phản thật, Trẫm há chẳng có lý giết ngươi sao? Năm đó cha ngươi về kinh thăm, Trẫm đã ban cho cây thương rồng cuộn đuôi báo, ngươi bảo ông lấy ra xem kỹ lại, nghĩ cho kỹ đi, cứu vãn được tình thế là một công lao lớn. Phần thưởng của Trẫm còn chưa kịp thời sao?”
“Dạ!”
“Ngươi đi đi!” Khang Hy khoát tay, dặn Lang Thẩm đang đứng hầu trước cửa, “Bảo bộ Binh làm giấy thông hành cho hắn!” Bây giờ Vương Cát Trinh mới quỳ mọp xuống đất tạ ơn, đi ra, mồ hôi thấm đẫm áo.
“Vạn tuế,” Sách Ngạch Đồ kinh ngạc hỏi, “vậy là thả hắn đi?”
Hùng Tứ Lý cũng nói: “Vạn tuế, hắn đi như vậy thì Vương Phụ Thần không còn phải lo lắng gì nữa rồi. Vạn tuế vẫn phải suy sâu nghĩ kỹ!”
Minh Châu thì cười nói: “Nô tài thì cho là chủ nhân xử lý cực hay, Vương Phụ Thần nếu thực lòng làm phản thì còn lo gì đến con? Vương Cát Trinh trở về thuyết phục được thì là may lớn; còn không nói được thì cũng chẳng có gì to tát lắm. Loại bùn loãng trứng lỏng này thì dùng được việc gì?”
Tên nô tài Minh Châu này biết rõ hết tâm tư sâu kín của mình, Khang Hy bất giác chau mày, nhưng lại nói: “Các khanh nên đi thăm Ngũ tiên sinh đi. Lòng thầy đau buồn, mọi người không nên ùa đến một lúc. Ôi, ông thầy này của Trẫm, tạo hóa không cứu vớt nổi!”
Ngũ Thứ Hữu dần dần hồi phục, chỉ có thần thái lạnh lùng, người thẫn thờ, hễ ngồi xuống là ngồi cả ngày. Khang Hy nghe thái y nói, vẫn bố trí ông ở trong phủ Hà Quế Trụ – quán Duyệt Bằng hồi trước đã sửa thành phủ riêng của Hà Quế Trụ – cảnh cũ đập vào mắt, việc xưa đau lòng, rất dễ khôi phục thần trí, quả nhiên mỗi ngày một khá hơn. Trong thời gian này, Hùng Tứ Lý, Minh Châu, Sách Ngạch Đồ, Ngụy Đông Đình và mấy anh em ông có đến thăm mấy lần. Mọi người thấy ông tinh thần ngày càng khá, còn lo lắng muốn đi thăm Châu Bồi Công nên đều yên lòng. Không ngờ đến ngày thất đầu tiên Vân Nương mất, Ngũ Thứ Hữu không ăn uống, đốt hương thơm nhắm mắt ngồi tĩnh tọa, mặc cho Hà Quế Trụ hết lòng khuyên giải đủ cách, ông chỉ mỉm cười không nói. Mãi đến ngày thứ hai, Hà Quế Trụ mới thấy ông cố ý tự sát! Liền hoảng hốt luýnh quýnh tay chân vội vào cung xin gặp Khang Hy.
Khang Hy đang mê mải ôm một lò sưởi tay, Đồ Hải và Châu Bồi Công xuôi tay đứng hầu hai bên, trên bàn có một tấm bản đồ trú đóng các đội quân cờ kinh kỳ. Thấy Hà Quế Trụ hối hả xông vào, tưởng là có tin gì về Tiểu Mao, Khang Hy liền đặt cái lò sưởi tay xuống sạp, đợi ông làm lễ xong mới chậm rãi hỏi: “Khanh đã gặp Vương Trấn Bang rồi hả?”
“Bẩm ông chủ,” Hà Quế Trụ sững lại một chặp rồi nói. “vẫn là cuộc gặp hôm trước, anh ta nói không biết Tiểu Mao đi đâu, – bên Ngô Ứng Hùng thần cũng đã tới hai lần, gác cổng nói Ngô Ứng Hùng bệnh rồi, không tiếp khách được.”
