Linh hồn ác - Chương 64 - 65
Mặc dù mặt trời tỏa sáng trên bầu trời quang đãng, nhưng đầu
giờ chiều này, cái lạnh vẫn thấu xương. Một làn hơi khói vẫn tỏa ra từ miệng
Juliette khi cô thở, rồi nó xoắn lấy gió và tan vào không khí.
Cô đã chạy xe về phía đông, về những vùng hoang dại của bang
Oregon cho tới khi đến những địa hình khúc khuỷu, nơi gọi là thành phố chỉ là
một cộng đồng khoảng mười ngôi nhà và vẫn còn những cánh rừng rậm và rộng tới
mức những con vật chưa từng biết tới sự tồn tại của con người. Khi rời đường
lớn để tiến vào con đường xóc, cô đã đỗ lại để chờ chiếc xe Ford của hai cảnh
sát tới. Ở đó cô thỏa thuận để có vài giờ riêng tư, không thể xảy ra chuyện gì
với cô ở nơi hẻo lánh này cả, và họ sẽ chờ cô ở đầu con đường duy nhất dẫn tới
mỏm đá. Mặc dù không thích nhưng vì rất thông cảm, hai cảnh sát đã nhượng bộ.
Giờ đây, đứng trên một tảng đá, Juliette cúi xuống khoảng
trống và ngắm nhìn dải lụa đen của dòng Columbia, ở cách cô hai mươi mét
bên dưới. Con sông chảy hiền hòa qua bang Oregon, uốn lượn giữa những cánh
rừng bạt ngàn, tiến sâu vào các vách đá dựng đứng rợp bóng cây để cuối cùng đến
với thế giới văn minh, nơi các con tàu chở rất nhiều hàng hóa về phía đại
dương.
Juliette cầm trên tay một chiếc hộp đen, cô cầm những gì còn
sót lại của người bạn thân Camelia. Camelia không còn người thân từ nhiều năm
nay, ngoài rất ít người thân trong gia đình ở xa, trên bờ biển phía Đông và
không biết đến cô, họ có niềm tin tôn giáo sâu sắc, kiểu niềm tin muốn xua đuổi
Camelia vì cách sống của cô chứ không ca tụng tình yêu và sự khoan dung.
Steven, chồng cũ của Camelia, cũng có mặt trong buổi lễ hỏa thiêu, nhưng lọ tro
được giao lại cho Juliette.
Trước đây, Camelia thường đùa vui về cái chết của chính
mình, về sự tự do này. Cô nói rằng tro của mình sẽ được gió cuốn đi và cuối
cùng cô cũng được bay lên. Cô sẽ biến thành hàng ngàn hạt bụi nhỏ, được nhìn
thế giới từ trên trời, rồi sau đó rơi xuống khắp nơi cùng một lúc. Cô sẽ ở
trong các dòng sông, trên cây, trong đại dương và có thể vương lại đôi chút trong
cơn gió mạnh Đại Tây Dương nếu sự may mắn và thiên nhiên giúp đỡ.
Khuôn mặt người bạn thân hiện lên trên dòng Juliette nhắm
mắt lại. Gió thổi vào tai cô giai điệu thời gian đang trôi đi.
Cô leo lên mỏm đá bên phải. Cô biết mình đang ở bên bờ của
một vách đá dựng đứng, khoảng trống đe dọa hút cô xuống chỉ cách chân cô vài
centimet, nhưng cô không sợ.
Khi mí mắt cô mở ra, cô chìa cái hộp ra trên miệng vực, rồi
mở nắp.
- Em yêu chị...
Những hạt tro đầu tiên chầm chậm bay lên, như thể chính gió
không muốn mang chúng đi, rồi một luồng xoáy bụi bốc lên từ chiếc hộp, dường
như cố ý vẽ nên những hình thù kỳ lạ, bay lên rồi lại rơi xuống trước cặp mắt
ngạc nhiên của Juliette. Vũ điệu của tro tạo thành ký tự bí ẩn trong không khí,
rồi biến mất gần như ngay lập tức.
Đó chính là những lời từ biệt mà Camelia gửi tới cô bạn thân
nhất của mình.
Những lời cuối cùng.
Juliette vẫn ngồi trên mỏm đá hơn một giờ nữa. Cô nghĩ tới
Camelia, nhưng cũng nghĩ tới chính mình, tới chuyện xảy ra với mình năm ngoái.
