Lồng Chim (Bird Box) - Chương 05

9

Những sinh vật, Malorie nghĩ. Thật là một từ hời hợt.

Bọn trẻ đang im lặng và dòng sông bất động. Cô có thể nghe thấy tiếng mái chèo rẽ nước. Nhịp chèo đồng điệu với nhịp đập trái tim cô và rồi nó chậm dần. Khi nó nhanh trở lại, cô cảm thấy như mình có thể chết đi.

Những sinh vật.

Malorie chưa bao giờ thích từ này. Ở khía cạnh nào đó, nó không thích hợp. Thứ đã ám ảnh cô hơn bốn năm qua không phải là những sinh vật đối với cô. Con sên trong vườn là một sinh vật. Hay một con nhím. Nhưng thứ đã ẩn nấp bên kia những cửa sổ phủ kín và buộc cô phải bịt mắt không phải thứ mà một nhân viên lò mổ có thể loại bỏ.

“Giống man di” cũng không đúng. Giống man di liều lĩnh. Súc vật cũng thế.

Đâu đó trên bầu trời, một chú chim đang hót. Mái chèo xẻ nước, di chuyển với từng nhịp chèo.

“Sinh vật khổng lồ” cũng không hẳn. Chúng có thể chỉ nhỏ như móng tay.

Mặc dù họ mới bắt đầu chuyến du hành trên sông, cơ bắp Malorie đã nhức nhối vì chèo thuyền. Áo sơ mi của cô đẫm mồ hôi. Chân cô lạnh ngắt. Dải khăn bịt mắt tiếp tục làm da ngứa ngáy.

Ác quỷ. Tà ma. Yêu tinh. Có lẽ chúng là tất cả những thứ đó.

Chị gái cô chết vì nhìn thấy một trong số chúng. Cha mẹ cô hẳn cũng đã chịu chung số phận.

“Tiểu quỷ” thì tử tế quá. “Kẻ mọi rợ” thì nhân tính quá.

Malorie không chỉ sợ những thứ có thể lội trong sông, cô còn bị chúng thu hút.

Chúng có biết họ đang làm gì không? Chúng có định làm gì họ không?

Ngay lúc này, cả thế giới như thể đã chết. Có cảm giác con thuyền này là nơi cuối cùng còn tìm thấy sự sống. Phần còn lại của thế giới xòe ra như cánh quạt từ mũi thuyền, một địa cầu hoang vu, đang nảy nở và trống rỗng cùng với từng nhịp chèo.

Nếu chúng không biết mình đang làm gì, không thể coi chúng là “kẻ ác”.

Bọn trẻ đã im lặng khá lâu. Bài ca thứ hai của lũ chim vang lên trên đầu. Một con cá quẫy mình. Malorie chưa bao giờ nhìn thấy dòng sông này. Nó trông như thế nào? Cây có mọc kín hai bên bờ hay không? Những ngôi nhà có trải dọc bờ sông hay không?

Chúng là quái vật, Malorie nghĩ. Nhưng cô biết chúng còn hơn thế. Chúng là vô định.

“Mẹ ơi!” thằng bé đột nhiên hét lên.

Một con chim săn mồi hót lên lanh lảnh, tiếng nó vang vọng khắp mặt sông.

“Gì thế, Boy?”

“Tiếng gì như tiếng động cơ.”

“Cái gì?”

Malorie dừng chèo thuyền. Cô lắng nghe thật kĩ.

Ở xa xa, thậm chí còn to hơn tiếng nước chảy, vọng đến âm thanh của động cơ.

Malorie nhận ra ngay lập tức. Đó là tiếng một con thuyền khác đang đến gần.

Thay vì cảm thấy phấn khích trước triển vọng gặp một con người khác trên dòng sông này, Malorie sợ hãi.

“Ngồi xuống đi hai đứa,” cô nói.

Cô để cán mái chèo ngang đùi. Con thuyền nhấp nhô.

