Khang Hy Đại Đế - TẬP 4 - Chương 17

17

Thị vệ ngạo mạn xảo trá biếm mặt rồng

A ca gian ác đi săn động tấc lòng

Trương Ngũ Ca được chọn làm hộ vệ trực ban. Theo lệ thường thì không đến phiên anh. Anh ta một, không phải là người Mãn, hai, không phải con em nhà có công. Tổng quản doanh Thiện phốc Triệu Phùng Xuân tận mắt chứng kiến anh được tha ra từ pháp trường, được Khang Hy đặc biệt ân sủng, cấp trên cũ Võ Đơn luôn mồm ca ngợi Ngũ Ca trung thành hiếu thảo. Có được cảm tình ơn nghĩa to lớn như vậy, nên xấu tốt gì cũng bổ sung anh ta vào. Có điều vì không có hộ tịch quân cờ, cũng khó được hầu hạ gần Hoàng thượng ngay.

Mới vào Tử Cấm Thành, Trương Ngũ Ca thật giống như chàng ngốc đi chợ. Các thứ vàng ngọc rực rỡ làm anh chói mắt, đầu óc choáng váng đờ đẫn, anh đứng gác hai ngày ở cửa Long Tông. Những thị vệ trong nhóm xuất thân công tử đều coi thường anh chàng nhà quê, đều gọi anh là “Ngũ Ngốc”, những việc làm vất vả nặng nhọc đều trút cho anh, hễ động một tí là đem anh ra nô đùa chọc cười. Trương Ngũ Ca dần dần tỉnh ngộ, mọi người đều là thân phận hộ vệ như nhau, vì sao mình lại bị người ta ức hiếp, trong lòng ngầm không phục, nhưng còn nể mặt không nói ra.

Ngày 19 tháng 8 Khang Hy lên đường đi bắc thị sát, săn bắn. Qua khỏi Mật Vân, thời tiết thay đổi, ban đầu là mưa nhỏ, sau biến thành mưa bão sấm chớp. Núi đồi mờ mịt, mặt đất ẩm ướt, đường sá khó đi, người nào cũng lấm lem như con khỉ đất. Thị vệ Ngạc Luân Đại đi trước mở đường, công việc này vốn thoải mái, so với chuyện ở bên mình Khang Hy, không rời nửa bước, thì dễ chịu hơn nhiều. Vậy nên anh chọn công việc này, để cho Đức Lăng Thái và Lưu Thiết Thành đi theo Khang Hy. Không ngờ gặp thời tiết này anh ta khổ sở gấp bội, trong lòng không vui, bèn trút cơn giận lên các hộ vệ mới tuyển vào. Việc này càng làm Ngũ Ca khổ thêm. Đường phía trước gặp đá cuốn theo nước mưa, anh phải dọn; gặp đoạn đường nước mưa làm sụt lở, anh phải dẫn người đi sửa; một chặp phía sau đường trơn, lại bảo anh đi đẩy xe, so với người khác, anh phải đi một đoạn đường dài gấp bội. Hôm đó đi tới dốc mười lăm dặm, mấy trăm chiếc xe lên được đỉnh dốc. Trương Ngũ Ca đẩy xe, đẩy tới rã rời kiệt sức, vừa mới ngồi trên tảng đá bên đường cởi ủng ra để giũ bùn, không dè bị Ngạc Luân Đại đi bên cạnh xe vua nhìn thấy, phóng ngựa tới, nhằm vào lưng anh quất cho một roi, mắng rằng: “Mẹ mày, ta thấy mày lười biếng nhất hạng! Đứng lên! Ông mày còn không dám nghỉ xả hơi, mày sao dám trốn tránh nhàn nhã như vậy? Không thấy sàn xe của đức Vạn tuế sắp long rồi đó sao? Đi chặt một cái chốt tra vào!”

Trương Ngũ Ca nhướng mắt nhìn chằm chằm Ngũ Luân Đại một hồi lâu, rồi quay đầu đi. Chạy đến rừng thông, anh hùng hổ chặt một cành thông to kéo tới trước cỗ xe, anh ước lượng rồi đẽo một cái chốt, đem tới trước càng xe ướm thử. Ngạc Luân Đại thấy anh ta tỏ vẻ không phục, bèn quát la tới tấp: “Đồ chết dẫm! Mày rề rà cái gì thế? Mau tìm một hòn đá mà đập đi chứ!”

