Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 48
48
Uông Sĩ Vinh đêm nhập thành Ngũ Dương
Tôn Diên Linh hối lỗi am Bạch Y
Ngọn lửa chiến tranh chống loạn tam phiên rừng rực cháy trong hai năm, đến năm Khang Hy thứ mười sáu thì đã núi không củi hết, khói tro đầy trời. Một tuyến dọc Trường Giang, đông bắt đầu từ Triết Giang, tây đến Xuyên Kiềm, lửa cháy suốt ngày đêm, máu chảy thành sông, lại thêm Vương Phụ Thần bất ngờ làm phản, Thiểm Cam Ninh cũng bị tàn hại.
Từ tháng Giêng năm Khang Hy thứ mười ba, Ngô Tam Quế chia binh hai đường, một đường đông chiếm Hồ Nam, bắc đánh Xuyên, Thiểm; Cảnh Tinh Trung thì dẫn bộ sậu xuất phát từ Phúc Châu, cùng với bộ sậu Trịnh Kinh từ Đài Loan đổ bộ lên, cũng chia binh làm hai đường đánh lên Giang Tây, Triết Giang. Chỉ có Thượng Chí Tín với Tôn Diên Linh mỗi người một ý khác nhau, lại thêm phía bắc có lực lượng quân đội lớn của Mãng Y Đồ trấn giữ, nam có Phó Hồng Liệt ngăn cản nên chỉ cố thủ hang ổ không dám làm xằng. Chiến sự mới bắt đầu, Tuần vũ Hồ Nam Lư Chấn đã bỏ Trường Sa trốn chạy, trong khoảnh khắc để mất Thường Đức, Nhạc Châu, Hoành Châu, Tào Châu, Tuần vũ Tứ Xuyên La Sum, Đề đốc Trịnh Giao Lân, Tổng binh Đàm Hồng, Ngô Chi Mậu hợp nhau mưu tính trở cờ rước Ngô Tam Quế. Một đạo nam bắc đông tây gió rít mây vần, nước đen chảy ngược, chính lệnh của Khang Hy không ra khỏi mấy tỉnh phía bắc. Nhưng nhờ có kế hoạch từ trước khi xảy ra chiến cuộc, hậu phương vững chắc, binh lương đầy đủ, tình thế khó khăn này không bao lâu đã có chuyển biến tốt. Khang thân vương Kiệt Thư thống lĩnh cánh quân phía đông tiến công Triết, Cán (Giang Tây), hợp binh cùng tổng đốc Lý Chi Phương, tiến đánh Cù Châu; Bối tử Lại Tháp dẫn kỵ binh tinh nhuệ xung phá doanh trại Đại Khê Than, cắt đứt đường tiếp lương của Cảnh Tinh Trung, lính không lương thực, lòng quân tự nhiên tan rã, trong khoảnh khắc tình thế đảo ngược lại, bộ hạ của Cảnh Tinh Trung là đại tướng Tăng Dương Tính, Bạch Hiển Trung lần lượt dẫn bộ sậu đầu hàng Thanh, Cảnh Tinh Trung đành dẫn quân chạy về Phúc Kiến. Không lâu, Kiệt Thư đánh hạ Ôn Châu, chiếm lĩnh ải Tiên Hà. Quân mã của Trịnh Kinh thừa dịp cướp phá, đoạt lấy Chương Châu, Tuyền Châu, Thinh Châu. Trong tình hình bức bách cùng đường, Cảnh Tinh Trung đành phải chịu quy hàng. Quân Thanh do An thân vương Nhạc Lạc dẫn đầu từ Giang Tây vào Hồ Nam bao vây Vĩnh Hưng. Vĩnh Hưng là cửa ngõ Nhạc Châu, Vĩnh Hưng bị hạ, Nhạc Châu cũng mất một sớm một chiều, để giữ chắc Nhạc Châu, đại doanh trung quân Ngô Tam Quế dời đồn đóng ở Hoành Châu, muốn cùng binh Thanh quyết một trận sống chết tại đây. Khang Hy biết rõ chiến dịch này có quan hệ trọng đại, đã chuyển đến Vĩnh Hưng hai mươi khẩu pháo lớn. Hơn bảy mươi vạn người ngựa bày sẵn thế quyết chiến ở vùng Hoành, Nhạc, đánh cho đen trời tối đất, chỉ có một dạo trở thành thế giằng co, không ai làm gì được ai.
