Khang Hy Đại Đế - TẬP 3 - Chương 45
45
Đàn bà đảm khéo nói lừa kẻ cướp
Vua anh minh mấy lời bỏ dáo gươm
Võ Đơn nghe nói bọn cướp Lưu Thiết Thành xuất hiện, ông hoảng kinh, sắc mặt thay đổi rất đáng sợ. Từ khi Ngụy Đông Đình, Mục Tử Húc lần lượt ra đi, ông trở thành thị vệ số một, những đợt công vụ trước, ông không có gì sai sót, lẽ nào lần này lại tự mình làm hỏng việc? Ông rút kiếm ra bước tới nói với Khang Hy: “Đi, Ông chủ cứ yên tâm, Lưu Thiết Thành là tên cướp nhỏ, người không đông, nô tài đã bố trí mấy chục thị vệ hộ giá ở bên ngoài! Có gì sơ suất, chúng thần xin chịu tội!”
“Khoan, đây là ở nhà ta, thì phải nghe ta!” Bà Hàn Lưu quát. Rồi “bép” một tiếng, bà tát Mã Quý một bạt tai, bà mắng: “Đồ chó, mày tỉnh chưa hả? Nuôi mày uổng cơm, có giống người nhà họ Hàn không? Ta hỏi mày, chúng nó có bao nhiêu tên? Mày xem chúng xông thẳng vào nhà ta hay là đi lung tung? Có phải tên Lưu Thiết Thành ở hồ Vi Sơn trước kia không?” Khang Hy bây giờ mới thấy được con người thực của bà. Sự bình tĩnh của bà làm mọi người bớt lo phần nào.
“Bẩm cụ”, Mã Quý bị cái tát đã tỉnh lại nhiều, lời nói cũng mạch lạc hơn, “Bọn chúng kêu ầm lên, nói Lưu Thiết Thành đến mượn lương thực, không thấy rõ có bao nhiêu tên, bọn chúng đã bao vây mấy cái tiệm gần đó, không biết có phải bọn cướp Lưu Thiết Thành ở Sơn Đông không”. Minh Châu bên cạnh nói: “Đúng là tên Lưu Thiết Thành trước ở vùng Hồ Đông Bình và Vi Sơn, thấy Thi Lang luyện quân đã chạy tới đây”.
“Là nó...” Bà Hàn Lưu quay mặt lại nhìn Khang Hy đang ngây người, bà ngẫm nghĩ một lát, bỗng nói: “Như thế này, quyết không đánh đấm lung tung. Đi ra bây giờ nguy hiểm lắm. Xin mời Hoàng thượng và các đại nhân đều ra lầu tránh cướp phía sau. Bây giờ không như mấy năm trước, chưa đến một canh giờ phủ huyện đã đưa quân tới!” Rồi bà nói với Võ Đơn: “Ông kêu mấy chục tên thị vệ cũng ra phía sau bảo vệ Hoàng thượng, xem ta ra hiệu mà làm việc. Bọn con gái cầm đèn, mở cửa ra đón chúng vào!” Tiếng hò hét kêu gào bên ngoài càng lúc càng gần, không đợi Võ Đơn ra lệnh, mấy chục tên thị vệ mặc thường phục đã rút vào trong cửa thứ hai, vây quanh Khang Hy đợi lệnh. Minh Châu, Sách Ngạch Đồ, Cao Sĩ Kỳ và Cận Phụ nữa, tất cả mặt mày tái xanh.
“Cái gì, mở cửa?” Võ Đơn thất kinh, tiến tới một bước cười gằn nói: “Bà già chết dẫm, việc đầu tiên bây giờ là bảo vệ Hoàng thượng! Bà ra ngoài, thế còn Hoàng thượng làm thế nào?”
Hàn Xuân Hòa thấy cứ dùng dằng là không được, vội tới quỳ trước Khang Hy nói: “Lầu đá thông tới cái gác nhỏ phía sảnh trước, nô tài làm khi mới đến đây, toàn bằng đá, nước, lửa không vào được, gươm dao cũng không động tới được, lại cực kỳ bí mật. Đại doanh quan binh đồn điền chỉ cách đây hai mươi dặm đường, cho người đi báo ngay rồi. Cảm phiền Hoàng thượng trốn một lát, để cho mẹ thần ứng phó, bảo đảm không có gì xảy ra đâu ạ!”
