Khang Hy Đại Đế - TẬP 3 - Chương 15
15
Dâng cây quý Cao Sĩ Kỳ chiếm bảng
Gặp gái Hán Cận Tử Hoàn thất kinh
Công lao của Cao Sĩ Kỳ như vậy, không chỉ được Khang Hy khen ngợi mà Hùng Tứ Lý trước vốn coi thường cũng phải trố mắt nhìn. Ông vội cười nói: “Hoàng thượng đã chấp thuận đề nghị của Sĩ Kỳ thì ngày mai, thần Hùng Tứ Lý dẫn tất cả hồng nho dự thi đến điện Văn Hoa làm lễ, hầu nghe ban chiếu quyết định thứ hạng, rồi vào cung Càn Thanh hầu kiến!”
Tiếp đến bèn bàn định tình hình quân sự Vân Nam. Khang Hy vô cùng phấn khởi nói hơn nửa canh giờ, rồi nói: “Ngô Thế Bàn đã tự vẫn, Trẫm đã cho người truyền chỉ mang thủ cấp hắn về Bắc Kinh, chỉ sợ trời quá nóng, trên đường thối hỏng thì tiếc thật!” Nghe nói mọi người đều cười. Hùng Tứ Lý thì chau mày nói: “Đã thu hồi đất mất thì phải cử quan có năng lực tới an ủi vỗ về, đó không phải là chuyện đùa. Sau khi đại binh tràn qua thường thì cướp phá một ngọn cỏ cũng không mọc được, bá tánh đói khát sợ sinh biến cố. Không có quan địa phương thì cho quân đội truy quét không được bỏ dở!”. “Như vậy” Khang Hy quay mặt nói với Minh Châu, “Bảo bộ Lại cấp tốc chọn một số quan tri phủ, tri huyện, chọn từ trong các tiến sĩ trường thi bắc. Bây giờ đặt một chức quan Sát sứ, cùng bàn với hai bộ, bộ Binh, bộ Lại đi thị sát tình hình quân dân hai tỉnh Vân Quý, nơi nào dung túng cho lính đi làm thổ phỉ thì xử lý tại chỗ!”
“Làm ngay bây giờ à?” Minh Châu ngạc nhiên nói.
“Ừm, làm ngay!” Khang Hy phấn khởi mắt sáng lên, “Việc này nghĩ ra là phải làm ngay. Kiệt Thư đang cầm quân ở Phúc Kiến, còn việc dân chính quả thật đau đầu. Diêu Khải Thánh phải tự mình dẫn vệ binh về nông thôn tiễu phỉ bảo vệ dân. Có tấm gương của người đi trước, việc ở Vân Quý phải làm thỏa đáng hơn, đó là việc của bộ Lệ của khanh cơ mà!”
Minh Châu chau mày suy nghĩ, quả thật ông có hơi khó xử. Nếu nói trong túi ông không có người thích hợp để chọn thì cũng không đúng. Chọn gần tại Bắc Kinh số quan viên nhàn rỗi từ tam phẩm trở lên thì ông có thể đề xuất ngay mười mấy người. Nhưng bây giờ là chọn quan Sát sứ đến vùng biên ải, là quan tứ phẩm, đương nhiên phải chọn trong quan ngũ phẩm, lục phẩm. Những người này ngày thường đến gặp, đưa bản thảo, báo lý lịch, thì ông đã quên mất đi đâu cả. Huống chi những ngày này công việc ngập đầu ngập cổ, ngay cả bộ Lệ cũng không đến được, thì ngay bây giờ làm sao tìm ra? Bỗng trong chốc lát, ba chữ Từ Cầu Nhâm lóe lên trong óc, nhưng nhìn dáng vẻ vô tư như chẳng có chuyện gì của Cao Sĩ Kỳ, ông thầm nghĩ, dù thế nào cũng không được tiến cử họ Từ. Nhưng suy nghĩ mãi, không thể nào nghĩ ra một cái tên thứ hai ngoài Từ Cầu Nhâm. Khi ánh mắt Khang Hy quét tới Minh Châu lần thứ hai, Minh Châu không còn cách nào khác, ông nuốt nước bọt, gật đầu than: “Nếu xét quan ngũ phẩm đợi tuyển tại Bắc Kinh có đến hơn ba mươi người, nhưng nếu không già yếu, thì cũng bệnh hoạn, hoặc không thạo việc quan. Nô tài suy nghĩ cả buổi, thấy... Từ Cầu Nhâm được...” Tiếp theo ông nói làu làu về lý lịch, chức danh của Từ, cuối cùng nói: “Người này nô tài vốn không quen, nhưng do Cao Sĩ Kỳ tiến cử, thần nghĩ chắc không tồi”.