“Ông quát tháo cái gì?” Ngũ Ca không nhịn được nữa, “câm cái mồm thối của ông đi, có muốn tỏ rõ oai phong thì về trổ oai với vợ ông! Chốt gỗ không gọt cho vừa mà cứ cố nhét vào, hỏng xe rồi thì ông chịu hay tôi chịu? Ông chủ ngồi trong xe, đâu có cần ông gào thét? Tôi có phải là nô tài của ông đâu?” Nói xong lấy ngón tay ấn cái chốt vào, vì ấn hơi mạnh một chút, tấm gỗ tét ra rõ to.

Ngạc Luân Đại biết vì xe ngự trống gió Khang Hy đã dời chuyển sang xe Trịnh Xuân Hoa, nên mới dám oai ở đây. Thấy tên hộ vệ nhỏ bé dám đốp chát mình như vậy bèn nổi cơn lôi đình, nghiến răng mắng: “Thằng này làm phản rồi! Ông mày phục dịch ở đây bao nhiêu năm, có bao giờ gặp phải cái đồ chó đẻ như mày? Ai đỡ đầu cho mày hả? Có phải Triệu Phùng Xuân không? Mẹ cha nó, tính luôn cả Võ Đơn nữa thì được mấy cân mấy lượng? Đồ lưu manh không biết luật lệ!” Nói xong quất hai roi thật mạnh.

Trương Ngũ Ca tức giận run lên, anh ngước mặt, phi người lên, giật phắt chiếc roi vào trong tay. Xem lại là roi da có cộng thép ở giữa, có thể dùng quất ngựa, cũng có thể dùng làm võ khí, anh cười gằn một tiếng, nói: “Dụng cụ là thứ tốt, chỉ đáng tiếc bản lĩnh của mày không to bằng cái dáng vẻ ngông nghênh của mày! Ông nội mày chức vị thấp thì phải chịu ăn roi của mày hả? Còn dám đá hậu bừa bãi thì đừng trách ông nội mày không khách sáo!” Nói xong vừa bứt vừa bẻ, lắc cắc một chặp, cái roi sắt đã dứt thành mấy đoạn... anh ném phịch xuống rãnh nước bên đường. Mấy chục người đứng bên cạnh, lúc ấy ai cũng sợ câm như hến. Ngạc Luân Đại thấy anh ta võ nghệ cao cường, giật mình hoảng sợ, nhưng trước mặt mọi người, lại không thể để mất mặt. Hắn nhảy xuống ngựa, đá phoóc một cái vào lưng Ngũ Ca, rồi giơ chân đá một cái nữa vào mặt Ngũ Ca. Trương Ngũ Ca liếc mắt thấy ủng hắn có đính đinh sắt, hình như muốn lấy mạng mình, anh vội lùi ra phía sau một bước, nắm lấy mũi giày Ngạc Luân Đại xoay một cái, thuận tay đẩy tới một cái, Ngạc Luân Đại văng lên trời, ngã lộn phèo xuống cái rãnh đường quan cách hơn một trượng, phân ngựa phân bò bắn lên đầy người. Ngạc Luân Đại vụt đứng dậy, rút đoản kiếm ở thắt lưng ra xông tới, lệnh cho mấy tiểu thị vệ đứng xem xung quanh: “Đứng sững đó hả! Mau trói tên súc sinh đó lại, xử tội vô lễ trước mặt vua!”

“Ông là ‘vua’ xứ nào?”

Phía sau bỗng truyền lại tiếng của Khang Hy, không biết từ lúc nào nhà vua đã dẫn Đức Lăng Thái, Lưu Thiết Thành, cùng các thái giám đang đi tới. Khang Hy đứng trong mưa mù mịt, mặt tái xanh nói: “Trẫm nghe ngươi một hồi lâu rồi! Vốn tưởng ngươi chẳng qua chỉ cậy thế con em nhà quyền quý, hống hách một chút, bây giờ xem ra, ngươi cố ý chà đạp người khác!”

