Khang Hy Đại Đế - TẬP 3 - Chương 24
24
Sĩ Kỳ khéo dùng lời dẹp yên vụ án lớn
Vua tôi nhân sao Chổi luận chuyện triều ca
Khang Hy định gọi Hùng Tứ Lý tới bàn việc ban hiệu cho Quan Vũ, bỗng nghe tiếng nhạc rộ lên trên sàn diễn. Màn một Thính bái vở Đào hoa phiến mở màn, Hầu Phương Vực khăn vuông ủng đen phất tay áo bước ra, mới lên giọng Khang Hy đã thấy hấp dẫn:
Bên lầu Tôn Sở, chớ buồn trên hồ đã thêm mấy cây liễu rủ. Quả là cảnh đẹp non sông, trời chiều bán rượu, hấp dẫn khách du say túy lúy, học theo kiểu phấn vàng Nam triều. Ngầm suy nghĩ, cảnh đảo điên yến oanh...
Khang Hy yên lặng nhìn lên đài diễn, bỗng nghĩ tới Ngũ Thứ Hữu, chính là người thân tín của Hầu Triều Tông, lần trước sai Tố Luân đến Ngũ Đài Sơn nói ông đã hóa duyên đi chùa khác, bây giờ không biết ở đâu? Lòng vua bỗng cảm thấy đau buồn. Nghĩ mình tuổi đã quá thời nhi lập, cuộc chiến Đài Loan cát hung chưa đoán được, phiến loạn phía tây không đủ sức nghĩ tới, đã không có tướng tài đảm trách, lại chẳng có tham tán dẫn lối đi cùng, bất giác thở dài. Lại xem một chặp nữa, thấy trời đã sắp giờ Thân, bèn đứng lên đi vào sảnh lớn. Một đám đông phi tần mệnh phụ đang đùa vui trước mặt Thái hoàng Thái hậu thấy Khang Hy đi vào đều nhất loạt quỳ cả xuống.
Thái hoàng Thái hậu đang kéo tay Phương Lan nói chuyện cửa nhà, thấy Khang Hy vào, cười nói: “Đại thần bên ngoài nhiều như vậy, Hoàng đế vào đây làm gì? Ta gần đất xa trời, loại tuồng này nghe không hiểu, có bọn chúng cùng nói chuyện đùa giải sầu, không cần con tới cho nghiêm túc”. Khang Hy cười nói: “Ngồi lâu rồi cũng muốn đi lại một chút, trời đã chiều rồi, sợ lão Phật bà đói bụng, vào xem một chút, có nên truyền mang thức ăn không?” Thái hoàng Thái hậu nói: “Con xem những thứ trên bàn ấy, bà già này còn đói thế nào được? Chỉ đáng thương Phương Lan: cô dâu mới, vừa về nhà chồng đã phải ứng phó với cảnh đông đảo thế này, thật khó cho nó”.
Phương Lan nghe Thái hoàng Thái hậu nói tới mình, vội tới lạy Khang Hy. Khang Hy thấy nàng vẫn còn mặc đồ cưới đỏ tươi, mặt sáng như trăng rằm, trong cái e lệ thẹn thùng nổi lên vẻ thông minh sắc sảo. Nhà vua cười nói: “Được rồi, đứng dậy. Trẫm đã nói đến làm chủ hôn cho Cao Sĩ Kỳ, bây giờ xem như đã giữ lời hứa. Đây không có gì thưởng cho ngươi, trở về bảo bộ Lễ sớm đưa cáo mệnh!” Thái hoàng Thái hậu cười nói: “Con không việc gì thì đi đi, con ở đây, đến một câu chuyện vui bọn họ chẳng dám nói nữa, con đói thì cứ truyền gọi bữa, ta không cần”.
Khang Hy đi ra, tuồng đã diễn đến đoạn giữa, trên đường đi, vua Hoằng Quang tìm yên ổn ở một góc trời, không nghĩ đến chấn hưng mà chỉ mơ màng tửu sắc, lại không chịu nói thẳng, bảo Mã Sĩ Thành “đoán” tâm tư nghĩ gì. Mã Sĩ Thành gian manh xảo quyệt lại cố ý đoán không trúng. Khang Hy bất giác chau mày, nói to: “Quân tử giả dối!”
Minh Châu đang tính mưu kế, có lòng nào xem hát? Một chặp nhìn Cao Sĩ Kỳ, một chặp lén nhìn thần sắc của Khang Hy, bỗng nghe Khang Hy nói như vậy, hoảng kinh run lên, một lúc lâu mới nghĩ lại là Khang Hy nói Mã Sĩ Thành.
