Khang Hy Đại Đế - TẬP 3 - Chương 29
29
Vua Khang Hy đêm thăm tiểu Châu Lang
Cao Giang Thôn chẩn đoán mạch thái tố
Dinh đề đốc Châu Bồi Công đặt trong cửa tây nhỏ, nằm một dải đen sì. Ba cái cửa son lớn hai bên treo hai chiếc đèn lồng tre rõ to, chiếu xuống thấy đỏ cả một mảng tuyết trước tường, nhưng không thấy một bóng người. Ven theo dẫy tường trước cửa lớn có mười mấy cây cọc, không biết để làm gì. Khang Hy xuống xe nhìn ngang nhìn dọc, đang lạ lùng sao mà một người gác cửa cũng không thấy, bỗng nghe một tiếng trầm quát to: “Ở nha môn nào, tới đây có việc gì?” Khang Hy giật mình, nhìn kỹ lại, thì ra những “cây cọc” sát tường đều là lính gác, trên mũ, trên quần áo đều phủ một lớp tuyết dày, không động đậy, y như người đá.
Ngụy Đông Đình đã nhìn thấy từ trước, ông cười đang định trả lời, thì Khang Hy đã nói: “Chúng ta là thị vệ ngự tiền từ Bắc Kinh tới, là bạn cố tri của Bồi Công. Nghe nói ông ta bệnh nên đến thăm”.
“Xin đại nhân đợi cho một lát, để tiểu nhân bẩm báo”. Tên lính gác nói chậm rãi, “Quân môn bệnh nặng, chưa chắc đã tiếp khách được!” Nói xong đi vào. Một lát sau, hộ lãnh trung quân bên trong từ nghi môn đi ra, vái Khang Hy một cái, nói: “Thị vệ đại nhân thông cảm, Châu quân môn bệnh, thực tình không thể ra đón, xin quá bước vào bên trong...”.
Vua tôi mười mấy người đi theo gã trung quân hộ lãnh, bước trên tuyết mà vào. Trong nha môn gió nhẹ đi nhiều, tuyết rơi xào xạc, cảnh vật tĩnh lặng. Vừa vòng qua sảnh hoa đã nghe trong thư phòng vẳng ra tiếng đàn tình tang thủ thỉ. Nhìn qua màn mưa tuyết, thấy bóng nghiêng một người cao gầy trên song cửa sổ, đang gẩy đàn ra vẻ rất nhọc sức. Gã trung quân hộ lãnh định vào trong thông báo đã bị Khang Hy kéo tay ngăn lại, cười nói: “Ta với Bồi Công không phải bạn bình thường, không nên làm mất hứng thú của ông!” Rồi đứng dưới hành lang lắng nghe, đám người Ngụy Đông Đình lại không dám tránh tuyết, chỉ đứng trong sân hầu lệnh.
Bỗng chốc tiếng đàn trở nên hùng hồn, như nước chảy đá trôi, ngàn quân giao chiến, lại như gió lốc cuốn cờ, Khang Hy cảm thấy máu nóng trong người sùng sục, trào sôi. Đột nhiên tiếng đàn chuyển điệu, như giọt nước trong khe lạnh, u buồn sầu thảm, có tiếng ngâm khe khẽ:
Tiếng đàn tiếng người hề, thảy đều xa thẳm,
Đồng tiêu, phượng vĩ hề, tơ đàn không vương.
Cát trôi ngàn dặm hề, ngày xưa trên cao,
Lẽ nào tơ rơi hề, gió đông ngừng thổi!
Lau cói nước trong hề, xanh ngắt vô tình.
Thuyền côi đi rồi hề, chỉ ta sầu thảm.
Số mệnh tối tăm hề, khiến ta lẻ loi
Trước đèn ngâm nga hề, nguôi lòng thương cảm.
“Buồn thay! Tấm lòng u uất đến thế này sao!” Không nín được, Khang Hy thở dài một tiếng, “Có việc gì mà Châu Bồi Công đau thương làm vậy?”
Châu Bồi Công ngừng đàn, khẽ ho một tiếng, nói với người ngoài song cửa: “Thật là người tri âm, là nhân huynh nào vậy? Xin mời vào”.