Ngô Tam Quế sai Ngô Thế Tông đến Quảng Đông, nhờ Thượng Chí Tín đến chi viện, nhưng Ngô Thế Tông có đi mà không có về. Ngô Tam Quế định sai Uông Sĩ Vinh dẫn mười mấy tên hộ vệ đi Quảng Châu. Những năm gần đây Uông Sĩ Vinh chạy đông chạy tây quá nhiều, lao lực thành bệnh, hắn gầy gò đáng thương. Hắn vốn tự cho tài trí hơn người, nhưng Ngô Tam Quế chỉ sử dụng hắn như một tên liên lạc. Hà Quốc Tướng cũng biết hắn đa mưu túc trí, nhưng không chịu tiến cử hắn trước mặt Ngô Tam Quế. Hắn mong chiến sự xảy ra thì có thể quát gió gọi mây, hiển hách một thời. Nhưng bây giờ tuổi đã quá bốn mươi, vẫn chẳng làm nên việc gì. Cho nên Uông Sĩ Vinh ngồi trên mình ngựa nhìn xa ra bốn bên, không biết đến bao giờ mới giải được nỗi sầu đau lòng này.
Vào thành Năm Dê (Quảng Châu), đã là cuối giờ Thân. Quan viên trạm dịch Bạch Vân Sơn đang ngồi trong sân uống trà đánh cờ, bày trận Long Môn, thấy Uông Sĩ Vinh cát bụi dặm trường tiến vào, đều đứng cả lên chắp tay nghênh đón. Người cầm đầu còn bước tới chào vấn an: “Uông đại gia, dọc đường vất vả quá! Từ lần trước với quận vương Thế Tông ra đi e có đến hai ba năm rồi, thế nào mà bây giờ mới đến?”
“Quận vương Thế Tông cũng ở đây sao?” Uông Sĩ Vinh ném dây cương ngựa cho tùy tùng, và nói, “Xin bẩm báo nhanh lên, nói ta có việc quan trọng muốn gặp!” Viên quan trạm nheo mắt cười nói: “Xem kìa đại gia, gấp nỗi gì, ông ta tuy công khai nói trú ở đây. Thực ra trong mười ngày cũng khó được ở lại đây một đêm. Nếu không ở lầu Tụ Tiên thì ở chợ hoa, nếu không thì cũng đến chỗ bà chị Hồ ở hẻm Xuân Liễu...”
Uông Sĩ Vinh nghe nói tức giận hai tay lạnh run, phía trước chiến sĩ đẫm máu quên mình, cả đến gạo đỏ, khoai lang còn ăn không no, người đi thúc quân lương lại êm đềm hưởng lạc! Hắn suy nghĩ, rồi chán nản phẩy tay, nói: “Vậy thì khỏi. Xin Quan trạm bẩm Vương gia nhà và Tổng đốc Kim Quang Tổ, nói tôi xin gặp ngày mai.”
Uông Sĩ Vinh ăn qua loa mấy miếng cơm, cảm thấy trong người mệt mỏi vô cùng, liền đi vào phòng phía tây để nguyên quần áo nằm vật xuống giường, cũng không thắp đèn, chỉ lấy tay mân mê ống tiêu ngọc. Lúc này bóng trăng xuyên qua cửa sổ, chiếu sáng như ban ngày, bao nhiêu chuyện xưa cũ dâng lên trong lòng, khó mà ngủ được. Ống tiêu này là chị họ tặng cho, hắn ra ngoài du học làm quan lâu năm chưa hề rời nó. Năm Khang Hy thứ nhất khi hắn về nhà, người chị họ đã lấy ông anh cả. Ông anh cả chỉ biết mộng làm giàu, đi xa buôn muối, xây nhà cửa khác ở Hàng Châu, lấy một đàn thê thiếp, năm năm mới trở về nhà ở được hai đêm, để lại một ít tiền bạc rồi ra đi.