Cao Sĩ Kỳ rất sáng dạ, chỉ cười thầm, nghe nhắc đến mình, vội cười nói: “Vẫn quen biết trong phủ tể tướng Minh, ai ngờ sau khi hỏi ra, chúng tôi mới nhận ra còn là bà con thân thích”.
“Khanh người Tiền Đường, anh ta người A Thành, làm sao là bà con được?” Trong lòng rất vui vẻ, Khang Hy quay lại hỏi. Nhà vua vốn thích thú tính phong lưu hào phóng của Cao Sĩ Kỳ, chọn anh ta ở bên mình để ngâm hoa vịnh nguyệt thư thái tâm thần, hôm nay gặng hỏi mới biết tài trí anh ta không hạn chế trong từ chương. So với ông thầy ban đầu Ngũ Thứ Hữu thì có cái hào phóng nhưng thiếu cái bộc trực; so với Minh Châu có cái thông tuệ, nhưng không có cái dung tục; so với Hùng Tứ Lý có cái thẳng thắn nhưng không có cái cứng nhắc. Trước nay nghe nói Cao Sĩ Kỳ là nhà nho nghèo nhà quê nản chí, làm sao lại có người bà con làm quan ở kinh? “Bà con đấy nhưng có hơi xa”. Cao Sĩ Kỳ thủng thẳng nói: “Là cháu họ của anh họ tiện nội chưa xuất giá của tôi”. Khang Hy bất giác cười to, chỉ Cao Sĩ Kỳ nói: “Tên nô tài này, càng ngày càng trắng trợn bừa bãi, ngay giữa chốn cơ mật này dám nói lung tung ‘tiện nội’ của khanh là khuê nữ nhà ai? Nói ra để Trẫm sẽ làm chủ hôn cho!”
Nghe Khang Hy hỏi đến Phương Lan, Cao Sĩ Kỳ đỏ mặt, vội cười nói: “Vạn Tuế chịu làm chủ hôn cho nô tài, quả thật là phúc phần tổ tông nô tài đời đời tích đức mới có được. Có điều bên gái không phải là khuê nữ con nhà danh giá, nhưng là con gái nhà trồng hoa Phong Đài. Nhờ phúc đức tổ tông, nô tài được gần long nhan, cả nhà họ đều vui sướng nhớ ơn, lại nhờ lễ vạn thọ của lão Phật gia, tiện nội tự chọn một món quà mọn kính dâng...”
Ngoài Minh Châu ra, không ai nghĩ là Cao Sĩ Kỳ lại chọn con gái người trồng hoa làm vợ chính thất, sự việc ngoài tầm suy nghĩ nên ai cũng ngạc nhiên. Khang Hy bất giác gật đầu khen ngợi: “Trẫm đọc Hậu Hán Thư, mỗi lần đọc đến Truyện Tống Hoằng thường than rằng phong tục đời này ngày càng suy đồi, ‘giàu thay vợ, sang thay bạn’ ngày nay đã thành chuyện thường tình phổ biến như cơm bữa! Còn khanh ‘bần tiện chi giao bất khả vong, tao khang chi thê bất khả hạ đường’ (việc giao hảo khi nghèo khó không thể quên, vợ chồng rau cháo không thể bỏ bê), Trẫm vô cùng khen ngợi!” Hùng Tứ Lý ngẫm nghĩ câu nói của Khang Hy, cũng vuốt râu mỉm cười.