Khang Hy im lặng suy nghĩ rồi nói: “Ngũ tiên sinh có đỡ hơn chút nào không?” Hà Quế Trụ nói một cách lơ mơ: “Nô tài đến chính là vì chuyện đó, bệnh xem ra chẳng can hệ gì, có điều là không ăn không uống hình như có ý tự tử, nô tài nghĩ có lẽ Hoàng thượng nếu gặp ông ta không chừng sẽ tốt đấy.”
“Bệnh này của thầy cũng do Trẫm gây ra, e rằng không thể khuyên giải được.” Khang Hy than thở, “Nhưng Trẫm sẽ đi một chuyến, chà, một đống việc đang đợi ở đây... quả là càng bận càng sinh nhiều chuyện!”
Đồ Hải nghe vậy hỏi: “Bệnh ông Ngũ không phải có đỡ hơn rồi sao? Sao không bảo ông ta tới đây?”
Khang Hy cười nói: “Khanh dám nói hai tiếng ông Ngũ, gan quả không nhỏ! Thầy khác với khanh, khanh là nô tài của Trẫm, còn ông ta là thầy của Trẫm!”
Châu Bồi Công đã rõ ý của Khang Hy, không chuẩn bị cho Ngũ Thứ Hữu vào làm quan, liền cúi người cười đáp: “Ngũ tiên sinh có ơn lớn đối với thần, lần này đến kinh sư chưa được gặp mặt, xin cho nô tài đi thăm trước xem sao?”
“Bệnh tâm khó chữa!” Khang Hy cảm thấy khó khăn, nói.
“Phép Phật vô biên.” Châu Bồi Công đáp lại ngay.
Ánh mắt Khang Hy lóe sáng, cười nói: “Được, quả là có khanh!” Nhà vua đã quyết, “Như thế này nhé, đại sư Bồ Đề Ngũ Đài Sơn tới kinh ngủ lại ở chùa Đại Giác, Thái hoàng Thái hậu và Trẫm đã gặp mấy lần, quả là một cao tăng đức độ. Khanh với Hà Quế Trụ hẹn Ngũ tiên sinh cùng đi một chuyến, xin lấy giáo lý tam thừa thức tỉnh lòng si mê của thầy, may ra có thể tốt – ít nhất là không tìm cách tự tử, các khanh hãy đi đi, Trẫm sẽ sắp xếp cho!”
Châu Bồi Công và Hà Quế Trụ hẹn với Minh Châu cùng tới quán Duyệt Bằng mới bắt đầu giờ Tỵ. Minh Châu vừa bước vào nhà đã hỏi trưởng tùy của Hà Quế Trụ: “Tiên sinh ở đâu? Bây giờ vẫn còn ngồi?” Tên trưởng tùy cúi mình đáp: “Ngũ lão gia đang viết văn!” Ba người nghe nói nhìn nhau, ra nhà sau vòng lại nhìn qua cửa sổ, bất giác sửng sốt: Số là bên trong đang bày hương án, trên để ba cái đĩa cúng, trong đặt một chút điểm tâm, khói hương nghi ngút, cả phòng trang nghiêm – Ngũ Thứ Hữu lạy xong đứng dậy, mở tờ văn tế ra đọc to:
Ngày 17 tháng chạp năm Khang Hy thứ mười hai, kẻ tuyệt tình phụ nghĩa thứ nhất trong thiên hạ, thư sinh Dương Châu Ngũ Thứ Hữu đau lòng điên bệnh, xin lấy chút lễ mọn, vật nhỏ bốn thứ, rượu nhạt một chung, đặt trước linh tiền linh tú tiên muội, hiền muội Vân Nương. Ôm nỗi đau suốt ngày, mang mối hận vô biên, có mấy lời thành khẩn rằng: Một đời con gái, không biết người nơi nào. Có dây hồng điều tuyệt kỹ, phong cách cao siêu, kiếm dài phiêu bạt, ý đàn khẽ rung, tuy má hồng mà anh hùng, rời đỉnh núi Chung Nam, theo đường cũ Thái Hàng, nơi hoang vu lạnh vắng, kẻ gian bị chém đầu, những khi nói chuyện, lời dịu dàng rót vào lòng. Lòng trong trắng như trăng sáng, dáng điệu nhẹ nhàng, cầm ba thước kiếm, lòng không hối hận, phụ họa vào vật ngu xuẩn có một không hai, đau đớn trong lòng, cùng là người khắp nơi lưu lạc…
“Anh cả viết văn rất hay!” Thấy Ngũ Thứ Hữu nước mắt đầm đìa, Minh Châu đứng bên ngoài vội nói to, rồi kéo tay hai người cùng bước vào, cười nói, “Chỉ bên trong đều là lời lẽ không lành, người em này không nỡ nghe.”