“Nô tài không dám!” Ngạc Luân Đại đành quỳ xuống, nhưng sắc mặt có vẻ không phục, hắn lạy, rồi quay mặt nói: “Chỉ là nô tài bộp chộp nóng nảy, hầu hạ không khéo làm ông chủ tức giận”.

Tuy sắc mặt không lành nhưng lời hắn nói vẫn không bắt bẻ vào đâu được. Khang Hy tức giận nói: “Trẫm biết lòng ngươi không phục. Có phải Bát A ca tiến cử ngươi làm tướng quân Cam Túc, không đạt ý nguyện của ngươi, đức hạnh của ngươi như vậy, mà muốn so với Phi Dương Cổ hả? Ngươi chỉ đáng xách giày cho ông ta! Võ Đơn tuy là người Hán, đã làm thị vệ bốn mươi năm rồi, ngay cả ông ta cũng dưới tầm mắt ngươi, ngươi có biết phép vua không hả? Trẫm đối xử không tốt với ngươi chăng?” “Nô tài không nói Hoàng thượng xử tệ với nô tài!” Ngạc Luân Đại ngước mặt nói: “Nô tài tuy không có chiến công, nhưng mấy lần hộ giá thị sát phía nam cũng đã làm hết sức, nhưng trước nay chưa hề muốn trèo cao. Hoàng thượng cứ yên tâm, nô tài còn một chút lòng thì còn chút sức, dù cho thịt nát xương tan, vẫn hết sức báo đền ơn nghĩa của Người!” Khang Hy ngẫm nghĩ những lời này, càng thấy có ý xấu, nhưng không trách móc được chỗ nào, nên cười gằn nói: “Trẫm cũng bảo cho ngươi yên tâm, ngươi có một chút lòng thì phải được một chút báo ứng. Trẫm trước nay chưa hề phụ lòng người, nhưng nếu có người phụ Trẫm thì cũng đừng mong có kết cục tốt. Cút đi! Trời lạnh như thế này, xa giá đều dừng lại trong mưa, lẽ nào phải nghỉ đêm trong cánh rừng này à?”

“Vâng!” Ngạc Luân Đại trừng mắt nhìn Trương Ngũ Ca, hắn lạy Khang Hy, miệng nói: “Nô tài biết tội, nơi này không thể nghỉ đêm”. Rồi đứng lên đi.

Khang Hy mặt mày ủ rũ nhìn hắn đi xa, cũng không chú ý Trương Ngũ Ca, nhà vua bước lên xe giục lên đường. Nhà vua nhìn chằm chằm cảnh sắc tiêu điều mùa thu bên ngoài khung cửa sổ, nhớ lại bộ mặt vô lại của Ngạc Luân Đại vừa rồi, càng nghĩ càng giận, vua vén rèm cửa lệnh cho Lưu Thiết Thành: “Ngươi xuống phía sau truyền chỉ, gọi Trương Đình Ngọc tới đây!”

Trương Đình Ngọc và Mã Tề khoác áo dầu cưỡi ngựa đi phía sau xe các A ca. Vừa rồi phía trước đội xe dừng lại khá lâu, không biết có chuyện gì. Nghe Khang Hy truyền gọi, Trương Đình Ngọc và Mã Tề đáp lời, rồi phóng ngựa nhanh lên đến xe Khang Hy phía trước, xuống ngựa vịn càng xe, phủi những hạt tuyết trên đầu hỏi: “Đức Vạn tuế triệu thần có chuyện gì?”

“Khanh lên đây!”

“Đây...”.

“Lên đây”. Khang Hy giọng buồn rầu, khẽ nhắc lại, rồi thả rèm cửa xuống. Trương Đình Ngọc vội lui lại một bước, cúi vái xe ngự một vái, rồi cẩn thận trèo lên xe, đứng nghiêng người bên cạnh Khang Hy.

Chiếc xe lắc lư, rồi cục kịch tiến lên. Một lúc, hai người không ai nói gì, chỉ nghe tiếng vó của tám con ngựa khỏe dẫm trên bùn phát lên tiếng lỏm bỏm đều đều đơn điệu.