Trong tay Minh Châu vốn có báo cáo của ngự sử Dư Quốc Trụ hạch tội Cao Sĩ Kỳ xảo trá lừa gạt tiền thuê phòng của chủ tiệm, gian dâm đàn bà, cưỡng bức cưới Phương Lan là gái có chồng, định tìm dịp vắng người đưa tận tay Khang Hy. Giờ nghe Khang Hy nói như vậy, biết là vô vọng, bất giác than thầm: “Người này tài hoa, người khác không bì kịp...” Lại nghe Khang Hy cười nói: “Lễ vật gì vậy, dâng lên cho Trẫm xem”.
Cao Sĩ Kỳ đã nghe nói họ Hồ ở phủ Thuận Thiên đã gửi cáo trạng lên quan nha, nên luôn lo lắng các quan ngự sử báo cáo điêu, nghe mấy câu Khang Hy nói, lòng anh nhẹ nhõm như trút được gánh nặng. Anh “dạ” một tiếng dập đầu lạy, chạy nhanh về phòng dâng thư bê chậu hoa bước vào, anh cẩn thận bóc lớp lĩnh che. Mọi người nhìn thấy một chiếc thùng gỗ nhỏ có ba đường dây sắt buột chặt, bên ngoài quét sơn dầu không biết mấy lớp, sáng lóng lánh như hổ phách. Trong thùng có một chùm lá rậm rạp mọc đều răm rắp, xanh như muốn chảy tràn ra ngoài thùng. Cao Sĩ Kỳ đặt chiếc thùng xuống, sửa lại quần áo nói với Khang Hy: Sắp đến thánh thọ Thái hoàng Thái hậu, nhờ tin vui của Vạn tuế, thần cung kính dâng thứ cỏ này để thêm tuổi thọ cho lão Phật gia!”
Bỗng chốc mấy người đều ngơ ngác. Quà lễ của Hùng Tứ Lý là một bức tranh chữ bóng loáng, sách, quạt, đào tiên, các thứ tổng cộng hơn hai trăm lượng bạc. Ông ta trước nay như vậy, mọi người cũng không cảm thấy ông keo kiệt; Minh Châu độc đáo, lấy cây dương vàng cổ thụ ở núi Hoa Sơn có đến ngàn năm tuổi chạm thành một bức tranh chín cụ già Doanh Châu ngồi đánh cờ, cùng một trăm hoa kim đào, và một bức điêu khắc Ma cô dâng đào bằng ngọc. Sách Ngạch Đồ khỏi cần nói, cũng tốn trên vạn lượng bạc trắng. Cao Sĩ Kỳ bây giờ không còn là người nghèo kiết nữa, làm sao lại đi dâng một thùng cỏ? Khang Hy không đếm xỉa ý tứ của mọi người, nhìn thùng cỏ cười hỏi: “Đó là cái gì?”
“Vạn niên thanh, thưa Hoàng thượng!” Cao Sĩ Kỳ nói to, “Thần không có ngọc vàng châu báu xin dâng thứ cỏ may mắn này, chúc Đại Thanh ta vạn niên, vạn vạn niên!”
“A, vạn niên thanh!” Khang Hy thoắt nhảy xuống sạp, chắp tay sau lưng đi tới bên chiếc thùng nhìn kỹ, rồi vui vẻ khôn xiết, nói: “May mà Cao Sĩ Kỳ khanh nghĩ ra!” Hùng Tứ Lý cũng cao hứng tới xem kỹ, rồi tấm tắc khen: “Quả thực rất đáng yêu! Phải lấy một cái tên hay. Đã là lễ vật dâng cho nhà trời, sao không gọi là ‘Thiên quang vạn niên thanh’?”