“Bồi Công cũng đến, hôm trước ta định đi thăm chú đấy!” Ngũ Thứ Hữu nói lạnh lùng, “Ngồi xuống cả đi. Chú Trụ cũng ngồi xuống đi.” Hà Quế Trụ vốn là nô tài sinh ra trong nhà, Ngũ Thứ Hữu không nói thì ông ta không dễ gì ngồi.
Hà Quế Trụ ngồi xuống, cười nói: “Cậu hai bây giờ cũng tin quỷ thần rồi, không sợ ông cụ biết mắng sao?”
Ngũ Thứ Hữu mỉm cười nói: “Cái gì tin không tin, lành không lành, mọi thứ bây giờ ta đều không quan tâm. Thánh nhân dạy: “Ngoài lục hợp, tồn mà không bàn.” Ta xem đối với quỷ thần, ngài cũng không hiểu lắm! Ta bị số phận xui khiến đến nay, cũng phải buông tay đại ngộ rồi, vốn không tin quỷ thần, bây giờ thì phải tin nó có, chứ không tin là không.”
Minh Châu nghe những lời này chỉ một mực uống trà. Châu Bồi Công biết học vấn của ông nghĩ là khó địch liền cười nói: “Tiên sinh, thần vốn có mầm trong tâm, không tin thì không có, tin thì nó có. Ngài tuy biết hết lý lẽ sự vật trong thiên hạ, nhưng với nghĩa lý tuyệt diệu thiền tông thì vẫn chưa hiểu thấu. Xin thứ cho tôi nói thẳng.”
Hà Quế Trụ thấy Ngũ Thứ Hữu cười định phản bác, vội nói: “Cậu hai đọc sách lớn, những lý lẽ đó Trụ tôi không rõ lắm. Chỉ biết bây giờ Hoàng thượng cơm cũng không kịp ăn, chỉ mong cậu hai khỏi bệnh để giúp làm việc, xin cậu hãy ráng tự bảo trọng!”
Minh Châu thừa dịp nói: “Tĩnh dưỡng mấy ngày thì đỡ thôi. Em nghe chùa Đại Giác vừa mới đến một vị Phật sống, là pháp sư Bồ Đề giảng kinh ở Ngũ Đài sơn, có thể nói ra nhân duyên con người ba đời, bây giờ còn sớm, sao ta không cùng đến đó xem cho biết?”
“Chùa Đại Giác năm Sùng Trinh đã bị phá rồi!” Ngũ Thứ Hữu nhớ lại, nói: “Vị đại hòa thượng này không đi tới chỗ lửa hương thạnh, thì đúng là một cao tăng, các người nếu không có việc gì thì chúng ta cùng đi.”
Chùa Đại Giác nằm ở cạnh núi Dương Đài phía tây bắc kinh sư, gần như đối diện với Tây Sơn, vào những năm Kim Nguyên lửa hương cực thịnh, đáng tiếc sau bị cháy. Đang là mùa đông rét đậm, chỉ thấy những mảnh tường hoang đổ, cây khô buồn thảm. Một tòa chánh điện nguy nga đổ nát, chỉ dãy điện phụ phía tây như có người dọn dẹp sửa sang, làm cho ngôi miếu cổ hoang tàn lạnh lẽo còn có chút sinh khí. Bốn người xuống ngựa ở trước miếu, Ngũ Thứ Hữu hơn một ngày không ăn uống mệt thở hổn hển, vừa bước lên bậc thềm, vừa nói với Minh Châu: “Chú lừa ta khổ sở thế này! Làm gì có Phật sống ở đây?”
Châu Bồi Công chỉ về phía xa, cười nói: “Chẳng phải là một vị hòa thượng đó sao?”