Khang Hy bước vào nhà bỗng sửng sốt. Đây là thư phòng với hai gian nhà xếp đặt rất thanh nhã, giản dị. Trên giá gỗ tùng đỏ, có từng chồng sách, trên tường treo một thanh kiếm báu Long Tuyền, góc tường là chiếc bình sứ kiểu mỹ nhân trong bình cắm cầm phất trần lông gà rừng và chiếc lông công. Trên chiếc giường tre bên cạnh giá sách, Châu Bồi Công ngồi trước đèn, cây đàn ngang bụng, khăn đen quấn đầu, mặt trắng bệch, người gầy gò, dáng vô cùng uể oải. Mới nhìn, Khang Hy hầu như không tin ở mắt mình: Có lẽ nào đây là trang tướng trẻ nho nhã Châu Bồi Công, tài thơ áp đảo đám anh hào tại hội quán Tương Ngạc, hội thề xuất quân Nam Uyển, trảm binh áp trận, lên bắc lấy Sát Cáp Nhĩ, sang tây đánh quỵ Cam Thiểm, uốn ba tấc lưỡi chiếm Bình Lương đó chăng?
Một cơn gió cuốn hoa tuyết thổi vào thư phòng. Khang Hy bất giác thấy lạnh. Châu Bồi Công dồn hết tâm trí, trong lúc mơ màng thấy Khang Hy, anh như bị điện giật toàn thân run lên, ánh mắt sáng lên, kêu lên: “A Hoàng thượng!” Anh bật dậy nhảy phóc xuống giường, quỳ xuống liên tiếp khấu đầu, nói giọng run run: “Nô tài Châu Bồi Công cung thỉnh thánh an! Không biết Hoàng thượng giá lâm, đó... đó thật là...”.
“Có sao đâu?” Khang Hy cúi người nắm tay kéo anh đứng lên, cười nói, “Trẫm tới Phụng Thiên hai ngày rồi, nghe nói khanh bệnh, nên tới thăm rốt cục là thế nào? Khanh cứ ngồi lên đi, trời lạnh lắm...” Châu Bồi Công tạ ơn rồi khó nhọc trèo lên ngồi lại chỗ cũ, kéo chiếc áo bông mặc vào. Khang Hy không nói gì, tay chắp sau lưng xem chữ trên tường. Thấy có đề:
Trồng thông không khó gió lay
Chăm hoa cũng muốn có ngày ngắm trăng.
Có sách có quên buồn chăng
Nâng ly những muốn tiêu tan khổ sầu.
Kiểu chữ Liễu thể nét bút rất sinh động. Khang Hy gật gật đầu, thấy trên bàn có chồng bản thảo, cầm lên xem, nói: “Chữ khanh viết rất đẹp, ừm Sách cổ kim tổng tập! Vẫn còn chưa hoàn thành, khanh viết đấy à?”
“Kính bẩm Hoàng thượng”. Châu Bồi Công nghiêng mình nói, “Nô tài hồi nhỏ có chí viết sách. Từ năm Khang Hy thứ 9 nhờ ơn Thánh thượng được làm tướng dẫn quân, nên đã gác bút không còn nghĩ đến việc ấy nữa, cũng không viết được loại sách như vậy, đây là bản thảo của Trần Mộng Lôi đem tới cho nô tài xem”. Khang Hy gật đầu cười nói: “Tài học của Trần Mộng Lôi không thua kém Lý Quang Địa. Vì vụ án Lạp Hoàn bị cách chức đổi tới đây, không ngờ các ngươi là bạn bè. Trẫm định sau hai năm sẽ triệu anh ta về kinh, không dè việc nhiều quên mất. Anh ta yên tâm viết sách, điều này rất tốt. Nhưng chỉ vì vụ án anh ta không rõ ràng, vận may không đến, chẳng có cách nào khác”.
Khang Hy không muốn nói tiếp đề tài này nữa, thấy lính hầu bưng lò sưởi tay tới liền ôm lấy sưởi ấm, hỏi: “Sâm núi Trẫm ban cho khanh đã dùng chưa? Ba Hải trước có sớ tâu nói khanh bệnh, xem ra bệnh không nhẹ. Cao Sĩ Kỳ khanh vào đây!” Nói xong đến ngồi trên chiếc ghế xích đu.