Sách Ngạch Đồ trong lòng lại thấy thản nhiên, ông rất khâm phục Cao Sĩ Kỳ: một thứ vật nhỏ mọn cũng biết phủi cũ thành mới như vậy, trội hẳn mọi người. Tuy ông có chút hối tiếc, nhưng không buồn giận, trước sau gì thì Minh Châu cũng chẳng được điểm hơn, rồi cũng phấn khởi xen lời: “Ông Đông Viên, chỉ hai chữ thiên quang thì chưa đủ, tôi cho rằng nên gọi là ‘Càn khôn vạn niên thanh’!”
“Như thế cũng chưa đầy đủ,” Minh Châu cũng vắt óc, gõ trán cười nói, “trời đất người ta gọi là tam tài, theo tôi nên gọi ‘Tam tài vạn niên thanh’ mới phải!” Khang Hy thấy mấy vị đại thần bàn luận sôi nổi, tự mình cũng muốn đặt một cái tên, đang suy nghĩ thì Cao Sĩ Kỳ cười nói: “Cũng không cần quý vị suy nghĩ nhọc nhằn, bà vợ vụng dại của tôi đặt cho nó cái tên tuy có hơi thô, nhưng tôi cho là hay nhất, kính xin Hoàng thượng bình nghị, cô ấy nói đây là ‘một thùng đai sắt vạn niên thanh’!”
“Tuyệt thật!” Hùng Tứ Lý nét mặt tươi cười rạng rỡ, ông vỗ đùi khen ngợi, “Quả là người giỏi chữ nghĩa, không phải là người giỏi chữ nghĩa thì không thể làm được! ‘đai sắt nhất thống (hai chữ nhất thống đọc lên nghe giống như hai chữ một thùng) vạn niên thanh’ ừ, hay!”
Nhưng Khang Hy không cười, vua đi tới ôm chiếc thùng, cúi đầu ngửi, một mùi nhè nhẹ thơm lừng, những chiếc lá xanh mơn mởn khẽ lay động như muốn nói chuyện với nhà vua. Một hồi lâu, Khang Hy mới đưa chậu vạn niên thanh đặt ở đầu bàn, rồi ngước nhìn bốn bên trong điện, thấy không có vật gì ban tặng được, bèn lấy một tập giấy và một thanh ngọc như ý ghép bằng hoa mai ngọc đưa cho Cao Sĩ Kỳ: “Giấy cho khanh, còn ngọc như ý tặng cho ‘vợ’ khanh, truyền chỉ phủ nội vụ, ‘một thùng vạn niên thanh’ mỗi năm thành lệ cống vào đại nội”. Rồi mới ngồi xuống sạp, nói với mấy vị đại thần với niềm xúc động, “vạn niên thanh cũng được rồi, hai chữ ‘nhất thống’ dùng rất hay! Tần Thủy Hoàng quét sáu nước, xe đồng cỡ, sách đồng chữ, mới có chuyện nhà Hán hưng thịnh, quốc gia nhất thống, bá tánh yên ổn làm ăn, trăm thứ đổ nát đều hưng thịnh, mới có máy Trương Hoành, giấy Thái Luân, phủ Tương Như. Đến loạn tám Vương thời Ngụy Tấn, thiên hạ rối beng, nhà Đường nhất thống, thiên hạ mới có sức sống mới dồi dào trở lại. Loạn Ngũ đại, trăm họ lại lưu ly thất sở, trăm nghề tiêu điều, nhân dân lầm than... Xét xem sách sử, muốn nước mạnh dân giàu, không thể không nhất thống! Trẫm tám tuổi lên ngôi, mười lăm tuổi bắt Ngao Bái, mười chín tuổi quyết định triệt phiên, khó khăn nguy hiểm, dân chúng xôn xao, trong ngoài không một ngày bình yên vui vẻ, tại sao như vậy? Chẳng lẽ Trẫm không muốn an nhàn? Trẫm vẫn một lòng muốn xây dựng nghiệp lớn nhất thống! Các khanh đều là đại thần đắc lực của Trẫm, bụng muốn cùng suy nghĩ một dạ với Trẫm tạo nên thời thịnh trị Khang Hy giống như thời thịnh trị Trinh Quan. Trăm dân thiên hạ, sử xanh đời sau không thể quên các khanh, các khanh phải nên tự biết!”