Tới màn Chọn đào kép, Hoằng Quang và ca nữ vô cùng vui vẻ. Vua Hoằng Quang cầm trống con, giống như bướm vờn hoa, ông luồn lách giữa đám mười mấy nàng ca kỹ, người đưa ánh mắt, kẻ liếc thu ba, vai nam diễn cực kỳ hay, cất giọng hát:
Xưa cung Ngô mở lại quán con gái, nay Dương Châu lần đầu dạy ngựa gầy. Trống Hoài Dương, đàn sáo Côn Sơn, cửa Vô Tích, Cô Tô gái đẹp. Chỗ nào cũng sôi nổi gió xuân, thổi hơi ấm, nhả khói thuốc, phủi tay áo lạnh, cung nữ nhiều vô kể. Lầu hồng điện thủy, cảnh đẹp khoe tươi. Đều phụng sự thiên tử ta không buồn chán, múa bút huyên thiên.
Khang Hy xem phấn khởi bất giác cười to, quay người nói với Hùng Tứ Lý: “Những con người không có chút lương tâm thế này mà cũng làm thiên tử! Hoằng Quang, Hoằng Quang, có muốn không thất bại cũng đâu có được?”
“Vạn tuế nói chí phải!” Hùng Tứ Lý trước nay chưa hề xem hát cũng xem say mê, thấy Khang Hy nói chuyện với mình vội cười nói: “Trời cướp hồn ông ta dùng phép thần giao cho Đại Thanh ta! Tuồng hát này tuy nói chuyện sử nhưng cũng có ích lớn đối với đạo đời, lòng người!”
Tô Ma Lạt Cô tháp tùng Thái hoàng Thái hậu sau bức màn cũng có cảm khái riêng. Hầu Công tử và Lý Hương Quân lần lượt đi tu sau khi nhà Minh mất, hàng chục năm nay hễ khoát tay một cái thì học trò ông cũng có kết cục y như ông. Tình thế tuy khác, nhưng tâm tình giống nhau, lòng bà bỗng xúc động rơi nước mắt. Thái hoàng Thái hậu thấy bà sắc mặt nhợt nhạt, biết là tuồng hát làm bà xúc động, bèn cười nói: “Tuồng hát tuy hay nhưng quá văn vẻ, ta không ngồi nổi nữa. Trời cũng tối lắm rồi, nhân bọn chúng cầm đèn, chi bằng chúng ta về cung. Ngươi cũng đừng về vườn Sướng xuân, ở cùng ta một đêm nhé...”. Nói xong liền đứng lên, dặn Trương Vạn Cường, “Ngươi ở lại xem hát với Vua, để cho Vua nghỉ một hôm, đừng nói là ta đi, làm vua mất vui”. Rồi nắm tay Phương Lan nói, “Rảnh rỗi thì vào cung nói chuyện cũ cho ta giải khuây”. Nói xong từ cửa sau lệnh giá hồi cung.
Tuồng hát mãi đến đầu giờ Tý mới vãn, Khang Hy xem rất vui lòng hả dạ, ban thưởng cho con hát xong lệnh cho mọi người giải tán. Còn mình hào hứng tìm trà uống, cười nói với Cao Sĩ Kỳ: “Quả thực là cây bút tài tử, tuồng hát hay quá, vì sao không sớm tâu cho Trẫm?” Cao Sĩ Kỳ cười nói: “Khổng Thượng Nhậm là một tú tài gan dạ nổi tiếng, Hổ Thần sợ trong đó có chỗ kỵ húy, nên Nam Kinh diễn xong rồi mới đưa lên. Nô tài vốn cũng muốn xem trước rồi mới mời Chúa thượng xem. Sau nghĩ lại Hổ Thần là người tinh tế, làm sao sai được? Nên mới mạnh dạn”. Khang Hy cười nói: “Khổng Thượng Nhậm là người đã từng được Ngũ tiên sinh tiến cử, dù có lỗi nhỏ thì can hệ gì, đâu cần khanh phải vòng vo mãi mới mời Trẫm? Không biết khoa thi trường bắc, họ Khổng có dự thi không, đừng bị đánh hỏng như khoa thi trường nam?”
Cao Sĩ Kỳ hao tổn tinh thần cũng vì chuyện trường thi nam, khó khăn lắm mới dẫn tới đầu đề này nên vội nói: “Chúa thượng nói tới đây, nô tài xin có lời can gián. Hôm trước Vạn tuế nổi giận, uy trời bất ngờ, nô tài hoảng kinh mất cả tinh thần, có ý kiến gì cũng phải đợi Chúa thượng bớt giận mới dám nói. Nói đến việc trường thi nam, chỉ có thể nói thần làm việc không hết lòng trung thành. Nếu lật trở lại mà xem, thì đây là một việc mừng, có đáng để Vạn tuế tức mình nóng giận lên như vậy không?”