“Chú vẫn còn mang theo ống tiêu của tôi...” Buổi tối trở về nhà, chị dâu rửa ráy dọn dẹp xong xuôi, bèn bước qua phòng phía tây, nhìn sững cây sáo trong tay Uông Sĩ Vinh nói.
“Chú và tôi rồi sẽ đến một ngày đầu bạc, rồi già chết, chỉ có nó là vĩnh viễn giữ dáng cũ thôi...”
Uông Sĩ Vinh nhìn khuôn mặt chị dâu có vết nhăn, hắn đỏ mặt than rằng: “Đến lúc đó tôi hóa trong đất vàng, chị vào phần mộ, chúng ta tuy chết không cùng huyệt, tôi sẽ cắt ống tiêu này ra làm hai, chị một nửa, tôi một nửa...”
Nói tới đây hai người nước mắt tuôn ra như suối, không nén nổi tình cảm, họ ôm nhau mà khóc.
“Hay quá, bắt luôn cả đôi!” Khi hai người đang ôm nhau khó thể chia rời thì cửa phòng bỗng kêu lên một tiếng, mụ dì ghẻ bước vào nhanh như chớp, bà cười gằn một tiếng nói: “Tôi nói mợ cả hôm nay vui vẻ hân hoan, đi đường nhẹ nhàng, cả kịch cũng không muốn xem, đương nhiên là tốt, té ra đã nhặt được của quý giấu trong lòng! Cậu hai, tôi tuy vào cửa nhà họ Uông không lâu, cũng đã biết tính tình ông cụ, ông cụ mà biết việc này, không hiểu có tức chết hay không đây?”
Uông Sĩ Vinh và chị dâu giật mình: Đêm nay mọi người đi xem kịch rồi mà, người đàn bà này vì sao nửa đường quay lại? Đang suy nghĩ thì chị dâu đã quỳ hai gối rơi lệ đau buồn nói: “… Thưa dì, đều do con không đúng, tốt xấu trông cậy dì, xin tha cho chúng con...”
Uông Sĩ Vinh không biết làm sao cũng đành quỳ xuống: “… Mẹ, mẹ cứ quở trách con thế nào cũng được, chỉ xin đừng cho cha biết, ông cụ đã già rồi...”
Mụ dì ghẻ nhìn Uông Sĩ Vinh như điên như dại, một hồi lâu bỗng nghe có tiếng cười xòa: “Anh đi ra ngoài học bao nhiêu năm, ngay một chút xíu học vấn đó cũng không có sao? Trần Bình báo đáp chị dâu, nhà ta lại có Trần Bình, ta vui mừng còn chưa kịp nữa là!” Nói xong liền đỡ hai người dậy, thuận tay cấu một cái vào lòng bàn tay Uông Sĩ Vinh, “Có điều việc tốt không thể chỉ mợ cả chiếm riêng, tôi nói là gặp một lần thì chia làm hai. Những lời tôi nói đây bà góa mà thấy được cũng phải thu tiền hồ đấy, chúc mọi người bình yên…”
Việc của ba người, không lâu đã bị cụ già phát hiện. Chỉ vì việc trong nhà không thể vạch áo cho người xem lưng. đành ngậm bồ hòn làm ngọt, ừ ào cho qua chuyện. Con người đã gần bảy mươi rồi, không đầy một tháng sau, ông cụ ốm liệt giường, rồi mất...
Uông Sĩ Vinh nhớ lại những chuyện xưa, cảm thấy đắng ngọt mặn chua cay năm vị đều có đủ, nghẹn trong lồng ngực, không bết thổ lộ cùng ai. Hắn tự nhiên đưa ống tiêu lên mồm, réo rắt thổi lên khúc nhạc Đêm sông Vị do gia đình sáng tác.
“Khúc nhạc hay!” Ngoài cửa sổ bỗng có người kêu lên, “Anh Sĩ Vinh, có việc gì không vui mà thổi làm đau lòng người như vậy, nghe thì bất nhẫn mà không nghe thì không được!”
“Ai đó?” Uông Sĩ Vinh quay người hỏi.
Người bên ngoài không trả lời, tiếng cửa kêu nhẹ một tiếng, một người cầm đèn bước vào – mình mặc áo long bào vàng, đầu đội mũ miện, chân đi ủng đen đế hồng – đúng là Thượng Chí Tín đã đến vào lúc đêm hôm khuya khoắt!