“Sắc mặt Hoàng thượng tái nhợt”. Rất lâu, Trương Đình Ngọc mới ấp úng, “Có phải trong người không khỏe? Nếu không thì là tức giận ai. Có cần gọi thái y tới?” Khang Hy khoát tay, im lặng, chỉ thở ra nặng nề. Trương Đình Ngọc nhìn qua cửa sổ phía sau thấy mấy thái giám đi sát bên, liền thò đầu ra bảo: “Hình Niên, bảo bọn họ đi lùi sau một chút. Chỉ ngươi ở đây nghe sai bảo là đủ”.

Khang Hy thấy ông ta chu đáo như vậy, bất giác gật đầu nói: “Liên tục nhiều ngày, tâm trạng Trẫm không ổn. Cứ cảm thấy lần này đi săn như có xảy ra chuyện gì. Thị vệ ở sát ngay dưới nách, không được lơ là. Mã Tề tuy chân thành nhưng quá khoan hậu. Khanh nói xem hành động của Ngạc Luân Đại hôm nay, là vô tình hay cố ý? Có nên lập tức đưa hắn đi nhận nhiệm vụ bên ngoài?” Trương Đình Ngọc mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, im lặng rất lâu, sau cùng mới trầm ngâm: “Ngạc Luân Đại là người thô lỗ nông nổi, chẳng qua ỷ vào mấy lần thị sát phía nam có công hộ giá, lại là anh em cô cậu với Bát gia, kể ra cũng là hoàng thân, làm việc ít chú ý lễ nghi. Trong đám thị vệ Đức Lăng Thái là chàng trai Mông Cổ thực thà, Lưu Thiết Thành là người được Hoàng thượng vớt lên từ vũng bùn, bọn họ đều không đến nỗi ăn ở hai lòng với Hoàng thượng. Vậy Người nên rộng lòng. Ngạc Luân Đại làm như vậy, nô tài cho rằng không thể giữ ở bên mình Hoàng thượng. Để cho nô tài bàn thêm với Mã Tề, đến Thừa Đức thì điều anh ta đi trấn nhậm bên ngoài”. Khang Hy nghe nói, cười buồn bã: “Lời khanh nói rất uyển chuyển, Trẫm biết khanh cũng không yên tâm với những người đó. Khanh có chỗ khó nói của khanh. Việc các A ca, lòng Trẫm biết rõ. Ngạc Luân Đại thấy Thái tử thời gian gần đây không được lòng, nên hắn có lòng dạ khác, nên cứ dở trò oai phong ra bên cạnh Trẫm. Ngạc Luân Đại đi rồi, khanh xem đưa ai bổ sung vào? Bảo Triệu Phùng Xuân lên có được không?”

“Triệu Phùng Xuân...” Trương Đình Ngọc suy nghĩ một lát, lắc đầu nói; “Bên doanh Thiện phốc không có người đáng tin cậy e không được. Ông ta còn quản nha môn thống lĩnh quân bộ, không thể rời ngay được. Theo ý nô tài, có thể đưa Đức Lăng Thái làm trưởng ban thị vệ, thêm Lưu Thiết Thành, lòng trung thành của hai người này đáng tin cậy, nếu chưa đủ thì đề bạt thêm mấy người bên dưới lên, chỉ sợ Đức Lăng Thái chưa đủ uy tín, điều khiển không nổi”. “Được!” Khang Hy ngồi ngay người lại nói: “Không nên lo việc điều khiển không nổi, còn có Mã Tề! Khanh cũng còn kiêm nhiệm nội đại thần quản lý thị vệ! Bổ sung thêm vào mấy thanh niên, Trẫm thấy tên Trương Ngũ Ca được. Các khanh lập danh sách Trẫm sẽ quyết định. Trẫm đã sớm nghĩ tới không nên để một người kiêm nhiệm Đề đốc ngũ môn và doanh Thiện phốc. Đây không phải là chuyện tin hay không tin, mà là nguyên tắc. Tăng thêm cho doanh Thiện phốc một ngàn quân, vẫn do Triệu Phùng Xuân quản. Còn nha môn thống lĩnh quân bộ... các khanh xem Long Khoa Đa, người này thế nào?”