Sắc mặt Khang Hy hơi tái, nhà vua nói nhỏ nhẹ, không chút lên gân, làm mọi người xúc động. Mấy vị đại thần ban đầu ngây người ngồi nghe, lúc này đều quỳ cả xuống khấu đầu đồng thanh đáp lời:
“Dạ!”
Hùng Tứ Lý, Minh Châu, Sách Ngạch Đồ và Cao Sĩ Kỳ lui ra khỏi điện Dưỡng Tâm đã là giờ Dậu. Đi mãi tới cửa Tây Hoa, mấy người vẫn còn yên lặng suy nghĩ những điều Khang Hy vừa nói. Sắc chiều mờ mịt, chim chóc kéo nhau về tổ, ngoài Tử Cấm Thành, nhà nhà đều lên khói, khói tỏa mù trời, người nào cũng vô cùng cảm kích. Minh Châu nhìn lên thấy một quan viên ở phía bắc cửa Tây Hoa, giống như Dư Quốc Trụ, biết là Dư đang đợi nghe tin tức về tờ đơn ông ta, bất giác anh thở dài, từ xa vẫy gọi: “Có phải Dư Quốc Trụ đó không? Ông đợi ai ở đây?”.
“Tôi đợi Trung đường đại nhân”. Dư Quốc Trụ hơn 40 tuổi, mặt to mồm rộng, bộ râu đẹp dài tới ngực vô cùng khôi ngô, chỉ đáng tiếc mông đít nhọn, tỏ ra dáng vẻ lanh lợi, vì thấy Minh Châu và Cao Sĩ Kỳ cùng đi với nhau, vội cười nói: “Tuần vũ Hà Nam Trương Bá Niên và cha y được giải về kinh hơn nửa tháng nay, giam ở ngục thần miếu bộ Hình hẻm Thợ giày. Tôi có đi thăm, cha y hiện đang bệnh rất đáng thương, muốn Trung đường tâu xin cho ra ngoài chữa bệnh...”.
Minh Châu nghe ông ta nói liều, bỗng buồn cười liếc nhìn Sách Ngạch Đồ, cười nói: “Vụ án Trương Bá Niên, bộ bàn chưa xong, không biết Vạn tuế xử thế nào! Ông Ba Sách, ý ông thế nào?” Sách Ngạch Đồ cười nói: “Theo tôi, Cát Hồng ỷ thế người cờ ức hiếp người Hán, Trương Bá Niên cũng có cái sai, nhưng hắn đã bị bệnh, thì gọi thầy thuốc tới Ngục Thần Miếu khám là xong, có gì gây khó dễ cho người ta?” Rồi nói tiếp, “Đông Viên, bây giờ đi về cũng chẳng làm gì, chúng ta cùng Minh Châu tới nhà Cao Đàm Nhân chơi đi, được không? Phủ đệ ông ta mới được ban tặng gần đây lắm, không cần đi kiệu, ta đi bộ một tí cũng hay”. Minh Châu thấy Hùng Tứ Lý gật đầu bèn quay lại nói với Dư Quốc Trụ: “Đi, chúng ta cùng đi, Cao Sĩ Kỳ hôm nay tốt số, chúng ta đến quấy một chầu cho vui vẻ!”
Năm người cùng nhau đi bộ, nói cười vui vẻ, khi đến ngõ nhà Thái trời đã tối. Minh Châu bỗng thấy một con chó đang gặm xương bên đường, con chó thấy có người “gâu” lên một tiếng rồi hai chân trước đứng lên, đuôi dựng đứng, Minh Châu giật mình tránh sang một bên, túm áo Cao Sĩ Kỳ hỏi: “Là lang (hay là chó)?”