“Vương gia!”
“Vương gia cái gì!” Thượng Chí Tín hai tay đỡ Uông Sĩ Vinh đang kinh ngạc, cười nói. “Đêm nay anh là Uông tiên sinh, ta là Thượng Chí Tín, nguyện đối xử với nhau theo tình bạn!” Vừa nói mặt mày hớn hở kéo ghế ngồi đối mặt với Uông. Uông Sĩ Vinh hoảng kinh ngồi lên hỏi: “Vương gia, ngài...” Thượng Chí Tín giấu nụ cười, than thở: “Tiên sinh, từ lâu tôi đã ngưỡng mộ tài cao của tiên sinh, chỉ vì không có cây ngô đồng nên khó thể vời phượng hoàng tới. Hiện nay tình hình chiến cuộc, anh hiểu rõ hơn tôi, tôi đến đây là để xin thỉnh giáo tiên sinh!”
Tim Uông Sĩ Vinh đập mạnh, liền cười nói: “Vương gia, vãn sinh đâu dám nhận hai chữ “thỉnh giáo” của ngài! Thượng Chí Tín lắc đầu cười chua chát: “Cũng chẳng trách anh – chỉ vì lính ở đây khó điều hành, tôi đành phải nói dối với mọi người, kỳ thực lòng tôi không phải như vậy. Nhưng đã có tiếng xấu như vậy thì không thể trách người ta nghi ngờ tôi, lòng tôi cũng rất khổ rồi!” Nói xong rút trong túi ra một cuộn giấy, nói, “Anh hãy xem cái này.” Uông Sĩ Vinh nghi ngờ đón nhận cuộn giấy đem ra trước đèn mở đọc, vừa mới nhìn qua đã hoảng kinh nói: “Hả, đây là triều...”
“Đừng nói!” Thượng Chí Tín linh hoạt nhìn ra bên ngoài, nói khẽ, “Đây là ý chỉ của triều đình! Ba tháng trước ta đã viết biểu lên triều đình thỉnh cầu quy hàng, những lời chỉ dụ phê son này Phó Hồng Liệt mới chuyển qua hơn nửa tháng trước đây.”
Hai người trong phòng đều không lên tiếng, bốn con mắt nhìn nhau đã lâu, đều muốn thăm dò ý nghĩ của đối phương. Uông Sĩ Vinh buồn bã như người mất của đưa trả chiếu thư cho Thượng Chí Tín, nói: “Nói như vậy, thì Ngô Thế Tông đã bị Vương gia giam lỏng ở đây. Uông tôi cũng xin nghe theo sự phán xử của Vương gia.”
“Đâu có!” Thượng Chí Tín cười ha hả. “Làm sao đem so anh với một người chỉ biết rượu thịt như Ngô Thế Tông được? Nếu tôi giam giữ anh thì chỉ cần một câu nói, cần gì phải đến thăm anh? Anh hãy xem – như tình thế hiện nay, Cảnh Tinh Trung đã hàng triều đình, Vương Phụ Thần cứ mải miết hướng về phía tây, không chịu động binh; Tôn Diên Linh bị Phó Hồng Liệt và ta khống chế, không dám làm gì. Nhưng nếu ta đánh Hồ Nam, nhất định Tôn Diên Linh sẽ nhảy vào địa bàn Quảng Đông, Ngô Tam Quế tính sẽ một mặt đánh với triều đình ở Hồ Nam, một mặt đánh ta. Thế lớn trong thiên hạ như vậy, mong tiên sinh chỉ giáo cho ta!” Uông Sĩ Vinh nghe xong trống ngực đánh liên hồi, máu như tràn lên, mặt đỏ tía, nhưng mồm lại lắp bắp: “Vương gia đã định quy hàng Thanh, tôi còn nói gì được nữa?”