Châu Bồi Công buồn rầu nhìn ngọn nến đỏ, nước mắt rưng rưng. Năm đó, anh lang thanh ở kinh sư không cơm ăn áo mặc, trong cơn khốn đốn gặp cô gái nghèo A Tỏa giúp đỡ, nghĩa nặng tình sâu, ghi lòng tạc dạ, không ngờ vinh quy kéo quân về, Minh Châu giở trò láu cá, A Tỏa ôm cầm đàn khác, lấy một ông già hơn năm mươi tuổi là Hà Quế Trụ. Do đó sinh bệnh, nhưng vẫn chưa tới lúc nguy kịch không phương cứu chữa. Anh thì cầm quân bên ngoài, lại là một tướng nho nổi tiếng, vốn quyết chí lớn đại trượng phu lập công ngoài biên ải da ngựa bọc thây. Ai ngờ sau khi tới Phụng Thiên, do thủy thổ không hợp, anh ngã bệnh. Lại thêm thủ lĩnh vây cánh Thái tử Sách Ngạch Đồ không ngừng tăng binh, mấy lần viết thư bảo anh “vì Ông chủ nhỏ mà giữ gìn sức khỏe”, ngầm có ý bảo anh vào phe cánh. Châu Bồi Công trước nay coi trọng việc nước, lo sợ những lời sàm tấu, làm sao dám tội trong vũng nước đục? Nhưng nếu không đáp ứng, một khi Thái tử lên ngôi, càng thành to chuyện, tiến lui cũng đều là vực thẳm, buồn lo càng nhiều, làm bệnh nặng thêm không khỏi. Nghe Khang Hy quan tâm như vậy, lòng tràn đầy xúc động, anh khẽ than rằng: “Nô tài chỉ bệnh xoàng thôi, đội ơn Chúa thượng ban thuốc, dù chết thành tro bụi cũng không dám quên. Nô tài thuở nhỏ vốn yếu đuối, nhận lệnh chinh phạt không chịu nổi lao khổ trên yên ngựa, lại thêm không giỏi điều dưỡng, thành bệnh trầm kha. Nô tài cũng biết chút ít nghề thuốc, không đến nỗi chết ngay tức khắc, nhưng không hy vọng chữa lành, sợ làm nhọc nhằn người khác, nên cũng không dám lấy vợ”. Nói tới đây Châu Bồi Công chua xót trong lòng, nhưng lập tức bình tĩnh lại, mỉm cười nói: “Từ nhỏ đi học đã biết đạo lập mệnh của người quân tử, nô tài là hạt cát nhỏ gặp hội rồng mây cùng với Chúa thượng anh minh, lập công biên ải, phụng sự nước nhà. Giả dụ ngày ấy chết ở Bình Lương, thì có gì đáng tiếc? Sống chết có số không đáng lo buồn, nhưng Bồi Công còn có chút tâm nguyện muốn phơi gan trải mật trình với Hoàng thượng!”
Khang Hy chú ý lắng nghe, thấy Bồi Công một lòng thành thực, bất giác nước mắt tuôn rơi. Giả vờ dụi mắt, Khang Hy cười nói: “Chàng ngốc! Cần gì phải tự oán trách mình, như một ả hồng nhan bạc mệnh vậy!”, Châu Bồi Công nói chậm rãi: “Từ xưa bạc mệnh đâu chỉ kẻ hồng nhan? Nhan Uyên đời Chu, Giả Nghi đời Hán, ba mươi ba tuổi mùa xuân gửi trong cõi mộng. Nô tài không dám tự sánh với người hiền xưa, nhưng tuổi nay ba lăm, so ra tự đã thấy là đủ”. Khang Hy ngẫm nghĩ hồi lâu, bỗng cười sảng khoái, nói: “Đừng nói chuyện đó nữa, đợi Cao Sĩ Kỳ xem mạch cho khanh, chữa khỏi rồi, Trẫm sẽ bác khanh về những lời xằng bậy. Bây giờ nói xem, khanh có tâm nguyện gì?”
“Vị này chắc là Cao tiên sinh”, Châu Bồi Công quay mặt nhìn Cao Sĩ Kỳ đang ngơ ngác, nói, “Nô tài tâu lời này không muốn để người ngoài nghe, nhưng Giang Thôn vốn là tâm phúc của Thánh thượng, nô tài xin mạnh dạn nói thẳng!”
Cao Sĩ Kỳ vẫn đang nghĩ cách chữa bệnh cho Châu Bồi Công. Bằng trực giác của mình, Châu Bồi Công là người khó chữa trị nhất, khuyên không nghe, dọa không sợ; đã nói biết phép làm thuốc, thì nghề thuốc cũng không tồi. Đang nghĩ cách làm thế nào, bỗng nghe câu chuyện chuyển sang phía mình, vội nói: “Bồi Công người trực tính, Giang Thôn không phụng thánh mệnh quyết không truyền cho người thứ hai! Tuy vậy nô tài thấy cáo lui là hơn”.
“Không cần”. Sắc mặt Khang Hy không biểu lộ chút tình cảm gì, “Bồi Công cứ nói không ngại”.