Sách Ngạch Đồ đã thấy rõ ràng là con chó nhưng Minh Châu lại cố ý nói “Là lang (từ thị lang đồng âm có nghĩa ‘thị lang’ hoặc ‘là lang’ - sói) là chó”, cũng đúng lúc Cao Sĩ Kỳ mới lãnh chức thị lang. Ông bỗng phì cười vỗ tay nói: “Hỏi mới hay chứ! Cao Sĩ Kỳ chẳng phải là thị lang sao?” Hùng Tứ Lý chỉ cười, Dư Quốc Trụ cũng cười theo: “Hỏi khéo thật, những chuyện cười hợp cảnh cũng thú vị lắm”.
“Là chó”. Cao Sĩ Kỳ liếm môi nói như chẳng có chuyện gì.
“Sao mà biết được?” Sách Ngạch Đồ hỏi.
“Lang sói khác với chó ở hai điểm”. Cao Sĩ Kỳ nói nghiêm túc, “Hễ phất đuôi là thấy rõ ngay, đuôi thòng xuống là sói, đuôi dựng lên (‘thượng thụ’ âm gần với chữ ‘thượng thư’) là chó; một điểm nữa là xem nó ăn gì, lang sói chỉ ăn thịt, còn chó thì gặp thịt ăn thịt, gặp cứt (‘ngộ thỉ’ cũng đọc âm gần với hai chữ ‘ngự sử’) thì ăn cứt”.
Minh Châu, Sách Ngạch Đồ, Hùng Tứ Lý đang có mặt đều là thượng thư, chỉ có Dư Quốc Trụ là ngự sử. Cao Sĩ Kỳ tự nhiên thoải mái đã mắng chửi tất cả mọi người. Mọi người đã biết anh vốn như vậy, chẳng những không buồn mà còn cười ha hả. Chỉ riêng Dư Quốc Trụ đôi lông mày khẽ nhấp nháy.
Đám Cận Phụ, Trần Hoàng từ kinh sư về đến Hoàng Lương Mộng, bà Hàn Lưu mở tiệc tẩy trần lớn trong sân nhà mình: Vì trong nhà chật nên mấy chục thân binh đi theo Cận Phụ đặt bàn ngồi dưới giàn nho trong sân, lại mời một ban nhạc kèn trống từ thành Hàm Đan đến giúp vui, bên trong bên ngoài tiếng chạm ly, tiếng cười nói ồn ào vui vẻ. Từ khi Cao Sĩ Kỳ và Trần Hoàng đi rồi, bà Hàn Lưu tìm mọi cách truy hỏi A Tú, hai mẹ con thường ngồi với nhau nói đủ thứ chuyện. Bà đã nắm khá rõ về hôn nhân lễ tục, nhân tình thế thái Mông Cổ, và mới biết được ở quê nhà A Tú không có hàng loạt lễ nghi nói không hết lần không ra như ở Trung nguyên. Bà cụ thẫn thờ than vãn: “Trời ơi, có ai biết các người bên đó con gái tự kiếm chồng cho mình! Mà chẳng cần mai mối và theo lệnh cha mẹ! Còn ta ở đây, làm như vậy là hỏng! Hôm đó con nói như vậy, bà già này tưởng là con mắc chứng điên!” Nói xong liền vỗ đùi cười. Bây giờ Trần Hoàng trở về, bà muốn nhân dịp này nói lại về việc hôn nhân của A Tú.
“Trần tiên sinh”, thừa lúc Cận Phụ và Phong Chí Nhân không để ý, bà Hàn Lưu đến bên Trần Hoàng nói nhỏ, “bà già này muốn hỏi anh mấy câu”.
Trần Hoàng đặt đũa xuống, cười nói: “Sĩ Kỳ và cháu là bạn cũ. A Tú lại ở nhà cụ, con xem cụ như bà bác, sao cụ lại gọi con là ‘Trần tiên sinh’? Cụ có gì cứ nói”. “Vậy thì được”. Bà Hàn Lưu chớp mắt một cái nói, “Việc con và A Tú, ý con thế nào? Con đi rồi, cô bé đó như mất hồn, già này thật đau buồn. Con thật tình đã có vợ chứ?” Trần Hoàng nghe im lặng hồi lâu, anh không ngờ A Tú nặng tình với mình như vậy, thấy bà Hàn Lưu nhìn sững mình, anh bỗng than: “Nói thực tình, con chưa có vợ. Cụ đã biết thân phận nàng rồi đó, con mà lấy nàng, trước hết là phạm phép nước, thì còn nói gì đến sự nghiệp người đại trượng phu, tu sửa đê điều nữa? ... Xin phiền cụ nói lại dùm cho, kiếp này chỉ muốn được làm bạn tâm giao với nàng, nguyện ba sinh chứng giám cho mối tình duyên kiếp trước”. Nói xong đôi mắt bỗng đỏ lên.