Thằng bé nghe thấy, cô tự nhủ. Thằng bé nghe thấy bởi vì mày dạy nó tốt và bấy giờ nó nghe tốt hơn nhìn.

Hít một hơi sâu, Malorie chờ đợi. Tiếng động cơ gầm lên to hơn. Con thuyền đang đi ngược dòng.

“Oái!” Thằng bé hét lên.

“Sao thế, Boy?”

“Tai con! Con bị quệt phải cành cây.”

Malorie nghĩ đây là điều tốt. Nếu cành cây chạm vào thằng bé, họ có vẻ ở gần bờ. Chắc là nhờ sự phù hộ mà họ đáng được nhận, những tán lá sẽ che chắn cho họ.

Bây giờ con thuyền kia đã đến gần hơn. Malorie biết rằng nếu có thể mở mắt, cô có thể nhìn thấy nó.

“Đừng tháo băng bịt mắt,” Malorie nói.

Và con thuyền đi song song với họ. Nó không vượt qua.

Bất kể là ai, Malorie nghĩ, họ có thể nhìn thấy chúng ta.

Tiếng động cơ dừng lại đột ngột. Không khí có mùi ga. Tiếng bước chân hẳn là đi trên sàn thuyền.

“Xin chào!,” một giọng nói vang lên. Malorie không trả lời. “Xin chào! Không sao đâu. Cô có thể tháo băng bịt mắt! Tôi chỉ là một người đàn ông bình thường.”

“Không, các con không thể,” Malorie nói nhanh với hai đứa trẻ.

“Ở đây không có gì đâu, cô gái. Tin tôi đi. Chỉ có chúng ta thôi.”

Malorie vẫn im lặng. Cuối cùng, cảm thấy không có lựa chọn nào khác, cô trả lời anh ta.

“Làm sao anh biết?”

“Cô gái,” anh ta nói, “Bây giờ, tôi đang nhìn. Tôi đã mở mắt trong toàn bộ chuyến đi hôm nay. Cả hôm qua nữa.”

“Anh không thể nhìn,” cô nói. “Anh biết thế mà.”

Người lạ bật cười.

“Thật ư?,” anh ta nói, “Chẳng có gì để sợ cả. Cô có thể tin tôi. Chỉ có hai chúng ta trên dòng sông này. Hai con người bình thường đi ngang qua nhau.”

“Không!” Malorie gào lên với bọn trẻ.

Cô thả con bé ra và nắm lấy mái chèo lần nữa. Người đàn ông thở dài.

“Không cần phải sống như thế này, cô gái. Hãy nghĩ cho bọn trẻ. Cô muốn tước đoạt khỏi chúng cơ hội được ngắm nhìn một ngày xinh đẹp, tươi sáng như hôm nay sao?”

“Tránh xa thuyền chúng tôi ra,” Malorie cứng rắn nói.

Im lặng. Người đàn ông đó không trả lời. Malorie gồng mình. Cô cảm thấy bị mắc bẫy. Dễ bị tấn công. Trên con thuyền đậu sát bờ sông. Trên con sông này. Trên thế giới này.

Thứ gì đó quẫy trong nước. Malorie thở dốc.

“Cô gái,” anh ta nói, “phong cảnh này thật tuyệt vời, nếu cô không phiền lòng vì chút sương mù. Lần cuối cùng cô nhìn ra bên ngoài là khi nào? Đã nhiều năm rồi nhỉ? Cô đã nhìn thấy dòng sông này chưa? Thời tiết thì sao? Tôi cá rằng cô thậm chí không nhớ thời tiết là như thế nào nữa.”

Cô nhớ thế giới bên ngoài rất rõ. Cô nhớ con đường đi bộ về nhà dưới tán lá mùa thu khi còn là một nữ sinh. Cô nhớ khoảng sân bên hàng xóm, vườn tược và nhà cửa. Cô nhớ lúc nằm trên bãi cỏ sân sau với Shannon và quyết định xem đám mây nào giống với đứa con trai, con gái nào trong lớp.