“Chuẩn Cát Nhĩ là mối họa lớn đối với nước nhà!” Châu Bồi Công lấy lại tinh thần, sắc mặt hơi đỏ lên, rút ra từ trên giá một tấm bản đồ, cẩn thận trải ra, lấy ngón tay chỉ vào nói, “Nước La Sát dã tâm lang sói, đông bắc quấy biên cương, tây bắc âm mưu làm phản, xem như hai việc, thực ra nó dính với nhau làm một. Vua mới nước La Sát Pi-ốt là gian hùng thời nay, với Cát Nhĩ Đơn vừa đánh vừa lôi kéo, ra sức quấy phá vùng đông bắc ta. Cát Nhĩ Đơn mượn thế lực La Sát, ý muốn cát cứ, nhưng không biết nước La Sát dùng họ cả hai là để trục lợi, quân ta đánh phía đông thì phía tây hưởng ứng, đánh phía tây thì không còn sức để quản phía đông. Ngón đòn này của Pi-ốt không thể nói là không hiểm ác!”
“Ừm!” Khang Hy nói, “Khanh nói đúng. Có điều Trẫm không phải dễ chơi đâu!”
“Đương nhiên!” Châu Bồi Công nói “Nô tài xem thông báo, dùng Thi Lang đánh lấy Đài Loan, thiên thời, địa lợi, nhân hòa đều đủ, việc Đài Loan không cần dùng bao nhiêu thời gian. Nhưng sau việc Đài Loan, Chúa thượng động binh ở đâu? Đông bắc hay tây bắc?” Khang Hy suy nghĩ rồi nói: “Trước hết tiêu diệt Cát Nhĩ Đơn, La Sát không còn nội ứng nữa, phía Hắc Long Giang, chúng nó cũng sẽ biết điều hơn!” “Hoàng thượng sáng suốt!” Châu Bồi Công vừa xúc động vừa khâm phục, vội ca ngợi: “Nô tài nghĩ kỹ mấy năm nay, Hoàng thượng nói ra được ngay!”.
Thực ra Khang Hy cũng đã suy nghĩ mấy năm. Sự tình tây bắc nghiêm trọng nhà vua đã rõ mồn một, nhưng những phức tạp cụ thể trong đó thì không nắm chắc. Ngẩn người một lúc, Khang Hy mới nói: “Đại để tình hình Chuẩn Cát Nhĩ thế nào? Khanh nói thử xem”.
Châu Bồi Công ngoắc cái đuôi sam ra phía sau, lật tay áo chẽn, rồi đốt một ngọn nến đặt lên sát tấm bản đồ, lấy ngón tay vẽ, nói: “Chuẩn Cát Nhĩ là hậu duệ của Oát Diệc Thích đời Nguyên, là một trong năm bộ Ách Lỗ Đặc tây Mông Cổ”. Châu Bồi Công mỉm cười; thần sắc không giống người bệnh lâu năm, “Đất của nó, bắc giáp Thiên Sơn, nam tiếp I-ri, tây liền với Ban Căng. Sông Sở, sông La Tư chảy ngang qua. Trong bài ca Sắc Lặc nói là ‘Trời xanh xanh, đồng mênh mông, gió thổi cỏ rạp thấy dê bò’ là chỉ vùng đất bao la mầu mỡ đó! Mục Vương thời Tây Chu đã từng đến đây, thời Hán cũng nằm trong bản đồ Trung Quốc...” Châu Bồi Công nói thao thao bất tuyệt, ánh mắt rực sáng, tinh thần phấn chấn. Từ những biến đổi lịch sử có mối quan hệ chằng chịt với Cát Nhĩ Đơn như thế nào, anh nói đĩnh đạc rõ ràng từng chi tiết. Cao Sĩ Kỳ đứng bên nghe, trong lòng vô cùng khâm phục: “Nói ông ta mắng chết người, ta không tin, thật là người có tài ăn nói, có tầm suy nghĩ! Hùng Tứ Lý nhiều lần tiến cử Phi Dương Cổ làm tướng, chả trách Chúa thượng lại chỉ một lòng dùng ông ta!”
Khang Hy một tay chống cằm, ngồi xuống bên bàn, vừa nghe vừa gật đầu, không ngừng “ừm” “ừm”. Đợi Châu Bồi Công nói xong, mới nói: “Trẫm thấy Cát Nhĩ Đơn là con người nham hiểm gian manh, thay đổi thất thường, lại nắm địa vị cao như vậy, thì quả là kẻ địch mạnh!” Châu Bồi Công khẽ lắc đầu, nói nhỏ: “Chúa thượng anh minh, nhìn suốt vạn dặm, nhưng đã nhìn lầm tên Cát Nhĩ Đơn này!” Cao Sĩ Kỳ kinh ngạc, bất giác liếc nhìn Châu Bồi Công, từ khi anh vào phòng dâng thư, chưa hề nghe một ông quan nào dám nói trước mặt Khang Hy là “nhìn lầm” người. Nhưng Khang Hy không chú ý điều này, nhà vua nghiêng người tới trước, nhìn thẳng Châu Bồi Công nói: “Khanh nói kỹ hơn một chút! Hắn tự ý tiêu diệt ba bộ Ca Nhĩ Ca, lại dâng sớ xưng thần vào dâng cống; nói là xin hòa, lại thậm thụt đi lại với La Sát; câu kết với La Sát rõ ràng như vậy, vừa chơi tốt với La Sát, nhưng lại như còn cảnh giác, chẳng phải là thay đổi thất thường ư?”