Cận Phụ và Phong Chí Nhân uống rượu mặt đỏ như gấc. Lần này về kinh, mọi việc thuận lợi như ý. Hai nhà Sách, Minh chẳng những không gây rắc rối, mà còn nhiệt tình muốn kết giao, lại cho phép một kẻ sĩ cao kiến như Trần Hoàng vào phủ hỏi việc trị thủy. Lòng ông thư thái, ngay cả Phong Chí Nhân cũng béo lên nhiều, gương mặt gầy gò đã sáng lên. Thấy bà Hàn Lưu nói chuyện với Trần Hoàng, Cận Phụ vui vẻ nói: “Có chuyện gì mà thầm thì vậy! Bà mẹ ạ, Thiên Nhất suốt dọc đường luôn khoe bà là một trượng phu choàng khăn, lẽ nào bà mẹ có chuyện không làm nổi phải nhờ Thiên Nhất chăng?” Bà Hàn Lưu liếc nhìn Trần Hoàng, rồi cười nói: “Cận đại nhân nói vậy già này xấu hổ chết đi được! Một mụ đàn bà thì làm được việc gì? Ngài đã nói như vậy, thì quả có một chuyện khó muốn cầu cứu đại nhân”.
“Hả?”
“Bà già này có một cô con gái, nay đã hai mươi tuổi”. Bà Hàn Lưu cười nói, “Nhan sắc tuy không đẹp bằng tranh, nhưng cũng coi được, muốn nhờ cậy oai phong của ngài đại sứ biên cương, làm mai mối cho con gái với Trần tiên sinh... không biết ngài có chịu giúp cho hay không?” Cận Phụ vui vẻ cười khà khà, nói: “Việc tốt như vậy thì sao lại không chịu? Cái núi quý...” Lời chưa dứt, Trần Hoàng đã ngăn lại: “Hãy uống rượu đã, việc đó hẵng nói sau...”. Cận Phụ thấy Trần Hoàng sắc mặt có khác, ông kinh ngạc bưng chén rượu uống.
Phong Chí Nhân thấy Trần Hoàng mặt đỏ lên bèn cười nói: “Thiên Nhất, có phải vì không có lệnh huynh nên không dám tự quyền? Việc gì cứ phải theo kiểu cũ? Có Cận trung thừa ở đây, thì sợ gì? Anh đọc nhiều sách vở há chẳng nghe ‘Cỏ thơm người đẹp, đều là sở thích của người quân tử’ hay sao? Lòng dạ gỗ đá như Tống Quảng Bình cũng đã từng làm bài phú về mai để gửi gắm tình cảm; Hàn Triều Châu cốt cách cứng rắn cũng cao ca ‘đuốc bạc chưa tàn, thoa vàng say đắm’; ông Phạm Văn Chính lấy làm tâm đắc cái vui lo của thiên hạ, trong bài Bích vân thiên cũng đã chẳng nói ‘rượu vào lòng sầu buồn, hóa thành nước mắt tương tư’!”
Phong Chí Nhân say sưa đắc ý dẫn chứng kinh điển, bỗng ngưng phắt lại. Thì ra A Tú đột nhiên vén rèm bước vào đứng yên lặng bên bàn tiệc.