“Khanh nói cái gì?” Khang Hy hỏi, “Làm hỏng kỷ cương trường thi thì có gì đáng mừng?”
“Vạn tuế, mọi việc đều phải xét mặt trái của nó mới toàn diện được! Theo ý nô tài, việc này chứng tỏ lòng văn nhân thiên hạ hướng về Đại Thanh, đó là bước ngoặc sang thời thịnh trị!”
“Hả?”
“Triều ta định nghiệp đã bốn mươi năm, lòng người dao động có rất nhiều nguyên nhân”. Cao Sĩ Kỳ khẩn khoản nói, “Điều lớn nhất không gì khác hơn là văn nhân cố chấp, giải thích sai kinh nghĩa Thánh nhân, cố giữ lấy quan niệm Hoa - Di. Cho nên nhiều kỳ thi không lấy đủ người”.
“Ừ...”.
“Bây giờ người ta không tiếc tiền của chuyên tìm con đường làm quan, là hiện tượng chứng tỏ chính cuộc rất ổn định, mọi việc sẽ hưng thịnh”. Cao Sĩ Kỳ lấy bình thêm nước cho Khang Hy, nói tiếp: “Nô tài nói một câu khó nghe, lúc mới dựng nước, ngay cả thơ của Minh Châu như vậy mà cũng được cái đồng tiến sĩ! Lúc loạn “Tam phiên”, trường thi nam số báo danh thi không đến một phần năm, mà cũng không dám ngừng cuộc thi, tại sao lúc ấy không có người dùng tiền thông đồng làm bậy? Lúc đó không giống bây giờ, thế lớn đã thay đổi! Tất nhiên, có sai kỷ cương thì có việc tài năng không được trọng dụng, nhưng dù sao đó cũng là số ít. Nô tài đã xem danh sách trúng tuyển, danh sĩ Giang Nam trúng tuyển cũng không ít, nên cũng không thể xóa bỏ tất cả...”.
Khang Hy đứng lên, cầm chén nước đi qua đi lại, thấy Cao Sĩ Kỳ ngập ngừng dừng lời, vua cười nói: “Khanh nói tiếp đi, đừng sợ”.
“Vạn tuế quyết ý làm thì phải xử nặng”. Cao Sĩ Kỳ chân mày nổi cao, lo lắng vô cùng nói: “Đúng như Hùng Đông Viên nói, chủ khảo, phó chủ khảo, quan coi thi mười tám phòng, người thì giết, người thì chặt đầu, các văn nhân trúng tuyển ai không hồn siêu phách lạc? Làm nghiêm khắc như vậy, các quan giám khảo sau này cũng phải nhìn mà sợ! Bao nhiêu năm mới tạo được cái không khí văn nhân quy tụ này, lẽ nào ta lại phá tan nó? Vả lại phạm nhân chính làm hỏng kỷ cương trường thi nam Ô Tư Đạo ta chưa bắt được, phía sau có những gì cũng không rõ, trừng trị nghiêm quan giám khảo lại bỏ qua số này, về sau cứ có dịp là đưa tiền vào trường thi, Vạn tuế có làm hay không làm? Cái tốt bây giờ sẽ gây khó cho sau này vậy!”
Khang Hy suy nghĩ, đặt chén nước trên bàn, nói nửa cười nửa không: “Khanh nhất định là được người nào nhờ vả, nhân lúc Trẫm vui vẻ mà dẹp bỏ việc kiện tụng quan trọng số một này sao? Theo ý khanh, hối lộ làm hỏng phép nước, tư lợi gây rối kỷ cương, thì bỏ qua chăng?”
Cao Sĩ Kỳ kinh ngạc, vội quỳ hai gối cái rụp, nói: “Nô tài không dám! Nô tài vốn là thư sinh nghèo khó, đi theo Chúa thượng, nhiều lần được thăng vượt cấp, đã được vinh dự bàn chuyện cơ mật, lẽ nào dám lấy thân mình mà thử phép nước? Ý nô tài muốn nói, sai kỷ cương đương nhiên là không tốt, nhưng Chúa thượng đang nắm cương thường, cái lỗi lầm này dễ chữa trị; nhưng làm rối loạn lòng người thì khó vãn hồi. Chúa thượng thiên chức thông tuệ sáng như mặt trời mặt trăng, có thể soi xét nỗi khổ tâm của nô tài!”