“Cát Nhĩ Đơn quyết không phải là con người thay đổi bất thường”. Châu Bồi Công nhìn thẳng vào mắt Khang Hy, nói quả quyết “Hắn dùng kế hợp tung thời Chiến quốc!”
“Hợp tung!”
Châu Bồi Công cười: “Cũng là kế kết bạn người xa, đánh kẻ gần. Hắn ra tay đánh phá Chuẩn Cát Nhĩ tây Mông Cổ lân cận, tàn sát ghê gớm, nhưng lại dùng lạc đà chở vàng, đồ quý tặng cho các Vương công nam bắc sa mạc. Hắn sai sứ vào kinh tiến cống, hạ mình xưng thần, nhưng tiêu diệt một lúc ba bộ Ca Nhĩ Ca, đập vỡ tấm bình phong phía tây của Hoàng thượng. Hắn cung kính quỳ gối hầu hạ La Sát, chính là cần súng ống, trang bị, một khi lông cánh đầy đủ, móng vuốt sắc nhọn rồi thì nhất định đánh xuống đông, trước hết lấy Nội Mông, lúc đó hắn mới trở mặt với Hoàng thượng!” Khang Hy nghĩ lại những điều A Tú nói, Cát Nhĩ Đơn đào mỏ vàng ở Chuẩn Cát Nhĩ, tặng cho Vương Khoa Nhĩ Tấm hơn năm vạn lượng, lòng bỗng có ý định, hôm nay trở về phải hỏi ra việc này. Đang định nói thì Cao Sĩ Kỳ cười nói: “Bây giờ thời Chiến quốc đã qua hơn hai ngàn năm, tình hình khác xa rồi, Hoàng thượng là Chúa chung thiên hạ, chín châu hợp nhất, chánh sự cùng một cửa, làm sao so sánh với thời sáu nước ô hợp?” Châu Bồi Công mắt sáng lên, nói: “Cái sai trong kế hoạch của Cát Nhĩ Đơn chính là ở chỗ này”.
Khang Hy gật đầu nói: “Loạn ‘tam phiên’ Trẫm chưa trực tiếp điều hành. Một khi đánh nhau với Cát Nhĩ Đơn, Trẫm phải tự mình thống lĩnh ba quân quần nhau với chúng!”
“Nô tài cho rằng Hoàng thượng thân đi đánh giặc việc quan trọng nhất là đốc lương”. Châu Bồi Công nói rất hưng phấn, lấy ngón tay gõ lên tấm bản đồ nói, “Hai con đường nam bắc Thiên Sơn có thuyết nói tám thành giàu, tám thành nghèo, bắc từ Ô-lô-u-xi về tây, nam từ A-khắc-tô về tây, đất màu suối ngọt sản vật phong phú, đó gọi là ‘tám thành giàu’; bốn thành từ Ô-lô-mu-xi về đông địa thế cao lạnh, núi khe nhiều, sông bằng phẳng ít, bốn thành từ nam Ca Mật về tây đất nóng hẹp phần nhiều là sa mạc lớn Gô-bi, gọi là ‘tám thành nghèo’. Chúa thượng nếu đảm bảo lương thực cho quân ta, lệnh cho một thượng tướng cắt đứt con đường về tây của Cát Nhĩ Đơn qua tám thành giàu, nếu con đường tiếp lương mà đứt thì dù không đánh, cái đói cũng làm Cát Nhĩ Đơn gục ngã!”
Khang Hy nghe nói, trầm ngâm: “Bồi Công, khanh xem ai làm chủ tướng được? Sách Ngạch Đồ được chăng?”
Châu Bồi Công im lặng rất lâu, rồi thận trọng chọn từ nói: “Tể tướng Sách chức ở trung tâm, dẫn quân đến trước kẻ thù, thần không dám chắc”.
“Vậy thì Ba Hải thế nào?”
“Không được”. Châu Bồi Công nói không chút do dự, “Ba Hải ở Phụng Thiên qua lại với La Sát nhiều năm, không nên bỏ cái sở trường mà dùng sở đoản”.