Hôm nay cô nàng trang điểm quả có làm mọi người lác mắt động lòng. Nàng mặc chiếc áo tay rộng màu lam, trên chiếc áo chẽn ngoài điểm những cành mai thêu rất khéo, phía dưới là chiếc váy xòe một màu xanh đến gót chân có những dải tua hồng, hài đỏ viền màu nhạt. Trên đầu châu ngọc rỡ ràng như mây như sóng, đôi mắt lúng liếng. Mọi người nhìn sững, chỉ riêng Trần Hoàng cúi đầu, không dám nhìn thẳng, chỉ nghe A Tú cười nhạt nói: “Trần đại ca, anh còn nghĩ tới chuyện trở về, em rất vui mừng”.
“Hãn Cách cách!” Trần Hoàng vội đứng lên, miễn cưỡng cười nói.
Lời xưng hô này làm cho Cận Phụ và Phong Chí Nhân há hốc mồm ngơ ngác, toát mồ hôi hột. A Tú mắt nhòa đẫm lệ, nàng cười nói: “Cận Phụ, ngài không nên hoảng kinh, tôi chính là Thổ Tạ Đồ - Bảo Nhật Long Mai, con gái của Thổ Tạ Đồ Hãn Ca Nhĩ Ca Mông Cổ!”
Cận Phụ nhìn A Tú không chớp mắt, tin vương nữ Thổ Tạ Đồ mất tích, ông đã được nghe nói ở chỗ Hùng Tứ Lý. Nhưng ăn mặc như thế này, nói năng như thế này xuất hiện tại đây thì quả thật nằm mơ cũng không thể nghĩ tới. Cận Phụ sửng sốt hồi lâu, ông ra lệnh cho Phong Chí Nhân đóng cửa trước, rồi lẩm bẩm hỏi: “Cô là Cách cách của Hãn Thổ Tạ Đồ... nhưng không biết có chứng cứ gì không?”
A Tú suy nghĩ một lát rồi bước tới, đôi cánh tay trắng muốt lên, nói: “Mời ngài xem!” Cận Phụ cẩn thận nhìn xem thì là một bản văn có triện hình rồng xăm trên cánh tay bằng đơn sa, nhìn thấy hai hàng chữ nhỏ Mãn Mông ông lắc đầu, không hiểu. Trần Hoàng nói nhỏ: “Tôi chỉ đọc được chữ Mông, trên đó viết ‘Thiên tử đại Hãn thánh mệnh Thổ Tạ Đồ Hãn đời đời coi quản bộ tộc Ca Nhĩ Ca’ ”. Đợi Trần Hoàng giải thích xong, A Tú đứng lên, nàng lại rút ra một cái bọc đựng trầu cau, xé ra lấy một chiếc khăn lĩnh vàng loang lổ vết máu. Một cái khăn to bằng chiếc quạt trên đó chi chít những hàng chữ nhỏ, thì là chữ Hán, thuật rõ tình hình rối loạn ba bộ tộc Ca Nhĩ Ca bị Cát Nhĩ Đơn khuynh đảo, xin triều đình đem thiên binh đánh diệt quân phiến loạn... Phía dưới là dấu ấn son xem rõ mồn một: “Ngự tứ Thổ Tạ Đồ chi bảo”.
“Thật là thất kính!” Cận Phụ sắc mặt tái ngắt, đứng lên cúi người nói, “Bác gái mời Cách cách ngồi, cho phép tôi làm đại lễ tham bái!”
“Không cần”. A Tú nước mắt rơi lã chã, nàng cũng chẳng buồn lau, để mặc cho những giọt nước lăn trên má, nàng nói giọng run run: “Cát Nhĩ Đơn cướp đất đai của tôi, giết hại dân tôi hắn chỉ cần dâng lên triều đình một tờ biểu chúc mừng, Hoàng thượng cũng mặc nhiên công nhận, còn thưởng trà cho hắn! Hoàng thượng và triều đình quên mất chúng tôi! Đừng có nói đến hai chữ Cách cách nữa. Bây giờ tôi là một người ăn mày cũng không xứng ngay cả với Trần tiên sinh, chỉ là một người đàn bà yếu đuối chẳng ai thèm để ý...”.