Khang Hy vội suy nghĩ một lát, cảm thấy mẹ con bà Hàn Lưu nói có lý, nếu quả thực có âm mưu làm phản thì đi ra lúc này là trúng kế họ.
Xuân Hòa vội vàng dẫn đường, đám Khang Hy đi vòng ra nhà sau, theo cầu thang quanh qua lại mấy lần, đến chỗ miếu thờ, ấn vào một cái nút, một nửa cầu thang chuyển sang một phía, mở ra một cái cửa. Khang Hy nhìn vào thấy một lối đi hẹp bằng đá, hơi do dự một chút rồi dẫn đầu bước vào, Hàn Xuân Hòa ở sau, đóng cầu thang lại. Trong bóng tối anh chỉ lối đi cao thấp, nói an ủi: “Hoàng thượng yên tâm, toàn bằng đá, không có một ngọn cỏ, lửa không đốt cháy được...”. Mãi khi tới cái gác Khang Hy mới thấy một chút ánh sáng thì đã ở trên đỉnh bức vách nhà sau, nhìn qua ô cửa đá thấy rõ cảnh tượng phía dưới. Lúc này Võ Đơn mới thấy hơi yên lòng lệnh cho thị vệ chia từng đoạn ra trấn giữ, tự mình theo sát Khang Hy, tay nắm chuôi kiếm nghĩ bụng: “Chỗ này mà bị phát hiện ra, thì cũng chỉ đánh lên được từng người từng người một, đối phó cũng dễ!”
Khang Hy mở to mắt nhìn xuống dưới sảnh, ánh đuốc sáng rực mọi nơi. Một tên lực lưỡng, mặt mày gân guốc, mặc áo cộc tay, ngồi trên chiếc ghế cao giữa nhà, một chân ghếch trên thành ghế, một tay cầm con dao to bản, vết sẹo dao chằng chịt trên chân mày. Hắn bực dọc đợi chủ nhà, mấy chục tên lâu la đều mặc áo cộc quần hẹp ống, bím tóc quấn cao, tay nắm chuôi dao đứng ngồi lộn xộn phía cửa trước, mồ hôi láng bóng dưới ánh lửa, trong sảnh sát khí đằng đằng. Có thể vì đợi quá lâu, tên lực lưỡng thả chân xuống, trề môi ra, một tên em út kêu to: “Người nhà họ Hàn sao không thấy ra? Chúa hồ ta đang đợi đây!”
Lời nói vừa dứt, hai cô hầu dìu một bà già đầu tóc bạc trắng đi ra. Bà lê đôi chân nhỏ, bước đi run rẩy, khó khăn. Mọi người trên lầu giật thót tim, thở không ra hơi.
Bà Hàn Lưu đến trước mặt tên Lưu Thiết Thành, khom người làm lễ chào, bà ngước đầu trong một thoáng, ánh mắt bà bỗng sáng lên, rất lạ lùng. Rồi bà nghiêng đầu nhìn tên “chúa hồ” ngang tàng. Môi bà mấp máy một hồi lâu, không nói ra một lời, làm cho Lưu Thiết Thành không hiểu ra sao, hắn cúi đầu nhìn lại bản thân mình, thấy chẳng có chút gì kỳ lạ, bèn lạnh lùng nói: “Bà nhìn gì?” Rất lâu sau, bà Hàn Lưu mới nói lắp bắp, không hiểu vì sao, giọng bà run rẩy.
“Chúa hồ Vi Sơn! Ông họ Lưu?”
“Đúng!” Lưu Thiết Thành nghiêng đầu ngạc nhiên nhìn bà Hàn Lưu nói, “Họ Lưu thì sao?”
“Thiết Thành?”
“Đúng!”
“Hắc niu?”
“A hả? Có ý gì vậy?”
Bà Hàn Lưu hỏi vậy, chẳng những Lưu Thiết Thành mà mấy chục con người trong sảnh đều kinh hồn thất sắc. Chưa hiểu ra sao, bà Hàn Lưu đẩy cô hầu gái ra, kêu lên một tiếng: “Trời đất tổ tiên Quan thế âm bồ tát”, bà nhào tới hai tay nắm vai Lưu Thiết Thành gào khóc thảm thiết!