Khang Hy liên tiếp nói tên sáu bảy ông tướng, Châu Bồi Công đều cảm thấy không thích hợp, thở dài một hơi, nói “Tiếc thay cho Đồ Hải, mắc chứng trúng phong”. Lại suy nghĩ rất lâu, ánh mắt bỗng sáng lên: “Sao Hoàng thượng không dùng Phi Dương Cổ? Ngày trước ở kinh, nô tài thường cùng ông ta bàn việc quân, quả là một tướng giỏi, mưu sâu, kế hay, có tài nắm việc quan trọng mà chịu nghe các tướng luận bàn, người này được!” Khang Hy thấy ý kiến Châu Bồi Công giống với Hùng Tứ Lý thở phào một cái, nói: “Nghe nói ông ta là một ‘con sâu ngủ gật’ nổi tiếng, không biết có đúng hay không?”
Ngay cả Hoàng thượng cũng biết tới cái biệt hiệu này của Phi Dương Cổ, Châu Bồi Công bỗng bật cười, nói: “Có người tài trí lộ ra bên ngoài, cũng có người ẩn sâu không lộ ra, đương nhiên không ra ngoài tầm nhìn của Thánh thượng. Nhưng nô tài xin Hoàng thượng lưu ý, quan trọng nhất vẫn là lương thực. Con đường tiếp lương của quân ta phải được thông suốt, phải dùng trăm phương ngàn kế cắt đứt đường tiếp lương của địch, việc quân dù có bất lợi nhỏ cũng không được ảnh hưởng đại cục”. Cao Sĩ Kỳ nói: “Bồi Công, ông nói mãi chuyện lương thực, tôi không hiểu lẽ nào lương thực trung nguyên không đủ so với Cát Nhĩ Đơn sao?” Khang Hy cũng cảm thấy Châu Bồi Công nghĩ hơi quá, nhà vua dùng ánh mắt tra hỏi nhìn Châu Bồi Công, Châu Bồi Công như không biết nói sao mới phải, hồi lâu mới nói: “Tể tướng Cao, lương thực phải chuyển từ đông nam sang chứ! Đường xa như vậy, một khi có điều trở ngại tất sẽ thất bại chẳng thành. Việc này tôi nghĩ nhiều nhất, ngoài việc có khâm sai chuyên lo, Hoàng thượng phải tự mình nắm lấy, Hoàng thượng xin xem bản đồ, nếu đặt vệ, đặt sảnh ở các nơi Diên An, Du Lâm, Y Khắc Chiêu..., trưởng quan vệ sảnh không thuộc quyền cai quản của phủ huyện, cũng không can thiệp đến dân chính, mà chỉ lo thực hiện lệnh của bệ hạ điều động cung ứng kịp thời lương thực để dùng, được chứ?” Khang Hy chú ý nhìn bản đồ theo tay Châu Bồi Công chỉ, vừa nghe vừa nghĩ, một lúc lâu, vỗ nhẹ mặt bàn, nói: “Hay! Quả là suy tính chu đáo không sót chỗ nào!”
Ánh mắt Châu Bồi Công bỗng tối sầm lại, ông thở dài một tiếng, giống như dùng hết sức lực, bỗng cất tiếng: “Dùng binh không có phép sẵn, đánh trận không có đường sẵn, người cầm quân cũng cùng một đạo lý, mong Hoàng thượng sáng suốt vận dụng. Nô tài nói mấy kiến giải nông cạn cũng chưa chắc là đúng, nhưng Hoàng thượng đã thân chinh, không thể không nói là đã đặt cược vào, có chí tất được, tất phải thận trọng hành sự. Ví như nói vệ sảnh chuẩn bị lương, ngoài Hoàng thượng và tể tướng Cao ra, những người khác không nên cho biết. Tránh việc quan lo lương thực có tâm lý gặp may, đùn đẩy tranh giành nhau, thì sinh hỏng việc. Chà! Thần rất muốn theo Chúa thượng huơ kích tây chinh có thể được quyên thân nơi biên cương, nhưng thời vận không may, e không kéo dài tới ngày đó được!” Châu Bồi Công nói, nước mắt đầm đìa, nhìn những mảnh giấy dán cửa sổ gió thổi phập phồng, rất lâu không lên tiếng.
Khang Hy cũng im lặng, chỉ nhìn Châu Bồi Công khô héo ngồi nghiêng trên ghế. Nhà vua đứng lên đi tới mép bàn cầm bút viết nhanh, rồi mới gọi to: “Ngụy Đông Đình vào đây!”
“Có nô tài!” Ngụy Đông Đình tuyết bám đầy người đáp lời bước vào, phất tay áo vái chào nói: “Chúa thượng có ý chỉ gì?”