“Tiên sinh vẫn còn chưa tin lão Thượng này sao?” Thượng Chí Tín cười nói, “Hiện nay Khang Hy và Ngô Tam Quế đã đánh nhau đỏ mắt tại Nhạc Châu, đã thành cái thế cả hai cùng bại cùng thương vong. Cảnh Tinh Trung ở Phúc Kiến tuy không thật lòng hàng Thanh, nhưng ông ta không có quân, cũng uổng công thôi! Người ngựa ba bên, duy chỉ có ta chưa mảy may tổn thất. Ôi… từ xưa tới nay, chim khôn chọn cây mà đậu, quan giỏi tìm chủ mà thờ, tiên sinh có ý đó không?”
Ánh mắt Uông Sĩ Vinh lóe lên dưới ánh đèn. Thượng Chí Tín trước nay có tiếng hung hãn, từ khi đến Ngũ Hoa sơn bí mật bàn mưu với Ngô Tam Quế lại bị xem là đồ gian trá. Bây giờ xem ra cũng là hùng tài đại lược! Lẽ nào bản thân ta sự nghiệp công danh lại thành tựu nhờ con người này sao? Uông Sĩ Vinh suy nghĩ, anh nhún hai vai rồi đưa ống tiêu lên mồm, khúc nhạc Phá trận vang lên không trung bổng như nhảy xuống hang sâu, vô cùng thê lương bi tráng. Thượng Chí Tín ban đầu ngạc nhiên rồi sau tựa vào thành ghế trầm tư lắng nghe. Rất lâu, tiếng sáo ngừng lại, Uông Sĩ Vinh nói thong thả: “Bây giờ Vương gia tuy chưa tổn thất, nhưng phía tây bị Phó Hồng Liệt, Tôn Diên Linh khống chế, phía đông lại bị Kiệt Thư khống chế, đó mới thật là một sợi tơ không thành chỉ, một tay khó vỗ kêu. Cuộc chiến lớn Nhạc Dương kết thúc, Ngô Tam Quế trị ngài tội không chi viện. Khang Hy trị ngài tội không xứng làm quan, Vương gia tuy có binh hùng tướng mạnh nhưng nằm bất động trong hang ổ này cũng khó thành nghiệp lớn!”
“Ờ!”
“Nếu thừa cơ hai bên bất phân thắng bại, liên hiệp với Vương Phụ Trần, đợi cho cuộc chiến Nhạc Dương gần kết thúc, nam bắc cùng công kích, việc lớn sẽ thành…” Uông Sĩ Vinh nhập hai tay lại nói.
“Hay!” Thượng Chí Tín vỗ tay khen ngợi, “Có điều ai đảm nổi gánh nặng này?”
“Chỉ cần tôi tự đi một chuyến.”
“Cảm ơn tiên sinh!” Thượng Chí Tín mừng phát điên, hắn đứng lên vái sát đất.
“Khoan!” Uông Sĩ Vinh chậm rãi nói, “Bên này Vương gia cũng không nên ở không, đầu tiên lặng lẽ nhổ cho được lại cái đinh Tôn Diên Linh và Phó Hồng Liệt, đợi cuộc chiến Nhạc Châu chuyển biến rõ hơn một chút, ta ra quân không ai ngại động tay chân nữa.”
Thượng Chí Tín nghe hắn nói trong lòng ngứa ngáy không nén nổi. Hắn suy nghĩ kỹ cảm thấy còn có chút hơi khó, Tôn Diên Linh gian manh xảo quyệt, thấy tình thế bất lợi đã co đầu lại; Phó Hồng Liệt lại là một cái đinh chắc cứng, làm thế mà “lặng lẽ” được? Uông Sĩ Vinh đã đoán đúng ý của Thượng Chí Tín, hắn đứng dậy cười nói: “Lương thực! Vương gia, Tôn Diên Linh nằm yên trong hang, chẳng những sợ triều đình, mà còn sợ Vương gia nuốt chửng hắn, còn có một nguyên do quan trọng, hắn đã thiếu lương! Nếu dùng lương hướng dụ hắn, thì có thể đưa hắn tới chỗ chết! Phó Hồng Liệt cũng thiếu lương, ông ta là anh em kết nghĩa với tôi, nếu có gì không tin thì tôi sẽ viết thư cho ông. Có thể để Ngô Thế Tông cùng đi làm.”