Chỉ một chút xíu nữa thôi, là Camelia đã phải rải tro của cô bạn trước khi tro
mình được rải ở đây. Liệu điều đó có thay đổi được gì không? Nếu chính cô,
Juliette, chết vào ngày hai mươi chín tháng chín năm ngoái, thì hôm nay liệu
Camelia có còn sống không?
Juliette lau nước mắt từ mặt trong của tay áo.
Cô căm thù kẻ đã làm việc này, kẻ giết người đó. Kẻ điên rồ
đó.
Giọng nói của hắn ám ảnh cô, thứ âm sắc vô tính, đọc lên các
mệnh lệnh trong điện thoại đó khiến cô phát điên dại. Brolin đã cho kiểm tra
đường dây, nhờ tới sự trợ giúp của Pacific Bell để cố tìm nguồn gốc cuộc gọi,
nhưng đó hiển nhiên là một cabin điện thoại công cộng, cách xa thành phố, vì
thế cách xa mọi nhân chứng.
Chúng có hai người, Joshua đã nói với cô như thế. Kẻ giết
người và Quạ, đấy là cách anh gọi chúng. Và chúng dùng thần khúc của Dante để
giết người, ít nhất là để làm các vụ giết người của chúng trở nên nổi tiếng hơn
nhờ một động cơ bí hiểm. Chúng trích dẫn những đoạn trong “Địa ngục”. Tại sao
chúng lại chọn phần này? Mục đích cuối cùng là gì? Không phải vô tình, juliette
tin chắc như vậy. Một tối nào đó, khi hai người nói với nhau về chuyện này,
Joshua đã khuyên cô không nên nghĩ tới nó vì chỉ đầu óc Quạ mới có thể làm sáng
tỏ ý nghĩa cũng như mục đích của đoạn trích dẫn ấy. Có vẻ mờ mịt và chỉ mình Quạ
hiểu được, hắn tự giam mình trong một kiểu hoang tưởng cuồng ám, ở đó hắn tự
xây nên một vũ trụ nhỏ nhờ những cuốn sách “thánh”. Nhưng Juliette không chắc
chắn lắm. Không phải là không thể tìm ra ý nghĩa của những trích đoạn đó, bản
thân việc lựa chọn “địa ngục” đã là một thông điệp.
Cô nhìn đồng hồ đeo tay. Kim đồng hồ chỉ mười sáu giờ.
Những kẻ này phải trả giá. Chúng không có quyền tấn công
Camelia, chị ấy chẳng làm gì chúng cả.
Juliette nắm chặt tay khiến các khớp xương kêu răng rắc. Cô
cảm thấy cơn tức giận đang dâng lên, đó là mong muốn trả thù. Giết chúng ư?
Không, tất nhiên rồi. Nhưng phải làm chúng khốn khổ! Hoặc khiến chúng phải ngồi
chết dí mãi mãi trong phòng giam ẩm ướt.
Thế nhưng, liệu cô có thể làm được gì?
Phần việc của mình!
Dường như chúng muốn tôn thờ Leland, bắt chước hắn, cũng
khéo léo như hắn, chính vì chúng có mối liên hệ với nhau bằng cách nào đó.
Chúng quen biết nhau.
Nhưng cô không biết gì về Leland, không một chút riêng tư
nào.
Đột nhiên, Juliette cảm thấy hai tay mình lạnh cóng, cô lấy
lại được cảm giác của cơ thể mình và ký ức về nỗi kinh hoàng lại bật lên từ
trạng thái mơ hồ của trí nhớ lan tới tận xương thịt cô.
Có chứ. Cô có thể tiếp cận tới cuộc sống riêng tư của
Leland. Cô luôn biết bằng cách nào, nhưng chưa bao giờ dám đối mặt với lũ quỷ,
vẫn còn quá sớm.
Nhưng giờ thì không còn sớm nữa, cô tự nhủ và đứng dậy đi ra
xe của mình.
Cuộc chiến đã bắt đầu.
Chương 65
Vẫn chưa tới mười ba giờ khi Brolin bước qua cửa của
Powell’s và đi vào thế giới tĩnh lặng của kiến thức. Powell’s là một hiệu sách
có thể khiến chính Alexandre Đại đế phải tái mặt vì sự phong phú và đa dạng của
nó. Hiệu sách quá rộng và các giá sách sắp xếp quá ngoắt ngoéo làm cho người ta
rất dễ bị lạc, đến mức một số sinh viên ở Portland đặt cho nó biệt hiệu
“Thành phố sách”.