“Khanh không thể ở lâu tại Phụng Thiên, phải nhanh chóng trở về Giang Nam, ở đây không có mấy việc cần đến khanh. Kho vàng Hải quan đem toàn bộ mua lương thực. Khi trở về kinh, Trẫm sẽ có ý chỉ cho khanh!”
“Dạ!” Ngụy Đông Đình vội nói, “Sáng mai nô tài lên đường!”
“Còn nữa”, Khang Hy đưa mảnh giấy cho Ngụy Đông Đình. “Khanh vòng qua Bắc Kinh truyền chỉ cho Viện thái y, cử thầy thuốc giỏi nhất, mang theo thuốc tốt nhất đến chữa trị cho Châu Bồi Công!”
“Dạ! Xin thỉnh thị, mang theo thuốc gì?”
“Sáng mai khanh hỏi Cao Sĩ Kỳ, do anh ta quyết”. Khang Hy nói, rút đồng hồ trong túi ra xem, nhìn Châu Bồi Công cười ôn tồn, nói: “Trẫm còn có việc phải đi, khanh phải chú ý điều dưỡng, loại bệnh này không can gì. Để Cao Sĩ Kỳ ở lại, các khanh nói chuyện với nhau. Anh ta cũng biết thuốc, bàn cách chữa trị. Khanh là bề tôi có quyền tâu riêng, cần việc gì chỉ viết sớ báo cho Trẫm!” Nói xong dẫn đám thị vệ ra đi.
Trong nhà chỉ còn lại Cao Sĩ Kỳ và Châu Bồi Công. Có lẽ vừa rồi tinh thần hao phí nhiều, Châu Bồi Công tỏ ra mệt mỏi, chút hồng trên mặt không còn, trở nên trắng bệch như sáp, nhưng ông miễn cưỡng mời Cao Sĩ Kỳ ngồi, sai người nhà mang trà.
“Ông không phải cố gắng tiếp tôi”, Cao Sĩ Kỳ tự bưng một cái ghế, ngồi gần đầu giường Châu Bồi Công, cười hì hì nói: “Bây giờ ông là người bệnh, tôi là thầy thuốc, xin cho bắt mạch!” Châu Bồi Công khoát tay, nói: “Cao Sĩ Kỳ cần gì khách sáo, tôi mến mộ đại danh người đã lâu! Bệnh của tôi trong lòng đã sắp sẵn, chữa cũng vậy, không chữa cũng vậy. Chỉ trong vòng hai năm thôi”. Cao Sĩ Kỳ cười nói: “Châu Lang hà tất anh hùng khí đoản? Ông đang độ hoa niên, những ngày sau này còn rậm hơn cành lá! Hơn nữa tôi phụng lệnh vua xem mạch cho ông, không xem mạch làm sao phụng chỉ?” Nói xong liền bắt mạch.
Châu Bồi Công thấy anh ta không dùng ngón tay giữa bắt mạch mà chỉ dùng ngón trỏ ấn huyệt thái tố ở mu bàn tay rất đỗi ngạc nhiên, hỏi: “Té ra tiên sinh tinh thông mạch thái tố! Hiện nay nó đã thất truyền, tiên sinh quả là không sách nào không đọc!” Cao Sĩ Kỳ nói: “Ông biết được đây là mạch thái tố, thì kiến thức cũng phi phàm. Tôi xem ông cũng giống như tôi, đọc sách không nệ một nhà, có điều ông đi sâu vào nghiệp võ, còn tôi đi sâu nghiệp văn, chỉ có vậy thôi”.
Nguyên là Cao Sĩ Kỳ nghe tiếng nói nhìn sắc mặt, đã biết bệnh Châu Bồi Công khó chữa, bèn tác động bằng cái học về niên mệnh, để tạm an ủi. Nghe giọng nói Châu Bồi Công, hình như chưa đọc qua sách Thái tố bổ mệnh, trong lòng mừng thầm, bèn phô trương thanh thế, giả vờ nhắm mắt bắt mạch “thái tố” rất lâu mới bỏ tay ra, mồm đọc: “Đứt cầu nước thu liễu như khói, ảnh chiếc treo cao tận chân trời. Vàng rơi xào xạc cành lay khẽ, mưa gió đêm ngày nhảy nhót chơi, theo mạch này, là một con kinh hồng cô nhạn, sức cùng mà chí xa, lòng cao mà gan lạnh. Chủ...” Anh trầm ngâm một lát, rồi nói: “Chủ thọ khảo mà có chứng gấp, nghèo hèn mà có chứng quý. Lạ thật, gấp mà thọ, hèn mà quý. Làm sao lại như thế này? Nhưng mạch thực như vậy, Cao tôi chỉ được cứ thực mà nói”.