“A di đà phật!” Một vị hòa thượng trung niên ước khoảng hơn bốn mươi tuổi từ trong điện phụ bước ra, người gầy yếu, gương mặt thanh mảnh, khoác chiếc cà sa bông gòn, bên trong mặc bộ quần áo nhà chùa, chắp hai tay đứng dưới cây ngọc lan nói: “Các cư sĩ có duyên đến đây! Hòa thượng tôi là Bồ Đề nguyện dẫn cư sĩ theo đò qua biển!”
Ngũ Thứ Hữu thấy ông ta trẻ như vậy, cười thầm trong bụng, rồi bước tới một bước, chắp tay hỏi: “Đường đường đại hòa thượng, ông có phải là đại sư không nói thiền?” Câu hỏi này làm cho Minh Châu, Hà Quế Trụ đều mở to mắt, Châu Bồi Công thì biết Ngũ Thứ Hữu đang hỏi về thiên cơ, chỉ im lặng đứng nhìn.
“Cư sĩ không nên ngạc nhiên.” Bồ Đề mỉm cười nói với ba người, “Vị cư sĩ này giống như một vị tri thức giỏi giang muốn khảo hạch bần tăng đây!” Nói xong quay mặt nói với Ngũ Thứ Hữu: “Cư sĩ hỏi thiền không nên hỏi phật, hỏi phật không nên hỏi thiền! Trên dưới không soi nhau, một thảm xanh vạn khoảnh.”
“Ờ,” Ngũ Thứ Hữu biết đối thủ lợi hại, ông cười ngồi xếp bằng xuống nói, “Đó là phật nhà nho, không phải là phật tây phương.”
“Người phương Đông cầu kinh ở người phương Tây, người phương Tây nói phật ở phương Đông” Hòa thượng cũng ngồi xếp bằng dưới đàn đại bi, xem ra gặp được đối thủ, nhà sư cũng vui vẻ, chắp tay vái nói, “Phật ở trong chúng sinh, tâm sáng tức là thấy phật.”
“Tôi không làm phật nhà nho.” Ngũ Thứ Hữu nghe khuyên mình trở về trong chúng sinh, thì nói quả quyết, “Người ta không biết đi đâu, hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.” Hòa thượng cười. Lúc này Minh Châu bỗng cảm thấy vị hòa thượng này như đã gặp ở đâu rồi, nhưng không nghĩ ra được là ai. Lại nghe hòa thượng nói: “Cây quý phương tây múa lượn vòng, nhưng không ra được quả trường sinh.” Ngũ Thứ Hữu nói: “Không ra quả thì thôi.” Ngũ Thứ Hữu hít vào một hơi, hồi lâu mới nói, “Một chàng thiếu niên thích nói ngược lại, ngẫu nhiên cưỡi ngựa đến ông hàng xóm hỏi rượu, ông hàng xóm nói “không có thức nhắm rượu”, chàng thiếu niên nói “giết con ngựa tôi”, ông hàng xóm nói “vậy anh lấy gì cưỡi”, chàng thiếu niên chỉ con gà trước thềm nói “cưỡi nó”, ông hàng xóm lại nói “có gà không có củi”, chàng thiếu niên nói “lấy cái áo tôi mà nấu”, ông hàng xóm nói, “vậy anh lấy gì mặc?”, chàng thiếu niên chỉ hàng rào trước nhà nói “mặc cái đó”!”
Bồ Đề nghe những lời châm chọc lanh trí của Ngũ Thứ Hữu bèn cười to ha ha ha: “Chỉ gà nói ngựa, chỉ hàng rào nói áo, ai mặc ai nấu, ai giết ai cưỡi? Đó là cái đạo gì, ngay cả mặt mũi vốn có của mình cũng không biết nữa!” Không đợi Ngũ Thứ Hữu hỏi thêm, nhà sư đã quay giáo hỏi ngay. “Một đạo học, tiên sinh dạy người ta chỉ lĩnh hội một hai câu nói, đã dùng suốt đời không hết. Có một học trò bước tới vái chào nói, “Lão sư thánh minh, học sinh chỉ thể nghiệm quan sát một câu của thánh nhân đã cảm thấy lòng rộng xác to” hỏi là câu gì, trả lời là “ăn không chán tinh, khoái miệng không chán nhuyễn”!”