Brolin chào một nhân viên đứng sau quầy hàng nhỏ nổi bật với
một dấu hỏi khổng lồ màu trắng trên nền đen, và chỉ sau vài giây, anh tìm thấy
khu vực bán sách lý - hóa. Anh bắt đầu dò tìm, đọc mục lục của các cuốn sách mà
tựa đề có vẻ mang tính bao quát. Rồi anh lọc ra, xếp thành chồng một số cuốn mà
anh nghĩ có thể nhặt nhạnh được vài thông tin.
Anh phải tìm ra xà phòng chứa asen và kali cacbonat gắn với
cái gì. Carl DiMestro đã vất vả tách các yếu tố này từ những sợi lông động vật
được tìm thấy trên một thứ đồ lót, tất nhiên đây không phải là một chiến công,
nhưng việc chỉ dẫn này tồn tại là một phép màu. Hay đúng hơn, việc họ tìm được
chúng là một phép màu. Brolin lại nghĩ tới bản mô tả tâm lý và nhận dạng và tự
chúc mừng mình về chiến thắng nhỏ ấy. Nó xứng đáng được truyền tới tai các thầy
cô giáo của anh ở Quantico, đây sẽ là một ví dụ tuyệt vời về đóng góp của
mô tả nhân dạng vào cuộc điều tra và về các kết quả ngay lập tức của nó. Với
điều kiện nó nhanh chóng dẫn tới việc bắt được hung thủ.
Xà phòng chứa asen và kali cacbonat.
Hướng đi này không chắc chắn, nhưng chỉ cần một chút may mắn
là nó có thể đem lại kết quả. Nếu Brolin tìm ra nơi và mục đích sử dụng các sản
phẩm này, xác định loại nhà máy hay nghề nghiệp sử dụng chúng, hoặc ít nhất là
chúng có thể được sử dụng vào việc gì, thì sau đó anh sẽ có hi vọng chạm tới kẻ
giết người. Chưa có gì chắc chắn cả, tất cả mới chỉ là suy đoán. Brolin xuất
phát từ nguyên tắc là kẻ giết người có một con chó, và xung quanh nơi ở của hắn
có một khu công nghiệp hoặc ít nhất là một xưởng có sử dụng xà phòng và
cacbonat. Con chó không cần đi quá xa và lông của nó đã có thể dính đầy các
chất này.
Vậy mà Carl DiMestro nói rằng các sợi lông ngấm đẫm các
thành phần đó. Có thể con chó đã lăn vào một vũng nước, hoặc nghề của kẻ giết
người khiến hắn phải tiếp xúc với các chất này. Sau đó hắn vuốt ve con chó, đặt
bánh xà phòng chứa asen và kali cacbonat lên trên lông. Khi ấy, chỉ cần có vài
sợi lông dính vào quần áo của kẻ giết người, thế là sự việc diễn ra.
Tất cả chỉ dựa trên xác suất,
Nhưng đây là tất cả những gì anh có, hơn nữa, đây là lời
giải thích lô gic nhất.
Sau một giờ nghiên cứu, Brolin đã lấy ra đặt vào khoảng ba
chục cuốn sách. Powell’s là một cửa hàng bán sách và người ta không đến đây để
nghiên cứu, vì thế chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi một nhân viên lại gần anh,
vẻ soi mói.
- Tôi có thể giúp gì được anh?
Brolin lắc đầu và lục túi trong của áo vest, rút ra tấm biển
hiệu thanh tra.
- Trừ khi anh biết xà phòng chứa asen và kali cacbonat dùng
để làm gì…
Anh nhân viên chừng ba mươi tuổi, đeo cặp kính to gọng đỏ,
mái tóc dài vén qua tai, nhăn mặt tỏ ý “để tôi suy nghĩ một chút” hoặc gần như
thế.
- Kali cacbonat được dùng để sản xuất một số loại thủy tinh
và hình như cả nước hoa nữa. Tôi đã xem trên một phim tài liệu cách đây vài
hôm. Thế thôi. Còn về xà phòng chứa asen, tôi chẳng biết gì cả. Để phục vụ điều
tra ư?
- Hừm…Anh nói là để sản xuất thủy tinh?