Hai người bàn bí mật với nhau mãi đến khuya, tới ngày thứ ba Uông Sĩ Vinh lên đường đi Thiểm Tây.
Tình cảnh của Tôn Diên Linh nghiêm trọng hơn nhiều so với sự đánh giá của Uông Sĩ Vinh. Từ sau khi Cảnh Tinh Trung thất bại, Ngô Tam Quế căn bản không nhìn tới hắn, chẳng những lương hướng không một đồng, lương thực không một đấu, mà chỉ một mực đòi hắn đem quân bắc tiến. Tôn Diên Linh tính ra chỉ còn lại một danh hiệu Tam Giang vương rỗng tuếch, lại còn sai Lưu Thành đến Quế Lâm làm tổng đốc thay cho Kinh Quang Tổ. Nguy ngập nhất là thiếu lương thực, binh sĩ vì lương hướng không có nên lúc nào cũng có người trốn người chuồn, hoặc gây rối. Giằng co bốn năm, không chỉ bắc tiến không được mà bảy ngàn quân mã của Phó Hồng Liệt càng hùng hổ áp sát Quế Lâm, đóng quân chỉ cách Quế Lâm có sáu mươi dặm đường. Phía bắc, Mãng Y Đồ cũng áp sát vùng Tam Nhai, Thành Quế Lâm thực ra đã bị bốn bên vây chặt.
Hắn suy đi nghĩ lại, chỉ còn một kế cuối cùng, Tôn Diên Linh quyết ý nhịn nhục đi cầu Khổng Tứ Trinh, xin Hoàng thượng cho hắn quy hàng trở lại con đường chính.
Khổng Tứ Trinh từ sau cuộc binh biến Quế Lâm, đã dời sang ở am Bạch Y phía bắc thành, tự mình dẫn đầu Đái Lương Thần cùng số gia nô thân tín trồng hai mẫu vườn rau phía sau am, rất là tự do tự tại, nghiễm nhiên trở thành một nước trong một nước tại thành Quế Lâm.
Tôn Diên Linh một mình cưỡi ngựa tới am Bạch Y, đúng vào giờ Ngọ, người gác cửa thấy hắn tới, đã không muốn thông báo nhưng cũng không thể không báo, đành chỉ nấp ở chỗ xa xa. Tôn Diên Linh đi men theo hàng bia thần đạo, vừa đi vừa nhòm ngó bốn bên, chỉ thấy sân nhà sạch sẽ không có một cọng cỏ, rêu phong trên cây bạch dương cổ thụ lốm đốm, các cây mai trồng theo ven đường từng bụi từng bụi màu mỡ xanh tươi. Tôn Diên Linh đi qua chính điện đến trước tịnh xá của Khổng Tứ Trinh, bốn bề trúc xanh che phủ. Đang phân vân thì nghe Khổng Tứ Trinh kêu lên ở vườn sau: “Mai Hương, thả cái mành trúc ở cửa sổ phía sau xuống, dưới đất ruồi nhiều lắm, nó mà bay vào thì không ai ngủ được đâu!” Đứng nhìn qua hàng trúc rậm, Khổng Tứ Trinh áo vải xù xì đứng dưới hiên đang phơi rau khô trên dây. Tôn Diên Linh vội bước nhanh vào, vái chào sát đất, cười nịnh nói: “Công chúa, tôi đến thăm nàng đây... Mấy ngày nay việc bận, không rảnh được, mới nhìn, tôi quả không dám nhận ra, nàng so với trước càng đẹp thêm nhiều...”
“Đái Lương Thần!” Khổng Tứ Trinh chỉ mải nắm từng nắm đậu đã luộc chín ướt đầm móc lên trên dây, vừa quay đầu gọi. “Mau đi sửa cái móc trên dây thừng giếng, cứ hễ xách nước là rơi xuống giếng, không biết động não một chút sao?” “Công chúa...” Tôn Diện Linh ngẩng mặt gọi to lên một tiếng, thấy không có phản ứng gì, liền vội đi tới giúp bà phơi rau, nhặt rau. Khổng Tứ Trinh bỗng thất kinh kêu lên: “Ôi! Có phải đây là Lâm Giang vương của nhà Châu Ngô Tam Quế chăng? Làm sao mà hôm nay rảnh rỗi thế? Tới nhà người dân hèn này có chuyện gì vậy?”