Những lời châm chọc lanh trí này vốn phải thay đổi theo tâm trạng người tham thiền, mỗi người lãnh hội một khác, mỗi người chống chế một khác. Châu Bồi Công ban đầu còn nghe ra một số có ý vị, lúc này không kịp ngẫm nghĩ còn Minh Châu và Hà Quế Trụ thì đã sớm ù ù cạc cạc. Thấy mấy người Ngũ Thứ Hữu còn tỏ vẻ lúng túng ngượng ngập, mọi người không khỏi ngạc nhiên. Lại nghe Ngũ Thứ Hữu nói: “Lý lẽ kỳ diệu của chư phật không nằm trong câu chữ, việc này không cần đại hòa thượng chỉ giáo, chỉ hỏi lừa trọc, chữ trọc viết thế nào?”
Ba người đang sợ hòa thượng buồn giận, nào ngờ Bồ Đề vẫn không để tâm, chắp tay niệm phật nói: “Đây là chỗ cư sĩ đọc sách không chú ý, chữ “trọc” trong lừa trọc vốn là chữ “tú” trong tú tài, chỉ nét cuối cùng hất lên thôi!”
“Đại hòa thượng tự xưng bần tăng,” Ngũ Thứ Hữu vẫn không cam lòng, lại hỏi, “chữ “bần” viết thế nào?”
“Chữ “bần” dễ viết.” Hòa thượng nói, “gần như chữ “tham”!”
“Hiểu rồi!” Đến lúc này Ngũ Thứ Hữu mới chắp tay quy y, “Tôi ngu mê không biết, may nhờ đại hòa thượng khai mở cho, nguyện bái dưới nhà làm đầu đà khất thực!” Minh Châu bất giác hoảng kinh, đang định nói thì Bồ Đề đã nói: “Ta biết ý ngươi: Có người cầu phật mà đi theo phật, nhưng suốt đời không được thành phật. Ngươi không có thể sáng lòng kiến tánh, không xứng làm đệ tử của hòa thượng.” Ngũ Thứ Hữu xúc động mạnh, không chịu tỏ ra yếu đuối nói: “Hòa thượng cũng là người đời, có đáng tự tôn tự đại như vậy chăng? Đại hòa thượng sống ở chùa cổ núi sâu, tai không nghe tiếng đàn ca tơ trúc, mắt không thấy màu đào lý thắm tươi, ngồi nhìn vào vách, xem tượng đất phật gỗ là Bồ Tát vô thượng? Minh Châu, Bồi Công, Quế Trụ, chúng ta đi, chúng ta đi thôi!” Nói xong bèn đứng lên.
“Cư sĩ hãy khoan!” Bồ Đề bỗng cười lên, “Nhà sư ta lỡ lời!” Nói xong vẩy phất trần một cái. Trong lúc Ngũ Thứ Hữu kinh ngạc thì hai hàng ni cô mỗi bên mười hai người từ trong điện phụ chậm rãi tiến ra, người nào cũng thân hình mềm mại, tuy nét ngài hơi nhạt, không chút phấn son nhưng phong tư yểu điệu đều là tuyệt sắc!
Ngũ Thứ Hữu không hiểu có ý tứ gì, liền liếc nhìn vào, thấy Tô Ma Lạt Cô cùng hai người đàn bà đi kèm bước ra, đứng trước đàn đại bi mỉm cười không nói. Minh Châu, Hà Quế Trụ nhìn thấy, một người là Thái hoàng Thái hậu, một người là đương kim Hoàng hậu! Mọi người kinh ngạc quỳ xuống vái lạy. Châu Bồi Công cũng vội vàng làm lễ theo.
“Đây không phải chuyện của các ngươi, đứng cả lên!” Thái hoàng Thái lại nói thong dong, “Ngũ tiên sinh – vị Bồ Đề này là hóa thân của Hoàng đế Thuận Trị trước kia, không xứng đáng làm sư phụ của tiên sinh sao?” Ngũ Thứ Hữu sợ đến mặt này trắng bệch, vội nói, “Đâu dám, thần hôm nay đã thất bại tả tơi rồi!”
“Chẳng trách Hoàng đế sủng ái như vậy.” Bồ Đề mỉm cười nói với mẹ. “Quả nhiên suy nghĩ mẫn tiệp. Con nghiên cứu phật học hai mươi năm hầu như chịu thua dưới tay ông ta! – Cùng sư ta trước hãy thưởng thức cảnh sắc kinh sư!”