“Đứa em số khổ vất vả của ta...”. Bà Hàn Lưu nước mắt đầm đìa, vừa khóc vừa kể, em thật nhẫn tâm! Làm cho bà chị già khổ sở...”.
Sự việc xảy ra trong chớp mắt làm cho vua tôi Khang Hy như ngây như dại. Cao Sĩ Kỳ quay người hỏi nhỏ: “Xuân Hòa, anh có ông cậu như vậy sao?” Xuân Hòa nghi ngờ nhìn xuống bà mẹ và “ông cậu” phía dưới, mồm lại nói: “Có lẽ có, có điều mẹ tôi...” Câu nói bỗng ngừng lại nửa chừng.
Không khí trong sảnh đã dịu đi nhiều. Lưu Thiết Thành nửa tin nửa ngờ nhìn “bà chị” già đang lau nước mắt kêu khóc, lắp bắp hỏi: “Bà... bà là, là chị... chị tôi?”
“Ừ!” Bà Hàn Lưu nước mắt ròng ròng, từ trong túi rút ra một cái bọc nhỏ, khóc to nói: “Em ôi... em hãy xem đây...”.
Lưu Thiết Thành hơi hoảng cầm lấy, hỏi: “Cái này?...”.
“Cha chúng ta đưa cho chị trước khi tắt thở trên bờ sông Nghi...” Bà Hàn Lưu, nghẹn ngào kêu khóc “nói một ngày nào gặp được em thì giao cái này cho em. Đường nét thêu phía trên lúc rảnh thêu lên. Trong cái bọc này là cái khóa bản mệnh của em... Tên gọi trong nhà của em là Hắc cẩu, sau thấy em lớn lên mạnh khỏe như con bò, lại gọi là Hắc niu, em ơi em có nhớ không?”
“Cha chết thế nào?” Lưu Thiết Thành đã bị “bà chị” làm cho rối trí. Hắn ngắm nghía cái bọc mà trẻ con Sơn Đông được nuông chiều thường có, vừa cố gắng nhớ lại cái “tên thường gọi trong nhà” của mình, hỏi: “Bị người ta... giết chết hả?”
“Chết đói...” Bà Hàn Lưu làm ra vẻ như bị khơi trúng vết thương lòng, nước mắt già tuôn ra như suối, bà nghẹn ngào nói với vị đại sơn vương đang lúng ta lúng túng này, “Em bảy tuổi đã gây họa, tức mình ông chủ nhỏ nhà họ Tiền, đốt cháy đống rơm người ta, việc vỡ lở. Bốn năm tên súc sinh người nhà họ Tiền đem người tới chặn cửa đòi người, hẹn ba ngày không giao người thì đem bán chị... Mẹ uất quá nửa đêm treo cổ chết, cha dẫn chị trốn đi... Đáng thương đêm đó trời mưa tuyết lớn, lại đúng dịp Tết, đi đâu mà xin cơm ăn? Đến cái miếu thần bên ngoài sông Nghi, ông cụ thế là đi... đi rồi... Hắc niu khổ sở của chị... Mi tên bò đen khốn khổ...” Bà vừa nói vừa kể vừa đay nghiến vừa khóc.
Lưu Thiết Thành nghe đoạn sử nhà mình mà người Sơn Đông nào cũng biết, hắn nghiến răng ken két, và cũng đã tin chắc mấy phần rồi.
Bà Hàn Lưu khóc thêm một hồi nữa mới ngừng. Bà run rẩy lấy tay vuốt trán Lưu Thiết Thành đã mê mẩn như người trong mộng, nói: “Để chị nhìn kỹ em xem! Bốn mươi năm rồi, em vẫn như hồi còn nhỏ trên đuôi chân mày có một cái sẹo nhỏ, hồi em trèo cây hái hồng ngã xuống đó, chị cũng vì chuyện này mà bị đánh, sao không thấy? Mà lại có vết dao to như vậy?”