Khang Hy vốn quyết tâm trừng trị xử nặng nhiều tội phạm nhưng nay đã bị cái lưỡi như lò xo của Cao Sĩ Kỳ tác động mạnh. Nhà vua cảm thấy nói có lý. Nhưng nếu không trị, thì cũng không cam lòng, im lặng suy nghĩ rất lâu, Khang Hy mới lẩm bẩm: “Không làm nữa ư?”
“Làm thì phải làm, nhưng không công khai phô trương thanh thế dễ kinh động thời cuộc!” Cao Sĩ Kỳ biết rõ Khang Hy nóng lòng động binh không muốn thời cuộc chấn động, nên nói quả quyết “Điều ngay họ Tả, họ Triệu về kinh, nghiêm khắc tra hỏi, cách chức buộc trả lại tiền hối lộ! Kẻ gây rối ban lệnh mật tra bắt. Đợi việc Đài Loan giải quyết xong, Chúa thượng đi thị sát phía nam, nếu trong số bị đánh rớt quả có người kiến thức tài ba thì chọn đề bạt lên. Như vậy số thí sinh đã trúng tuyển không đến nỗi ngọc đá tan tành cả, những học trò giỏi không trúng tuyển lại được đặc ân đề bạt. Sau này xem xét việc làm của họ, thăng chức cho người trung thành có năng lực, trừng trị kẻ tham lam phạm pháp, chẳng tốt hơn sao?”
Khang Hy nghe nói bất giác chắp tay lại, vừa định nói “Cứ theo ý khanh”, nhưng lại bật ra lời “Hôm nay Trẫm mệt rồi, ngày mai mời phòng dâng thư và ty quan bộ Lễ cùng bàn rồi quyết định!”
Về tới đại nội đã là cuối giờ Tý, Khang Hy đến thẳng điện Dưỡng Tâm. Tuồng hát đêm nay làm nhà vua suy nghĩ liên miên, không chợp mắt được, liền dứt khoát trở dậy, mặc thường phục. Ba năm nay cứ nửa tháng Khang Hy xem sao một lần, không hề quên lãng. Hôm nay tuy chưa tới ngày, nhưng đã không ngủ được, tại sao không xem sao? Thái giám Lý Đức Toàn đang ở tại hành lang, thấy Khang Hy đi ra vội đến chào, định đi gọi thái giám trực đêm tới hầu hạ. Khang Hy khoát tay nói: “Trẫm muốn một mình yên tĩnh, đến một đám đông làm phiền lòng - Hải Đông Thanh mấy hôm nay ăn có khá không?”
“Dạ!” Lý Đức Toàn vái chào đứng lên, đáp: “Hải Đông Thanh khỏe lắm! Ăn cũng khá, có điều phải thả ra, nó sốt ruột thế nào ấy, thấy người vừa cắn vừa kêu. Không có nô tài trước mặt, một miếng nó cũng chẳng chịu ăn...”.
Khang Hy không quan tâm nữa, bước xuống thềm đi tản bộ trong sân vắng lặng. Ánh trăng tàn lạnh ngắt giữa trời giống như cái móc câu bằng ngọc, lúc tỏ lúc mờ, phủ một lớp màu bạc xuống đầu tường, góc điện, lưới sắt, ngựa đồng. Mọi vật đều che phủ một màn sương mơ hồ, mờ mờ ảo ảo, như thực như hư, như không như có.
“Ôi, nhanh thật đấy!” Khang Hy dựa vào bức tường lưu ly, ngước đầu nhìn bầu trời sao dày đặc, bất giác hít một hơi thật sâu. Hai mươi hai năm trước cũng từ chỗ này, nhà vua ngồi xe rồng đến điện Càn Long, lên ngôi làm vua thiên hạ trước linh cữu vua cha. Tâm trạng lúc đó như thế nào nay chỉ còn lờ mờ. Nhưng tháng chạp mười năm về trước, tại nơi này từng màn cảnh trí xảy ra, cho đến chết nhà vua cũng không quên được. Hoàng Phủ Bảo Trụ, thích khách do Ngô Tam Quế sai tới đã nhảy từ nóc nhà phía đông xuống, hướng về mình thú tội ngay tại chỗ. Ngày 23 tháng chạp, Dương Khởi Long làm phản, gây hỗn loạn cũng ở chỗ này, Mục Tử Húc và Võ Đơn liên tiếp chém chết mười mấy tên thái giám mới chặn đứng được khí thế phản nghịch sôi sục... Mấy năm nay không còn những chuyện đó, nhưng việc lớn triều đình như rối hơn nặng hơn trước, làm nhà vua không kịp thở. Hai tên nô tài Sách Ngạch Đồ, Minh Châu tám năm trước còn đồng tâm sát cánh với nhau, mà nay lúc nào cũng cạnh tranh đấu đá nhau, càng ngày càng gay gắt. Khang Hy không lo họ khác ý nhau, giữa đám đại thần thân tín với nhau nên có một chút xa cách, nhưng đến mức nước lửa không dung thì cũng chẳng ra thể thống gì!