Trương Đình Ngọc bất giác sửng sốt. Điều đổi Ngạc Luân Đại rõ ràng là không tin người của Bát A ca Dận Tự, nhưng thăng chức cho Long Khoa Đa, tức là tăng thêm thế lực của Đồng Quốc Duy, lại như rất có lợi cho Dận Tự - ông vốn cảm thấy mình đã bắt mạch được tâm tư của Khang Hy, giờ đây bỗng chốc lại cảm thấy mơ hồ. Sửng sốt một hồi, ông mới đáp: “Chúa thượng sáng suốt!”

Do đường khó đi, xa giá phải mất chín ngày mới tới Thừa Đức. Khí trời dần dần trong sáng lại. Vương gia các bộ Nội, Ngoại Mông Cổ, đã đến từ mười ngày trước, đều ở trong trại mình đợi xa giá Thiên tử. Trang trại nghỉ mát này bắt đầu xây dựng từ năm Khang Hy thứ 22, mãi đến năm Khang Hy thứ 43 mới coi như thành hình dáng quy mô, đã có khí thế hùng vĩ, bên trong có mười hai hành cung. Tây bắc có Kim Sơn, đông bắc có Hắc Sơn lấy núi làm lá chắn thiên nhiên. Phía chính nam xây ba cửa Trung Lệ, Đức Hối và Phong Môn, ở giữa là vườn cấm. Mỗi năm mùa hè Hoàng đế tới đây tránh nắng, mùa thu đến săn bắn. Vương Công nam bắc sa mạc Mông Cổ, Lạt ma hồng hoàng Đài Kiết, Thanh Tạng, giáo chủ và sứ thần Triều Tiên, đều đưa người đến nghênh giá, yết kiến. Các nhà buôn nhìn thấy mảnh đất phong thủy tốt đẹp này, bèn dựng lên nhà cửa tiệm quán ở các sơn trang chung quanh như mạng nhện. Hơn mấy chục năm nay cảnh tượng đã thay đổi hẳn. Bờ Nhiệt Hà hoang vu dân cư thưa thớt ngày xưa, nay nghiễm nhiên trở thành đô thị phồn hoa. Ngay buổi tối hôm xa giá tới, các vương công đều ra trước lều quỳ đón, cả phố treo đèn kết hoa, hương hoa ngập phố, náo nhiệt khác thường. Nhưng Khang Hy cảm thấy rất mỏi mệt, sai người cuốn mái che, ngồi ngay trên xe, mỉm cười vẫy tay tỏ ý chào. Xa giá đi thẳng đến Trai Yên Ba Chí Sảng, miễn các nghi lễ hội triều, giao cho Thái tử thay mặt tiếp kiến các quan.

Trường săn Nhiệt Hà xây dựng tại Phủ Điền, gần sát vườn Vạn Thụ, nằm ở phía tây bắc sơn trang, phía nam Hắc Sơn, phía bắc Tái Hồ. Nơi này cây cao rừng rậm, núi hiểm sông rộng, trong đó nuôi rất nhiều hươu nai, chồn sói, hổ báo, gấu beo... Không biết vị nho nhã nào đã đặt cho nó cái tên “rừng rậm”. Năm Khang Hy thứ 44, lần đầu tiên Hoàng đế đến săn bắn ở trường săn này, Trương Đình Ngọc đặt tên cho nó là “Phủ điền”, ý nói là đám ruộng vua săn bắn. Từ đó, dân thường không được đến nơi ấy.

Sau một đêm nghỉ, Khang Hy đã lấy lại tinh thần. Sáng sớm vua đã dậy, uống một bát nước sâm, dùng qua loa điểm tâm, uống rượu nho núi, rồi sai người đến sơn quán Thanh Thư gọi Thái tử tới. Chuông đồng hồ điểm bảy tiếng, bắt đầu giờ Tỵ, Khang Hy đã lưng đeo cung tên, lưng dắt bảo đao, chân mang ủng đen lót lụa xanh, đội cái mũ cao bằng nhiễu thiên nga, mặc chiếc áo lót batơlô, khoác chiếc áo kép lụa Thạch thanh, mặt mày rạng rỡ, bước đi hùng dũng. Dận Nhưng phía trước, phía sau là Mã Tề, Trương Đình Ngọc. Mười bốn vị hoàng tử hai mươi tuổi trở lên, nhất loạt mặc quân phục, dắt dao, quỳ một đám đông đen, khấu đầu lạy, hô to:

“Van tuế!”