“...Em... đi làm tướng cướp”, trẻ con nhà nghèo không soi gương bao giờ, Lưu Thiết Thành có biết đâu trước kia có sẹo hay không có sẹo? Còn chỗ này bị người ta chém một dao là sự thật, nghe bà Hàn Lưu hỏi, liền cười khổ sở: “Những việc này không tránh được”. Bà Hàn Lưu như xem không thỏa liền sờ nắn người Lưu Thiết Thành, bà khóc tức tưởi: “Khổ cho em tôi... chị cũng không dễ dàng gì, từ khi gả cho nhà họ Hàn, nghèo rớt mùng tơi, làm gì có tiền tìm em? Mấy năm nay kha khá chút đỉnh, nghe nói em gây chuyện ở hồ Đông Bình, bị quan quân giết chết rồi... có ngờ đâu được gặp mặt tại đây!”.
Những việc vặt như rơi từ trên cây xuống, cái túi nhỏ, khóa bản mệnh... Lưu Thiết Thành lưu lạc bao nhiêu năm, giết người cướp của, hắn đâu còn nhớ được? Nhưng những việc vặt vãnh trong gia đình do “bà chị già” khóc lóc nói ra, ai trên đời này mà không tin? Nghe tới đây, Lưu Thiết Thành không nhịn nổi, hắn khóc òa lên, lăn ra quỳ xuống dưới chân bà Hàn Lưu, ráng sức đập đầu xuống đất kêu to: “Chị ơi... thật là ông trời báo tin đến đây nhận chị! Đứa em này không phải là người! Bao nhiêu năm nay không đi tìm hỏi chị...” Lúc này, cho dù hắn thực sự biết được bà Hàn Lưu “nhận lầm” đứa em là hắn, thì hắn cũng không muốn bóc trần sự thật như đâm toạc tờ giấy, tâm tình đau khổ chất chứa trong lòng bao nhiêu năm nay, chỉ có thể thổ lộ ra hết trước mặt “bà chị”.
Đám Khang Hy trên gác nhìn thấy đã rối mắt. Thấy hai “chị em” họ khóc lóc nức nở cũng cảm thấy mủi lòng. Những tên cướp xung quanh đã sớm thu dọn binh khí, số người này cùng cực mới tham gia vào băng cướp, nhớ lại tình cảnh khốn khổ của mình trước kia, cũng có người tủi phận khóc theo. Lưu Thiết Thành khóc một hồi, ngước mặt đầy nước mắt lấy tay chùi, nghiến răng nói: “Đưa cái thằng chó đưa tin ra đây? Gọi nó tới đây!”
“Chúa hồ”. Một tên lâu la vội nói: “Tên chủ tiệm Nhiếp trên trấn theo thuyền tới đây, vừa lên bờ đã đi mất, nói sợ có người nhận ra sau này khó làm việc...”.
“Mẹ cha nó!” Lưu Thiết Thành mắng “Suýt chút nữa thì giết nhầm chị ta!”
Đây là một việc quan trọng, Khang Hy tới đây chưa được một ngày đã có người đưa tin cho Lưu Thiết Thành đến cướp, không thể không hỏi cho ra nhẽ. Bà Hàn Lưu ngẫm nghĩ một lát, nghiễm nhiên lấy tư cách bà chị lên giọng răn dạy: “A di đà Phật, đừng làm khó dễ cho người ta! Ta trước nay vẫn nghe nói em không ức hiếp đàn bà, trong lòng cảm thấy được an ủi chị em chúng ta, cả nhà ta đều bị đại nạn, chỗ nào tha cho người ta được thì nên tha, sửa một con đường là một con đường, không được cậy mạnh ăn hiếp người! Nhưng nhà họ Nhiếp là chủ cửa hiệu tín dụng, trước nay làm ăn đứng đắn, làm sao lại cùng em đi vào con đường tối!”
“Bổn phận đếch gì nó!” Lưu Thiết Thành trề môi chửi “Hắn vừa làm quan vừa làm giặc, không chịu làm thầy đề cho Cát Lễ, lại đi buôn bán, có quỷ mới biết hắn muốn gì! Xế hôm nay, hắn mồ hôi nhễ nhại đến chỗ em, nói trạm buôn Mậu Sinh buôn bán với hải ngoại, có nhập vào một thuyền hàng vàng trắng, ngày mai thì giao hàng. Thuyền rồng của Hoàng thượng đậu ở ngoài trấn, nếu không có lợi lớn như vậy thì em đâu dám tới? Nhưng lại tác thành cuộc gặp gỡ của chị em ta...” Hắn thôi khóc và đã cười lên.