Khang Hy vỗ vỗ vào con hạc đồng lạnh ngắt, rồi đi mấy bước, trong lòng không ngừng đảo lộn: Sách Ngạch Đồ là ông ngoại của Hoàng thái tử, việc gì cũng bảo vệ Thái tử, là điều hợp tình hợp lý. Nhưng một người lanh lợi cực kỳ như Minh Châu thì trái lại, gây khó dễ cho Thái tử. Thái tử mặc một bộ quần áo khác lạ cũng xúi người vạch tội? Đứa con nít mới mười tuổi, có cản trở họ việc gì đâu? Minh Châu không hiểu, vua chờ kế vị sớm muộn gì cũng có một ngày lên làm hoàng đế, không sợ bị mất đầu sao? Ánh mắt Khang Hy sáng quắc, đang đoán giải câu đố này.
“Đứa con không chỗ dựa”. Mắt Khang Hy sáng lên, nhớ lại câu chuyện “Đứa trẻ không có mẹ” mà vú già Tôn Ma Ma thường kể lúc còn bé, có mẹ kế thì có cha kế: “Nhất định phải có cách gì, thái tử không có mẹ, trong cung không có người bảo vệ, Trẫm lại đang tuổi tráng niên, sau này không tránh khỏi chuyện yêu mẹ tước đoạt ngôi trưởng!” Khang Hy nhìn về hậu cung, cười lạnh lùng, rồi bước tới trước.
Bây giờ đã cuối giờ Sửu, bầu trời phía tây bắc hơi ửng màu xanh, xuất hiện một giải sáng lờ mờ, màu trăng trắng, như có ai lấy bút chấm thủy ngân nhè nhẹ tô một đường. Sự xuất hiện này lập tức thu hút sự chú ý của Khang Hy. Nhà vua dụi mắt, vẫn cảm thấy chưa thật rõ ràng, liền nhanh chân trở về trong điện, lấy ra từ trong chiếc tủ vàng lớn một vật giống như ống kính vạn hoa. Đây là một đồ chơi do người tây dương Trương Thành từ châu Âu tiến cống, gọi là “kính viễn vọng”. Vì thế Khang Hy đã ân chuẩn cho xây dựng ba nhà thờ thiên chúa ở vùng Tô Hàng, một tòa giáo đường chính phía đông. Khang Hy chỉnh tiêu cự, nhìn lên, bất giác kêu thất thanh: “Sao chổi!”
Chính là sao Chổi, nó vừa xuất hiện, đang di chuyển đến tòa tử vi bằng tốc độ không nhận thấy được. Rồi dần dần, không dùng kính viễn vọng cũng thấy được rõ ràng.
“Cách sao Đế gần như vậy!” Khang Hy lòng nặng trĩu, vội kêu thét lên: “Bay đâu!”
“Dạ!” Lý Đức Toàn dẫn bốn thái giám trực đêm lên tiếng chạy tới.
“Truyền khâm thiên giám chính!”
Việc sao Chổi xuất hiện gây ra mối quan tâm đặc biệt cho trong ngoài triều, nhưng Khang Hy không ra lệnh ngay cho quần thần bàn luận. Mãi đến cuộc hội triều tháng năm mới lệnh cho các đại thần Bộ Viện nói lên ý kiến của mình. Hôm đó, vào canh năm, các đại thần phòng dâng thư ngồi kiệu đi thẳng tới cửa Càn Thanh. Các Bộ từ Thượng thư, Thị lang trở lên có đến sáu bảy mươi người, có người đứng trước hiên, có người ghé tai thì thầm, có người ngóng nhìn về phía tây bắc sân chầu, đón đợi, suy nghĩ trả lời câu hỏi của Khang Hy như thế nào. Minh Châu vốn nghĩ Khang Hy nhất định có lệnh trước cho trình thẻ vào gặp, ai dè đợi cả buổi chẳng có tin tức gì, gọi thái giám cung Càn Thanh đến hỏi, mới biết Khang Hy trai giới năm ngày, sáng sớm hôm nay đã tới Thiên đàn cúng tế, trở về phụng ý chỉ Thái hoàng Thái hậu bắt phải làm tiệc rượu nhỏ một canh giờ nữa mới cho gặp các quan. Mãi đến đầu giờ Thìn mới thấy kiệu Khang Hy đi tới sân chầu. Các vị Hùng Tứ Lý... đã quỳ lâu dưới đất, yên lặng theo hầu vua đi vào cung Càn Thanh.