“Y li!” Khang Hy đưa tay ra khoát, hô lên bằng tiếng Mãn, vẻ mặt hớn hở, quắc mắt nhìn mọi người một lượt, cười nói: “Năm nay mọi người tới đông đủ! Phải chơi cho thoải mái. Trong vườn uyển này đều là loại thú chưa được thuần dưỡng, các con một là phải cẩn thận, hai là phải ganh đua” nói xong vua chỉ thanh ngọc vàng như ý khắc hoa, khảm đá quý do Lý Đức Toàn cầm, nói: “Các A ca, không kể thấp cao lớn nhỏ, ai bắn được nhiều nhất sẽ được thưởng thanh ngọc như ý này!”

Mọi người lập tức phấn khởi, các A ca người nào cũng hớn hở, ai cũng muốn thử tài. Thanh ngọc như ý này màu vàng sáng, trước nay là của quý đặt trên bàn cung Càn Thanh - Hoàng đế Đại Hành thưởng cho Khang Hy, bây giờ Khang Hy lại đem ra thưởng! Dận Nhưng bất giác run lên, sắc mặt hơi xanh. Dận Tường lấy tay hích Dận Chân, nói nhỏ: “Huynh xem đại ca, để cho vật này làm cho đờ mắt rồi! Tam ca vờ vĩnh, hai tay nắm chặt lại, bề ngoài tỉnh bơ nhưng trong lòng cũng rộn lên! Lần này anh em ta phải giúp Thái tử gỡ lại thể diện”. Đang nói lén như vậy thì Dận Nhưng đã quỳ tới trước một bước, nói: “Hoàng A ma! Vật này e không phải là nhân thần có thể kham nổi. Mong Vạn tuế chọn một vật khác, để các nhi thần cố gắng tranh giành!”

Khang Hy hầu như không nghĩ tới việc này, vua do dự một lúc rồi cười nói: “Các ngươi đều là hoàng tử A ca, chẳng cũng là màu vàng sáng hay sao? Thưởng bằng vàng, bạc mất tư cách hoàng gia; lại cũng quá dung tục - Thế này, Trẫm và Thái tử không tranh giành với các ngươi. Vua tôi rõ ràng rồi thì cũng không trở ngại gì”. Ngạc Luân Đại thấy Trương Ngũ Ca mới được mang sắc phục thị vệ bậc ba đi sát sau Đức Lăng Thái, tư thế hiên ngang cầm dao đứng sát Khang Hy, trong lòng hắn đùng đùng nổi giận, cười nói: “Đáng tiếc, thị vệ không được may mắn như vậy, nếu không nô tài cũng ráng tranh giành, thế mới được đẹp (mỹ) lòng!” Dận Tự bỗng nhớ tới Trương Đức Minh chiết tự chữ “mỹ” thành “bát vương đại”, bất giác động lòng, mắt nhìn không chớp thanh ngọc vàng như ý.

“Truyền chỉ!” Thấy các A ca người nào cũng sốt ruột, Khang Hy biết rõ như vậy, một nụ cười lạnh lùng khó đoán nổi lướt qua môi, nhà vua nói to: “Công vương Mông Cổ đứng trên bức thành gạch vườn Vạn Thụ xem chiến đấu!”

Trên bức thành gạch vừa xây tạm, Khang Hy đã triệu kiến hơn một trăm vị Hãn, Thân vương, Quận vương Mông Cổ. Vua đến từng bàn mời rượu, thỉnh thoảng nói vài câu với mấy Vương gia Bắc Mạc và tây Mông Cổ. Đã đến giờ Ngọ. Hơn một vạn ngự lâm quân xếp ở bốn bên vườn cấm nổi lên còi hiệu. Chia ra bốn cờ xanh đỏ đen trắng ở bốn bên phất cờ đánh trống, đồng thanh la hét. Trên bầu trời xanh biếc chốc chốc một đám mây trắng kéo tới. Đám cầm thú hung dữ hay yếu đuối trong vườn đều bị đánh động loạn cả lên, chúng ra sức chạy, bay tán loạn.