Tôn Diên Linh biết thế nào cũng có những lời chế giễu này, hắn ngượng ngùng cười gượng nói: “Đâu có phải là Lâm Giang vương gì, Diên Linh đến thỉnh an bà!” Rồi vái dài một cái, từ trong bóng mát lùm cây vang lên tiếng cười rúc rích, hắn quay lại nhìn thì chẳng thấy một bóng người.
“Ông không phải là Lâm Giang vương sao?” Khổng Tứ Trinh dựng ngược đôi mày, tròn xoe đôi mắt, bước sát tới hỏi, “Sao lại mặc quần áo thế này, trước kia có bím tóc, đâu mất rồi? Cũng lạ thật, trước kia nói là Phò mã, sau lại nói là Vương gia, bây giờ thì không phải Vương gia, chắc không phải là Hoàng thượng chứ? Ông thăng tiến nhanh thật đấy!”
“Tôi... tôi... chà!” Tôn Diên Linh lắp bắp nửa ngày, cuối cùng miễn cưỡng cười nói, “Công chúa đừng nói móc tôi nữa, do tôi ăn cứt đi lạc đường, không nghe lời nói phải của bà, để bây giờ hối hận không kịp, đến xin công chúa nghĩ giùm cho tôi...”
Khổng Tứ Trinh lạnh lùng nhìn hắn, cũng không nói gì, bà ngồi xuống chiếc đôn đá dưới giàn đậu sửa lại mái tóc, hồi lâu mới nói: “Đàn bà mà, đầu tóc dài, hiểu biết ngắn, tôi thì nghĩ ra được cách gì? Hơn nữa bây giờ ông là Vương gia, đắc ý lắm mà, sao lại nói gì “ăn cứt”, “đi lạc đường”, “hối hận không kịp”?” Khổ sở quỳ xuống bên tôi nói như vậy, nhưng tôi chẳng hiểu ý của ông muốn nói gì!”
“Xin công chúa cứu mạng cho tôi lần này!” Tôn Diên Linh lòng đã quyết, hắn gắng gượng quỳ xuống, chắp tay nói, “Tình cảnh bây giờ rất khó khăn, trước mặt là vực thẳm, sau lưng là hùm beo, xin nàng nể tình chồng vợ, về kinh đến trước mặt Thánh thượng xin giúp cho, Diên Linh đến chết... cũng không quên ơn nàng!” Vừa nói vừa nghĩ tới cảnh khó khăn hiện tại của mình, như chiếc thuyền đơn trước cơn sóng dữ, bốn phía mênh mông, không người thân thích, nước mắt tuôn ra như suối. “Xin nói thật với nàng, như tôi bây giờ muốn khóc cũng không có chỗ mà khóc... Thượng Chí Tín mười vạn tinh binh như hổ dữ thèm thuồng nhòm ngó. Phó Hồng Liệt, Mãng Y Đồ gần trong gang tấc, binh sĩ không muốn đánh... lại thiếu lương thiếu hướng... mười phần đã bỏ trốn đến bốn…” Hai tay hắn ôm mặt, ráng sức kiềm chế mình, nhưng nước mắt vẫn tuôn ra qua kẽ tay...
Khổng Tứ Trinh thấy hắn như vậy, nhớ lại chuyện xưa, bất giác mềm lòng, bà xì một tiếng: “Từ trước tôi đã khuyên ông như thế nào? Chẳng chịu nghe cho! Để cho người ta xúi giục điên cuồng lên, lại muốn làm vương gia phản loạn! Bây giờ tốt rồi, vương gia đã làm rồi, lại đến quấy rầy người ta? Lúc giết Khỉ đen sao không nghĩ đến tình vợ chồng?” Vừa nói vừa lau nước mắt.
Tôn Diên Linh nghe thấy giọng nói có vẻ êm xuôi, hắn xỉ mũi, khom người xuống, vái một cái, run rẩy lấy trong túi ra một cái gói nhỏ đưa cho Khổng Tứ Trinh, nghẹn ngào nói: “Bẩm thưa công chúa, Khỉ đen thực ra không do tôi giết. Hắn liên tiếp giết bốn tên thiên tổng của tôi, mọi người tức giận bao vây, loạn đao đã giết hắn... Tôi tuy đi lạc đường, nhưng lương tâm trời đất, một phút cũng không dám quên công chúa. Đây chính là... bằng chứng!”