“Việc sao Chổi mọi người đều biết rồi”. Khang Hy ngồi xuống đợi chúng thần lục tục bước vào, làm lễ xong bèn đi thẳng vào đề, “Những việc như vậy sử sách nói nhiều vô kể, chẳng phải là việc hiếm hoi kỳ lạ gì. Chỉ vì hiện nay xuất hiện không phải lúc, cũng không nhằm chỗ, nên mới triệu các khanh vào nghị bàn”. Nhà vua ung dung uống một ngụm sữa tươi vừa mới dâng lên, nói tiếp, “Vừa rồi, Thái hoàng Thái hậu nói rất có lý, có sự biến đổi của trời phải nghĩ đến việc người. Nhưng việc trời biến đổi này liên can đến việc người nào phải suy nghĩ cặn kẽ, có gì nói nấy, không nên kỵ húy”.
Minh Châu vì sự việc trường nam, còn chưa hết cơn sợ hãi, sợ có người mượn cớ phát huy, hai đầu gối lê tới trước nửa bước giành nói trước: “Thần cho rằng trước nay sao Chổi xuất hiện, phần lớn do nước nhà có việc binh lửa. Sao Chổi xuất hiện phía tây bắc di chuyển đến sao Đế đúng lúc Chuẩn Cát Nhĩ xâm nhập vùng Mạc Nam Mông Cổ. Vùng Hắc Long Giang lại có tướng Nga, Mô-li-nich dẫn quân Cô-dắc chiếm đoạt Mộc Thành, thành Nhã Khắc Tát của ta, cho nên sao trời cảnh tỉnh, xin Thánh thượng minh xét!”
“Việc Hắc Long Giang và Chuẩn Cát Nhĩ không phải ngày một ngày hai, mà Hắc Long Giang lại ở phía đông bắc”, Sách Ngạch Đồ lo lắng nói, “Trước, Chúa thượng đã chiếu mệnh cho Ba Hải, Châu Bồi Công tìm dịp quét sạch ổ giặc không thấy công hiệu, việc trời biến đổi này vẫn xuất hiện, thần quả ngu dốt không rõ nguyên do gì”. Chuyện cuộc thi mùa thu trường nam Sách Ngạch Đồ đã tức đầy bụng. Vì Khang Hy chủ trương làm nghiêm, ông đã bảo bộ Lại làm văn bản tức tốc cách chức ngay mấy vị quan địa phương, nhưng khi chiếu triều đình ban xuống, thì “chánh phạm” chánh chủ khảo, phó chủ khảo chỉ cách chức đuổi về quê, các quan coi phòng thi cũng chỉ phạt bổng hạ phẩm cấp, một vụ án trời long đất lở như vậy đã bị “chìm xuồng” lúc nào không hay, Sách Ngạch Đồ thì bị mang tiếng là nghiệt ngã hẹp hòi. Sách Ngạch Đồ thấy Khang Hy trầm ngâm không nói, đang định tâu thêm, thì Lý Quang Địa bên cạnh đã nói to: “Thần cho rằng tây bắc, đông bắc đều liên can. Do trong triều tiểu nhân gây rối, làm loạn triều chính, làm hỏng phép chọn nhân tài quốc gia, tham tiền bẻ cong luật nước, lừa dối Chúa thượng. Cho nên sao Chổi xuất hiện bên cạnh tử vi!”
Những lời này nói lên vô cùng khảng khái, các đại thần bộ, viện ai cũng thất sắc. Khang Hy suy nghĩ, nghiêng người hỏi: “Lý Quang Địa muốn nói ai, cứ nói rõ ra”. Lý Quang Địa sững người, trong bụng biết chắc là Minh Châu, nhưng không có chứng cứ. Một lúc lâu mới nói: “Thần không biết nội tình, không thể chỉ ra sự thật. Nhưng tội nặng xử nhẹ mọi người đều thấy. Xin Chúa thượng sáng suốt quan sát thì không khó tìm ra kẻ tiểu nhân, tiểu nhân mà loại ra được, sao Chổi tự nhiên mất đi!”