Khang Hy nâng ly rượu, lạnh lùng liếc nhìn sắc mặt bất nhẫn của Dận Chân, vua khẽ than một tiếng, cười nói với vương Khoa Nhĩ Tẩm bên cạnh: “Quân tử không gần nhà bếp, là sợ nghe tiếng kêu đau thương, đó tức là nhân nghĩa. Lão phu tử họ Khổng cũng thật thú vị, nhưng khi ăn thịt lại chú ý thịt cắt không vuông vức không ăn! Con người quả thật là con vật vô tình nhất trong thế gian!”

Đang nói chuyện thì thấy phía đông mấy chục kỵ sĩ, phía bắc hơn một trăm kỵ sĩ xông tới. Vó ngựa đạp trên cỏ mùa thu làm cỏ bay cao lên lưng chừng trời. Khang Hy đã nhận ra rồi, phía đông là Dận Tường, phía bắc là Dận Thị. Dận Thị dẫn theo hoàng tôn Hoằng Phường, Hoằng Hưởng và môn khách, thân binh, người nào cũng tên đặt trên cung, huơ dao múa kiếm, máu bắn đầy người. Những con thú chạy trên đồng cỏ, con thì mình đầy máu me, con thì kêu gào giẫy giụa, đồng cỏ loang lổ từng vật máu. Phía đông là hai người Dận Đường, Dận Nga. Dận Đường như điên đuổi giết phía trước, Dận Nga phía sau chặn đường thu nhặt vật săn, cắt tai con thú lớn treo lên trên mông ngựa. Trong đó không ít con vật bị Dận Thị, Dận Tường chém ngã trên đất cũng được thu gom vào bọc. Khang Hy bất giác ngầm ca ngợi, chúng nó làm có bài bản! Riêng phía đông, Dận Tự, Dận Chỉ không thấy động tĩnh. Đám thú hoang loạn xạ một hồi bỗng tĩnh lại, đều hoảng hốt chạy sang phía tây. Tứ A ca Dận Chân theo đạo Phật, quyết định không sát sinh. Anh chỉ mang theo các con Hoằng Thời, Hoằng Lịch và gia tướng giữ chặt phía tây bắc, những con xông vào vòng đều bắt sống tất cả; con nào chạy thoát là do ý trời không bắn theo.

Một cuộc săn tựa gió cuốn mây, cuối giờ Mùi sẽ thấy kết quả. Tính toán chung, Dận Nga số một, Dận Đường thứ hai; Dận Thị, Dận Tường giết mệt lả cả người, hai người chia đôi được thứ ba. Dận Chỉ, Dận Chân được ít nhất, nhưng đều còn sống, buộc thành một chuỗi dâng lên. Duy chỉ Dận Tự không được chút gì.

“Trẫm đã nói, người nào săn được nhiều nhất thì được giải thưởng này”. Khang Hy vuốt ve thanh ngọc như ý, hơi trầm ngâm nói: “Dận Nga lên đây, ngọc như ý thưởng cho ngươi!” Rồi quay mặt hỏi Dận Tự: “Ngươi vì sao không được chút gì cả?”

“Hoàng thượng”, Dận Tự gượng cười nói: “Vua Nghiêu đi săn lưới mở một bên, mở một con đường sống cho sinh linh. Nhi thần mong phụ hoàng là vua Nghiêu Thuấn. Vì một thanh ngọc như ý mà tranh giành cao thấp với thủ túc, nhi thần thấy không yên lòng!” Khang Hy nghe nói gật đầu mỉm cười, Dận Nga lại nói: “Con không có tấm lòng thiện đó, chỉ biết ai được nhiều, thanh ngọc như ý sẽ về tay người đó! May nhờ Cửu ca tặng cho mười con, chiếm được thứ nhất, A ma thưởng cho, con xin cảm tạ không từ chối!” Vừa nói vừa nhận thanh như ý.