Khổng Tứ Trinh lặng yên nhận cái túi, bên trong gói một cái thoa vàng, là thứ mà bà tặng cho Tôn Diên Linh sau khi thành hôn ba tháng, không ngờ, tên oan gia này lại giữ kỹ như vậy. Nghĩ lại Tôn Diên Linh từ trước ân ái thuận lòng, bất giác xúc động, bà thở dài nói: “Ông cũng không nên như vậy, chỉ vì lòng tôi mềm yếu vẫn cứ lo lắng việc này! Có điều ông phạm tội làm phản, cho dù tôi đi cầu xin Thái hoàng Thái hậu và hoàng thượng, cũng chưa chắc đã…”
Tôn Diên Linh vội nói: “Thái hoàng Thái hậu cưng chiều tôi nhất, bà đã tự mình đi cầu xin thì ai nỡ từ chối. Chỉ cần bà chịu đi, cho dù triều đình không chịu gia ân thì tôi có chết cũng không oán trách…”
Khổng Tứ Trinh suy nghĩ rồi nói: “Cũng đành như vậy thôi. Có điều cửa ải này e ông cũng khó qua. Ông không lập chút công lao, trước mặt Hoàng đế tôi rất khó mở miệng. Nhà vua lấy phép nước ra nói thì Thái hoàng Thái hậu cũng không làm cách nào được.”
“Tôi còn lập được công gì đây?” Tôn Diên Linh hoảng hốt nói.
“Đi theo tôi!” Khổng Tứ Trinh vén rèm bước vào tịnh xá.
Tôn Diên Linh đi vào theo, thấy Khổng Tứ Trinh đến trước bàn thờ thần, ấn nhẹ một cái nút, một tượng phật Quan Âm cao hơn một thước chầm chậm chuyển động, phía dưới tòa là một cái máng đá nhỏ. Khổng Tứ Trinh lấy ra một cây gậy như ý bằng sắt đưa cho Tôn Diên Linh nói: “Đây là vật làm tin của Phó trung thừa, sau khi tôi đi, ông tự mình lấy nó, nhanh chóng liên lạc với Phó đại nhân, đầu tiên phải làm ngược lại với trước, có thể hợp sức đánh Thượng Chí Tín, sau này sẽ dễ nói chuyện hơn...” Tôn Diên Linh vội đón nhận, gạt nước mắt cười nói: “Không ngờ bà lại có vật này ở đây!”
“Ta vốn là thị vệ của triều đình, cũng chưa mất chức quan, đương nhiên phải làm việc cho triều đình.” Khổng Tứ Trinh lạnh lùng nói, “Hiện nay quân của ông không có lương hướng, Phó đại nhân cũng thiếu lương thực, vì sao không hỏi xin ông Lưu Thành mới tới làm tổng đốc một số thứ cần thiết? Có lương hướng thì có thể đánh giặc, hễ khai chiến với Thượng Chí Tín thì là có công! Nếu bắt được Ngô Thế Tông, tôi nghĩ chẳng những tội chết của ông được miễn, chưa biết chừng còn giữ được chức quan nữa.”
“Cảm ơn công chúa...” Tôn Diên Linh bây giờ mới cười nở nang mặt mày nói. “Cũng là vừa may, hôm qua vừa mới nhận được thư Thượng Chí Tín, Ngô Thế Tông phụng mệnh Ngô Tam Quế sẽ tới kiểm tra Quảng Tây...”
“Đừng có giở trò ranh ma vặt vãnh nữa,” Khổng Tứ Trinh dặn dò, “chỉ còn có một cơ hội này thôi!”
Đêm đó, Tôn Diên Linh nghỉ ngay tại chỗ Khổng Tứ Trinh, ngoài làm trọn đạo vợ chồng, hai người còn bàn bạc riêng được nhiều việc. Ngày hôm sau Khổng Tứ Trinh bèn trở về kinh sư.