- Và nước hoa nữa, hình như thế.
- Anh có sách nào nói về sản xuất thủy tinh
- Ồ có, nhất định là có.
Brolin sửng sốt khi thấy người bán hàng dễ dàng định hướng
giữa vô vàn sách tham khảo trong cửa hàng. Chẳng cần mất nhiều thời gian, người
bán hàng chìa cho viên thanh tra một cuốn sách nhan đề Sản xuất thủy tinh, từ
thợ thổi đến công nghiệp hóa.
- Đây. Tôi sẽ hỏi đồng nghiệp của tôi về xà phòng, anh ấy
biết khá nhiều về hóa học.
Brolin cảm ơn và bắt tay vào đọc cuốn sách dày, bắt đầu từ
phần chỉ dẫn. Anh giở nhiều trang, nhưng không có gì đáng chú ý cả, có rất
nhiều dữ liệu, vài bức ảnh và hình vẽ nhiều màu.
Anh nhân viên bán hàng đeo kính gọng đỏ trở lại sau vài phút
với tách cà phê nóng hổi trên tay.
- Anh uống đi, nó rất tốt cho những lúc nghiên cứu, anh ta
nói.
Sự quan tâm khiến Brolin cảm động, anh chợt thoát được khỏi
bản chất đa nghi và ít nói của mình.
- Cảm ơn, anh tốt quá. Cuốn sách này quả là ác mộng! Tám
trăm trang sách chữ nhỏ, liệu có ai mua nó không? Anh vừa nhấp cốc cà phê vừa
đùa.
- Anh yên tâm đi, chúng tôi dùng cuốn sách này để kê một cái
bàn. Tôi đã hỏi một đồng nghiệp về xà phòng chứa asen. Anh ấy không biết nhiều
công dụng, nhưng đây là một chất sát khuẩn. Kali cacbonat cũng có thể được dùng
làm chất bảo quản, nhất là đối với các xác ướp, anh ấy nói như vậy. Cần phải
nói thêm rằng anh ấy say mê lịch sử cổ đại, đặc biệt là Ai Cập thời các
pharaon. Kali cacbonat có thể được dùng để giúp xác ướp không bị khô. Tóm lại,
đây là một trong các chất cần thiết.
- Cho xác ướp?
Nơi nào ở Portland người ta làm việc với cả các xác ướp nhỉ?
Theo như anh biết, không bảo tàng nào trong thành phố có xác ướp. Và tại sao
lại dùng cả chất diệt khuẩn như xà phòng chứa asen? Loại nhà máy nào có thể kết
hợp cả hai? Để thu được gì?
Brolin xem xét một số lượng lớn nghề nghiệp, nhưng không tìm
ra nghề nào có thể sử dụng các sản phẩm loại này. Nhưng làm sao mà biết được?
Nhiều cơ sở chuyên nghiệp có “bí quyết” riêng của họ, cách pha trộn riêng…
Một chất sát khuẩn và một chất chống khô.
Và…
Bỗng đầu óc Brolin sáng lên. Anh so sánh các dữ liệu và một
giả thiết chợt hình thành sau khi đối chiếu.
Kẻ giết người đã cắt tay chân của các nạn nhân rất cẩn
thận, tỏ ra có kiến thức chuẩn xác về giải phẫu học. Hắn đặc biệt chú ý đến da
và xương, bỏ qua các tĩnh mạch, cơ và toàn bộ phần thịt.
Và các vệt phấn xung quanh chân của Elizabeth Stinger. Hắn
không dùng phấn để vẽ một ngôi sao năm cánh hay bất cứ thứ gì khác, mà để đo!
Hắn lấy các số đo của cô gái và dùng phấn để đánh dấu phần da!
Phải, đúng như thế. Da, xương, các số đo và các chất sát
khuẩn, kèm theo một chất chống khô, chỉ có một cách lý giải.
- Không được gì sao? Nhân viên bán hàng lo lắng. Anh uống
thêm cà phê nhé?
Brolin cảm thấy căn phòng quay tròn quanh anh ngày càng
nhanh theo mức độ kinh hoàng. Giờ thì anh đã biết.
Kẻ giết người không mang tay chân nạn nhân về làm chiến lợi
phẩm.
Còn tàn bạo hơn nhiều.
Toàn bộ người anh bị chao đảo bởi một cơn rùng mình vì kinh
tởm.