Cao Sĩ Kỳ trước nay thuận buồm xuôi gió. Đây là lần đầu tiên có việc trực tiếp đe dọa sự an toàn bản thân, nhìn bộ mặt Sách Ngạch Đồ không có chút biểu hiện vui buồn, lòng anh phát ớn lạnh. Nhưng bây giờ tùy tiện nói ra thì chẳng khác gì “Lạy ông tôi ở bụi này”, giúp Sách Ngạch Đồ tra tìm được ai là “tiểu nhân”, anh liền có chủ ý: Chỉ cần không nêu tên ông già, thì cứ xem như nói về người khác. Trong lòng đã trấn tĩnh, sắc mặt cũng điềm nhiên nhìn Khang Hy. Hùng Tứ Lý không hiểu uẩn khúc bên trong, không dám nói liều; Minh Châu biết mình mở miệng là bao nhiêu người sẽ công kích, nên cũng nín thinh không nói. Các đại thần phòng dâng thư không mở mồm thì đại thần các bộ, viện ai dám đứng ra xuất đầu lộ diện? Bỗng chốc không khí trong điện như ngưng đọng, đông cứng, yên lặng như cõi chết.
Khang Hy cũng yên lặng uống sữa, liếc nhìn một lượt các đại thần, khi nhìn đến Thượng thư bộ Lại Lương Thanh Tiêu, bốn mắt nhìn nhau, nhà vua cười nói: “Hôm nay, người nói không có tội. Lương Thanh Tiêu, hình như khanh có lời muốn nói?”
“Vâng ạ!” Lưu Thanh Tiêu đằng hắng lấy giọng, nói to: “Đã là trên trời cảnh báo, tất phải là việc lớn nhất, công việc lớn nhất của triều đình hôm nay là gì?” ông tự đặt câu hỏi, rồi nói tiếp, “Đương nhiên là Đài Loan! Nhớ lại hồi mới bình định loạn Tam phiên, vua ta đã có chiếu nói rõ, nay bọn đại nghịch tạm dẹp yên, vết thương chưa hồi phục, bãi binh, dưỡng dân, cho thiên hạ nghỉ ngơi, lúc đó thần lãnh chỉ, bất giác vui vẻ phấn khởi, cảm kích vô cùng, những tưởng đã tới ngày thiên hạ thanh bình. Không ngờ thánh dụ ban ra chưa đầy hai năm, không biết vì cớ gì mà Hoàng thượng thay đổi ý ban đầu? Đài Loan vốn là một mảnh đất bên ngoài, bọn giặc cướp ngoan cố chiếm cứ, tranh nhau vùng cách xa đất liền quả thực là việc làm tốn tiền khổ dân! Cuộc chiến chết chóc hung hiểm, thắng bại khó lường, vậy ‘bãi binh dưỡng dân’ ở chỗ nào? Lại nghe Hoàng thượng còn trù liệu cuộc chiến ở phía tây, như vậy xem ra năm nào cũng xuất quân, thì ra ‘để thiên hạ nghỉ ngơi’ chẳng phải là lời nói suông?”
Vị Lương Thanh Tiêu này hễ mở miệng là đụng chạm xúc phạm chết người. Thời mới bắt đầu “Tam phiên” ông đã từng làm khâm sai đại thần đến chỗ Thượng Chi Tín ở Quảng Đông truyền chỉ, thập tử nhất sinh trốn về đến Bắc Kinh, mọi người xem là kẻ sĩ trung trinh, nên nói năng không chút dè dặt chẳng sợ gì ai, ngay cả sắc mặt Khang Hy cũng chẳng nhìn, chỉ cố nói ra ý mình, nước bọt bắn tứ tung, “Trời cao cảnh báo xuống, thần cho rằng muốn chỉ Hoàng thượng tự nuốt lời hứa của mình. Nếu có thể thay đàn đổi dây, rút thủy sư Thi Lang lại, đồn điền nghỉ ngơi, bỏ kế hoạch tây chinh, thì sao Chổi tất sẽ biến mất...”.
Khang Hy nghe ông ta nói nặng bậy bạ, nói mình là nuốt lời hứa, tức giận tái mặt. Nhớ lại mình vừa nói “người nói không có tội”, cố nén nhịn mấy lần mới nghe hết lời ông ta ba hoa chích chòe. Nhà vua lạnh lùng hỏi: “Nói xong chưa, còn gì nữa không?”
Lương Thanh Tiêu đã nghe thấy giọng nói của Khang Hy hơi khác, vội liên tiếp dập đầu nói: “Cho phép thần tâu hết. Thần cho rằng những điều tướng quân Lại Tháp Phúc Kiến tâu lên là những lời thành tâm lo cho đất nước. Xem Đài Loan như Ky Tử của Triều Tiên, Từ Phúc của Nhật Bản, thì không gây họa cho đời, không tranh giành với người, mà sinh linh vùng duyên hải không phải kêu ca oán trách!”