Khang Hy nghe bất giác ớn lạnh, tự nhiên vua nhìn quanh bốn bên trong bóng tối. Bất chợt vua cảm thấy nguy hiểm thật sự không phải ở dưới lầu mà ở ngay bên cạnh mình, trừ Võ Đơn và Cao Sĩ Kỳ ra, ngay cả Cận Phụ và Trần Hoàng đều đáng ngờ cả. Đang suy nghĩ làm sao bắt được tên chủ tiệm họ Nhiếp, thì đã nghe bà Hàn Lưu dưới lầu nói: “Khó có dịp em tới đây, thật là trời xanh có mắt! Người nhà mau sắp tiệc rượu! Không phải em thiếu lương thực sao? Chị ở đây cũng không có lương thực, cho em một ít tiền em tự đi mua lấy!”
“Chị thật là ngốc!” Lưu Thiết Thành cười to, “em bảy tuổi đã đi giang hồ, tay trắng đi khắp thiên hạ suốt bốn mươi năm, bốn biển đều ghi dấu. Làm gì có chuyện mượn lương thực, mà mượn đến nhà chị? Dù hảo hán trong thiên hạ không cười thì em cũng xấu hổ mà chết thôi! Có rượu em xin một chén rồi đi ngay, nơi này là nơi nguy hiểm, không thể dừng lâu được!”
Thấy đã thoát cơn nguy hiểm, bà Hàn Lưu tỏ ra vừa buồn vừa mệt, bà ho không ngớt, Lưu Thiết Thành hoảng hốt, tay chân luống cuống, hắn bước tới đấm lưng cho bà, lại gọi người “đem trà tới”. Cao Sĩ Kỳ trên lầu thấy hắn ân cần như vậy suýt nữa cười thành tiếng. Trong bóng tối, Minh Châu liếc nhìn Sách Ngạch Đồ, nhưng Sách Ngạch Đồ cau mày không nói một tiếng.
“Chỉ mải nói chuyện”, bà Hàn lưu bỗng như chợt tỉnh, cười khà khà nói: “Ban đầu chị sợ điếng người, sau thì vui quá hóa lú lẫn. Cháu em Hàn Xuân Hòa, cháu dâu Châu Thị, lớn nhỏ còn có hai đứa cháu, đều trốn ở phía sau. Còn có hai khách buôn Nam Dương, chỉ sợ họ không dám gặp em. Người thân trong nhà cũng phải gặp mặt một lần rồi đi cũng không muộn”. Vừa nói vừa gọi mấy cô hầu: “Ra sau mời ông trẻ, bà trẻ vào đây!”
Hàn Xuân Hòa nghe mẹ gọi, không chút trù trừ, dắt tay Châu Thị đi xuống lầu, vì sợ bất trắc không dắt con theo. Khang Hy lo lắng, quay người kéo tay Cao Sĩ Kỳ, nói: “Đi, đi xuống gặp bọn họ!”
“Không nên”. Cao Sĩ Kỳ rút tay lại, nói nhỏ.
“Thế nào? Khanh sợ hả?” Ánh mắt Khang Hy lóe lên trong bóng tối, “Nếu khanh sợ, Trẫm sẽ tự đi một mình!” Nói xong cùng vợ chồng Hàn Xuân Hòa đi xuống, Cao Sĩ Kỳ sững đi một lát rồi vội vàng chạy theo. Võ Đơn không lên tiếng, anh cởi bỏ kiếm dài, lấy ở thị vệ bên cạnh hai con dao ngắn dắt vào trong ủng rồi rảo bước đi theo xuống. Mọi người trên gác đều nơm nớp lo sợ.
Lúc này người nhà đã mang lên một vò rượu, rót cho Lưu Thiết Thành và lâu la mỗi người một chén. Đuốc đã rút đi hết, trong sảnh ánh đèn lắt lay, nhưng ấm áp dễ chịu. Vì sẽ gặp Châu Thị, không tiện để tay trần Lưu Thiết Thành đã mặc chiếc áo dài tay vào, cười hì hì đứng đợi. Nghe tiếng vén rèm, Hàn Xuân Hòa và Châu Thị đã ở trước mặt, Khang Hy và Cao Sĩ Kỳ kéo tay nhau cùng vào, phía sau là Võ Đơn. Hàn Xuân Hòa và Châu Thị bước tới trước một bước, vái chào.