Dận Tường bỗng bước lên ngăn Dận Nga, nói: “Thập ca yên tâm chớ nôn nóng! Đây là món nợ lương tâm, huynh dám nói to một câu: ‘Ta thứ nhất!’ thì đệ xin nhường cho huynh!”

“Ta thứ nhất!” Dận Nga nhướng mày hô to, rồi cười gằn nói: “Ngươi dám ức hiếp ta hả? Bây giờ ta không thiếu nợ, ngươi còn dám làm ra vẻ tổng quản nữa hả?” Nói xong, nhổ toẹt một bãi nước bọt. Dận Đường vội khuyên giải nói: “Đều là anh em ruột, làm chi cho mất hòa khí? Thập đệ đã có bằng cứ, Thập tam đệ, đệ đừng tranh nữa!”

Khang Hy cười nói: “Thế mà Dận Tường ngươi bẻm mép, học binh thư mấy năm, việc săn bắn này cũng giống như đánh giặc, phải dụng tâm!” Dận Tường cũng không để ý Dận Chỉ đưa mắt ra hiệu, anh nghển cổ nói: “Nếu biết trước ai ăn gian được nhiều thì người ấy được thưởng, thì con xin học Bát huynh nghỉ cho khỏe! Đáng tiếc là ngay đi săn cũng khôn lỏi, làm bẫy gian gian dối lại được lĩnh thưởng!”

Khang Hy động lòng, ngẫm nghĩ, cười gằn nói: “Ngươi nói với Trẫm thế hả? Hãy vả vào mồm!” “A ma”, Dận Tường mặt trắng bệch, tức giận tay chân lạnh như băng, vội quỳ xuống, nước mắt chảy ròng ròng “Dù sao con cũng là người thừa, mọi người đều chán ghét con, sống cũng không có ý nghĩa gì, xin vĩnh biệt, A ma bảo trọng!” Nói xong rút dao kề vào cổ, đám thị vệ Lưu Thiết Thành, Đức Lăng Thái hoảng kinh xông lên, quỳ xuống giật con dao trong tay Dận Tường. Ngũ Ca quỳ gối tiến lên cầu xin Khang Hy: “Ông chủ gia ân, xin cho khỏi phải vả mồm! Nô tài vốn không đủ tư cách nói câu này, nhưng theo chủ xem cả buổi, quả thật Thập tam gia...”. Những lời tiếp theo, anh không dám nói ra.

“Hoàng thượng”, Dận Tự bước tới một bước, nói: “Thập tam đệ tuổi nhỏ, không nơi nương tựa, không tránh khỏi hơi kiêu căng, không biết giữ mồm. Hoàng thượng đừng giận em, bao nhiêu ngoại phiên nhìn vào, em sĩ diện, thực ra trong lòng không có gì”. Bây giờ Khang Hy mới bình tĩnh lại, vua thở ra nặng nề, đứng lên bỏ đi. Mọi người vội vàng đều đi theo, Dận Chân cười nói: “Hôm nay lỗi hoàn toàn do con và Bát đệ không cố sức, làm cho Hoàng thượng không chơi được thoải mái. Hoàng thượng nếu tức giận xin quở phạt nhi thần. Ngài mai nếu còn thích thú, con xin săn sói ở phía bắc vườn Sư tử, xin phụ hoàng đến xem giải buồn”.

Khang Hy dừng bước, hỏi: “Sao chỉ đi săn sói?” Dận Chân cười nói: “Săn bắn sát sinh quá nhiều, cho nên nhi thần ôm cây đợi thỏ. Sói là loài thú hại người. Năm ngoái vương gia Chiêu Ô Đạt về kinh, bầy cho con biết cách săn sói. Nhi tử dựng một thành đất ở phía bắc vườn Sư tử, dụ sói vào nhà, ước chừng có mấy trăm con, đã bỏ đói chúng mấy ngày. Ngày mai nhi thần đưa A ma đi xem, được chứ?” Nói xong mỉm cười.

Báo cáo nội dung xấu