“Từ đời Hán, Đài Loan đã nhập vào bản đồ Trung Quốc, thời Tống đã thuộc khu cai trị của huyện Tấn Giang. Lương Thanh Tiêu, ngươi cũng giống như Lại Tháp, học hành dốt nát mà lại thích làm thầy người ta!” Khang Hy đốp chất bác lời Lương Thanh Tiêu, chỉ vì lời hứa người nói không có tội mới cố giằn lòng không nổi khùng lên, “Trẫm đã nói lời ‘cho dân nghỉ ngơi’, nhưng hiện nay đất nước chưa vẹn toàn, âu vàng còn khuyết, vùng biển bị giặc cướp ngoan cố cát cứ, bốn bên biên cương dân không yên ổn, xin hỏi ngươi Lương Thanh Tiêu, bảo Trẫm nghỉ ngơi làm sao được?” Nhà vua tuy không tức giận đập bàn, nhưng tình cảm giận dữ tuôn ra thành lời, từng câu ném ra nghe nặng trịch. Lương Thanh Tiêu cúi đầu, đang suy nghĩ trả lời thế nào thì Lý Quang Địa bên cạnh nói to: “Thần cho rằng điều Chúa thượng vừa nói là đường đường chân lý, Lương Thanh Tiêu không biết lẽ trời, mù tịt đạo người, quả thực mê muội tối tăm! Trên trời giáng điềm tây bắc, sao Chổi đi chuyển sang sao Đế phía đông nam, đúng là lúc đem binh trời tức tốc quét sạch vùng biển, nên gấp hạ chiếu lệnh cho Thi Lang phất cờ đem quân vượt biển, san bằng nhà cửa, quét sạch hang ổ, có thể một trận đánh kết thúc thành công!”
Cả triều ai cũng biết Lý Quang Địa là người đầu tiên dâng biểu xin quân tiến đánh Đài Loan, cho nên người tán thành ít, anh ta bực bội từ lâu, nay nhân Khang Hy nghiêm khắc chỉ trích Lương Thanh Tiêu nên đứng ra nói thêm một câu. Lương Thanh Tiêu vốn không biết nói sao, bị Lý Quang Địa nói lời khích bác cũng không chịu thua, khấu đầu nói: “Lý Quang Địa cố nhiên biết lẽ trời, thông đạo người, nhưng lại không biết dùng binh dễ, vận lương khó! Thần cho rằng dù muốn lấy Đài Loan, cũng phải đợi lúc sông đào vận chuyển thông thương, việc điều khiển binh lương ứng phó đầy đủ, nên biết cuộc chiến mà thất lợi, thì gây họa vô cùng cho vùng đông nam. Mong Chúa thượng minh xét!”
“Lời này còn nghe được, hợp tình hợp lý”. Khang Hy chau mày thở ra nói, “Việc Đài Loan hãy nghe Thi Lang và Diêu Khải Thánh nói như thế nào, sẽ định đoạt sau.” Nói xong nhà vua đứng lên, chậm rãi bước xuống ngai vàng, bước đi giữa đám đại thần đang quỳ, cất cao giọng nói: “Người quân tử sợ số trời là lời của thánh hiền, nhưng lẽ trời biến hóa nhất định càng phải thận trọng đặc biệt. Năm Khang Hy thứ 8, sao Chổi xuất hiện, có người nói không có lợi đối với Trẫm, thì đúng trong năm đó trừ được Ngao Bái; năm thứ 10 động đất, kinh sư đồn đại bao lời ong tiếng ve, Trẫm lấy bất biến ứng vạn biến, cũng chẳng xảy ra việc gì; mùa đông năm thứ 12, sao Chổi lại xuất hiện, Ngô Tam Quế mưu phản, Trẫm quyết chí triệt phiên kết quả thế nào? Các khanh đều thấy cả rồi! Trẫm khuyên các khanh một câu, phải làm tôi hiền, tôi giỏi, không nên làm tôi trung, tôi liệt. Có tôi hiền thì có vua sáng, có tôi giỏi thì được đời yên; khi xuất hiện tôi trung thì cũng là lúc vua tối, nước loạn. Bề tôi đêm khuya thanh tịnh nên tự hỏi lòng mình, điều các ngươi nói, việc các ngươi làm, là vì Trẫm, vì dân, vì xã tắc, hay là vì danh lợi cho riêng nhà các ngươi, hoặc suy nghĩ nhiều cho việc lập bè kéo đảng? Bãi triều”.