Lưu Thiết Thành cười đôi mắt híp lại thành một đường chỉ, hắn nắm tay Hàn Xuân Hòa, nhìn kỹ từ trên xuống dưới nói: “Tướng mạo được, khí thế tốt, lũ nhỏ đâu? Chị ơi, chị có phước lắm!”
“Phước cái gì!” Bà Hàn Lưu cười nói, “Các cháu chắc ngủ rồi. Thôi, để lần sau gặp vậy”.
Hàn Xuân Hòa cười nói: “Cậu cũng không dễ dàng gì. Cháu quanh năm buôn bán, không biết bao giờ mới được gặp lại! Vợ chồng chúng cháu kính cậu một chén rượu!” Châu Thị vội đi tới bưng hũ, Hàn Xuân Hòa rót rượu đầy tràn, hai người quỳ xuống, nâng ly quá đầu kính mời.
Niềm vui thông thường hợp đạo trời trong gia đình vừa thân mật vừa giàu tình người, suốt cuộc đời Lưu Thiết Thành cướp của giết người có bao giờ được hưởng? Rượu chưa uống, Lưu Thiết Thành đã say rồi, hắn vui quá nói: “Được rồi, miễn những nghi lễ đó, cậu là người sống ngoài pháp luật, không cần những thứ đó. Cháu dâu hiếu thảo như vậy, lại đẹp người, cậu vô cùng sung sướng!” Vừa nói vừa rút trong túi ra một thỏi vàng đưa cho Châu Thị: “Cầm lấy đi đánh cho các cháu cái kiềng gì đó!” Rồi mới quay mặt cười nói với Khang Hy và Cao Sĩ Kỳ: “Các người là khách, bị một phen hoảng kinh! Ngồi, mọi người đều ngồi! Ta xem hai vị đều như thư sinh, không đi thi cử nhân tiến sĩ, lại đi buôn bán. Quý tính, quê quán? Nói cho người anh em này biết, hàng hóa các vị qua hồ bảo đảm không xảy ra việc gì!”
“Bất tài là Long Đức Hải, vị này Cao Đàm Nhân tiên sinh”. Khang Hy nói rồi ngồi xuống, bất giác động lòng: “Xem ra người này không cam tâm làm phỉ. Người trong lục lâm cũng biết thời thịnh trị nên làm quan, vậy cũng đáng mừng”. Nghĩ vậy, vòng tay nói: “Xin mạn phép đường đột, nghe nói trước ông ở Bao Độc Cô, vì sao lại làm chúa hồ?”
Lưu Thiết Thành không ngờ gặp người thân, nghề sinh nhai gian khổ mấy chục năm cứ dày vò trong lòng, hai chén rượu lót bụng, trong lòng vô cùng cảm khái, đặt chén rượu trên bàn, hắn thở dài: “Bao Độc Cô đã bị phá năm Khang Hy thứ 13, phó trại chủ chết rồi, tôi dẫn hơn bảy chục anh em vượt trùng vây, ban đầu tới hồ Vi Sơn, chiến hạm quan binh lại tới đó luyện quân, đành phải dời sang hồ Lạc Mã... Ôi! Đạo đời càng thái bình, đạo đen càng khó khăn!”
Cao Sĩ Kỳ nghe tiếng nhìn người biết Khang Hy có ý muốn thu nạp, nên nói xen vào: “Chúa hồ đại vương, tôi nói một câu không biết có đúng không, ngài đừng nổi nóng làm tôi sợ”.
“Ừ, nói đi!” Lưu Thiết Thành cười nói: “Anh là khách của chị ta, làm sao ta mà trở mặt với anh được?”
“Từ xưa trong số anh hùng xuất thân chốn lục lâm thì lục lâm Sơn Đông nhất thiên hạ”. Cao Sĩ Kỳ trước tiên ca ngợi một câu rồi tiếp, “Lý Bố của Lưu Bang, Mã Võ của Quang Võ, Trình Giảo Kim ở Ngõa Cương đều là nhân vật lục lâm, những người xuất thân giặc cướp dưới trướng Chu Hồng Võ càng nhiều hơn nữa. Trước nay kẻ thành đạt thành vương hầu, kẻ thất bại trở thành giặc, ở giữa không có một cái hào ngăn cách. Ông bị buộc phải làm giặc, không cố ý đối địch với triều đình, nói cả tình và lý đều có cách miễn tội. Vì sao không tìm cách bỏ đao xuống đứng lên thành Phật? Chìm nổi giang hồ như vậy kết cục sẽ thế nào?”