“Cao tiên sinh không hổ là văn nhân quỷ quyệt”. Châu Bồi Công cười nói, “Vì sao chữa ‘kinh cung’ thành ‘kinh hồng’? Phía sau còn có bốn câu phán: Rắn không chân, về có hang, uốn éo mà đi, giữa đường cứng lại sao không nói luôn?”
Cao Sĩ Kỳ bỗng thấy chán nản, cười ngượng ngùng, nói: “Té ra ông thuộc kỹ hơn tôi, vậy còn nói làm gì nữa. Theo tôi, những thứ như thuật tí bình, mạch thái tố... đều do bọn văn nhân hạng bét ăn no rồi nói trạng viết nên, nói ra cho có vẻ để lừa thế gian. Bồi Công là người thành đạt, cũng chẳng cần tôi khuyên bằng những lời dư thừa đó”. Châu Bồi Công cười nhạt nói: “Anh cố công khổ sở như vậy, sao tôi không xúc động? Nhưng mạch thái tố không phải đều là nói dóc. Ví như ‘kinh cung’ vừa nói, tôi có thể nghiệm rất sâu”. Cao Sĩ Kỳ hít vào một luồng khí lạnh, kinh ngạc hỏi: “Kinh cung? Xin được chỉ giáo, kinh sợ cây cung của ai?”
“Đã là người thông minh hơn người, khi đắc ý cũng thường quên hình hài của mình...” Châu Bồi Công nói một câu hiểu thế nào cũng được. Nhân thấy Cao Sĩ Kỳ đeo một chuỗi nút tơ, liền chuyển câu chuyện hỏi: “Đây là vật không lành, sao anh lại đeo trên người?”
“À...” Cao Sĩ Kỳ cúi đầu nhìn xem, cười nói: “Đây là phu nhân ông Hà lúc lâm chung đưa cho ông Hà ở phủ Nội vụ, không ai gỡ ra được. Tôi thấy rất thích hạt mã não nên đeo vào người, nhưng không biết là vật không lành”. Châu Bồi Công đưa bàn tay khô gầy ra nhận lấy, rồi lấy tay đùa nghịch. Nó trơn láng óng ánh, đỏ tươi, giống như từng giọt nước mắt đỏ xâu lại. Ông nói thờ ơ chẳng hề để ý: “Xâu này có tên là ‘Xâu oan nghiệt’, theo dân gian, người chết trong lòng oán hận, một ngày còn chưa gỡ được thì linh hồn chưa được siêu thoát, thực ra tự bản thân người chết không chịu được với mình, ông Hà! Ông Hà nào?” Cao Sĩ Kỳ nói: “Hà Quế Trụ là một người tầm thường nhất mà được hưởng phúc...”.
Cao Sĩ Kỳ còn định nói tiếp, thì thần sắc Châu Bồi Công đã thay đổi hẳn, mặt mày tái ngắt, không còn chút máu, nằm sấp trên gối thở không ra hơi, hình như cố sức nén ghìm cơn xúc động. Cao Sĩ Kỳ vội đứng lên hỏi: “Ông cảm thấy mệt lắm hả?”
“Không sao... không hiểu sao trong lòng bối rối...” Châu Bồi Công cười khổ sở nói: “Xem ra xâu chuỗi thắt gút của vị phu nhân này phải do tôi gỡ... ” Cao Sĩ Kỳ bỗng cười thất thanh: “Không ngờ một môn đồ thánh nhân lại đi tin thần Phật giống như đám đàn bà con gái. Những cái gút này tôi đã cố không biết bao nhiêu lần rồi, ông làm sao gỡ nổi”.
Châu Bồi Công yên lặng, đặt xâu chuỗi trên bàn tay nhìn kỹ một hồi lâu, hơi run run, ném vào trong chậu than đỏ! Xâu chuỗi này có đánh dầu bóng, gặp lửa cháy bùng lên thành ngọn lửa đỏ rực, những gút mắc giẫy giụa khổ sở trong ngọn lửa biến thành sợi dây tro trắng... Châu Bồi Công dùng đũa bếp khua nhẹ đã biến đi mất tăm mất tích, lấy lại cái móc vàng đặt lên bàn nhìn sững.
“Gỡ xong rồi!” Cao Sĩ Kỳ vỗ tay cười nói: “May mà có ông! Tôi không nghĩ ra được cách này!”
Châu Bồi Công cười như chẳng liên can gì, nhặt lên cái móc vàng, vẫn còn hơi ấm, ông nói một cách ngờ nghệch: “Nó làm bằng vàng, lửa lò không hóa nổi”.