“Kết... cục?” Lưu Thiết Thành lại uống một chén rượu, đã hơi có chút say, “kết cục là ở pháp trường, điều đó ai không biết! Ta không vợ không con, dứt khoát không liên lụy đến ai! ‘Bỏ đạo xuống đứng lên thành Phật’ chẳng qua chỉ là chuyện đùa. Vu Thất Sơn Đông, Vương Tiểu Thất Thiểm Tây, Lưu Đại mặt rỗ Xác Sơn Hà Nam, ‘đều bỏ đạo xuống’, nhưng kết quả đều ‘đứng lên thành quỷ’. Mẹ cha nó, nói không giữ lời, là cái thứ gì!” Nói tới đây lại uống một chén, hơi rượu bốc lên, lời nói đã không còn mạch lạc, “...Tôi từ lâu chẳng còn hy vọng gì nữa, bây... bây giờ gặp được bà chị, thì lại nghĩ có một ngày nào đó... có người nhặt xác... thế là đủ rồi”. Bà Hàn Lưu nghe nói thê thảm bèn bước tới an ủi.
Khang Hy nghe nói bất giác trong lòng cảm khái. Xem ra với những người này cũng phải lấy tín nghĩa làm gốc! Nghĩ vậy liền cười nói: “Ông có thể nghĩ tới những điều này, thì tất có đạo giữ mình, tôi có mấy người bạn rất có quyền thế trong quan trường, viết cho ông một tờ giấy đến phục vụ nơi Phi Dương Cổ đóng quân ở cửa Cổ Bắc. Chốn biên cương một đao một thương làm lợi cho nước, dám chắc không giành được điều phong thê tử ấm sao? Làm gì đến nỗi kết cục như vậy?”
Không biết bên ngoài trời âm u từ bao giờ, một tia sáng ban mai lọt vào, ánh sáng trắng trong chiếu vào cả phòng bỗng sáng rực lên, tiếp theo là một tiếng sấm rền. Lưu Thiết Thành bỗng cảm thấy kinh hãi. Cái đêm gặp gỡ kỳ lạ này thay đổi quá nhanh, hắn có cảm giác như trong giấc mộng. Hắn ngây người nhìn Khang Hy đang ung dung cầm bút viết, ngập ngừng đón nhận tờ giấy, mồm lắp bắp: “Tôi... phải suy nghĩ, suy nghĩ kỹ...”. Hắn cúi đầu nhìn tờ giấy Khang Hy viết, có một nửa không đọc ra, giống như giọng quan trên ra công văn xuống, phía dưới còn có một dấu ấn son nhỏ, rõ ràng có bốn chữ: “Thể Nguyên Chủ Nhân”, hắn liền ngẩng đầu hỏi: “Long tiên sinh, làm gì có người tên như vậy? Làm sao mà tên có bốn chữ?”
“Đây là danh hiệu của Long tiên sinh”. Cao Sĩ Kỳ cười nói, “Ông đọc sách quá ít, một lúc cũng không nói rõ được. Theo tôi biết, tờ giấy tiến cử của Long tiên sinh, trước đây cũng giới thiệu sơ qua cho mấy người giống như ông biết, quân môn Phi Dương Cổ trước nay chưa hề bắt bẻ gì đâu”.
Lưu Thiết Thành tim cứ đập thình thịch, tờ giấy trong tay cũng run run hình như nặng đến ngàn cân, nó đè xuống thở không ra hơi. Một hồi lâu, hắn mới thở dài nói: “Tôi... tìm một người đi trước thử xem, may mà thành? ...Đó còn phải xem tổ tiên nhà họ Lưu tôi phúc đức như thế nào...”.
Lời chưa nói xong đã nghe bên ngoài tiếng kêu la náo động, một tên lâu la mặt trắng bệch xông vào cấp báo: “Hồ... Hồ chủ, không xong rồi, quân quan, quân quan đến rồi!”