“Chúng tôi vẫn sẽ bịt mắt,” Malorie nói.

“Tôi đã từ bỏ việc đó rồi, cô gái,” anh ta nói. “Tôi đã vượt qua. Sao cô không làm thế?”

“Giờ thì để chúng tôi yên,” cô cao giọng.

Người đàn ông thở dài.

“Chúng không thể ám ảnh cô mãi mãi,” anh ta nói. “Chúng không thể buộc cô sống như thế này mãi mãi. Cô biết mà, cô gái?”

Malorie chống mái chèo bên phải vào một điểm mà cô nghĩ rằng mình có thể đẩy thuyền xa khỏi bờ.

“Tôi buộc phải tự tay tháo băng bịt mắt của cô,” người đàn ông đó đột nhiên nói.

Malorie không nhúc nhích.

Giọng anh ta có vẻ gầm gừ. Anh ta có vẻ hơi tức giận.

“Chúng ta chỉ là hai con người,” anh ta tiếp tục. “Gặp nhau trên một dòng sông. Bốn người nếu cô tính cả lũ trẻ. Không thể trách cứ lũ trẻ chỉ vì cách cô nuôi dạy chúng. Tôi là người duy nhất ở đây có can đảm mở to mắt nhìn. Nỗi lo lắng của cô chỉ bảo vệ cô an toàn đủ lâu trước khi tiếp tục lo lắng.”

Lúc này, giọng anh ta vang lên từ một chỗ khác. Malorie nghĩ rằng anh ta đã bước đến mũi thuyền. Cô chỉ muốn vượt qua anh ta. Cô chỉ muốn đi xa hơn ngôi nhà họ đã rời khỏi sáng nay.

“Và tôi nói cô nghe,” người đàn ông đó đột nhiên lên tiếng, vô cùng gần, “Tôi đã nhìn thấy một trong số chúng.”

Malorie túm lấy thằng bé và kéo lưng áo nó lại. Thằng bé va phải đáy thuyền thép và hét lên.

Người đàn ông đó bật cười.

“Chúng không xấu xí như cô nghĩ đâu, cô gái.”

Cô chống mái chèo vào bờ sông. Cô đang luống cuống. Thật khó để tìm thứ gì đó vững chãi, cảm giác như chỉ có cành và rễ cây. Bùn.

Anh ta sẽ phát điên, Malorie nghĩ. Và anh ta sẽ làm hại mày.

“Cô đang đi đâu đấy?” Anh ta hét lên. “Cô định sẽ khóc thét lên mỗi lần nghe thấy tiếng cành cây gãy à?”

Malorie không thể đẩy thuyền đi.

“Giữ lấy băng bịt mắt!” Cô hét lên với lũ trẻ.

Người đàn ông này nói anh ta đã nhìn thấy một sinh vật. Khi nào? Khi nào?

“Cô nghĩ tôi bị điên, đúng không?”

Cuối cùng mái chèo cũng cắm mạnh vào đất. Malorie nghiến răng mà đẩy. Thuyền di chuyển. Cô nghĩ nó có thể thoát ra. Rồi nó đâm sầm vào thuyền của người đàn ông kia và cô hét lên.

Anh ta đã giăng bẫy mày.

Anh ta có buộc họ phải mở mắt ra không?

“Ai là người điên ở đây? Nhìn cô lúc này mà xem. Hai người gặp nhau trên một dòng sông…”

Người Malorie chòng chành ra trước và sau. Cô cảm thấy có một khoảng trống phía sau chiếc thuyền, rộng mở.

“… một người đang nhìn lên bầu trời…”

Malorie cảm thấy mái chèo lún sâu vào đất.

“… người kia cố gắng bịt mắt lái thuyền.”

Con thuyền sắp thoát ra.

“Vì thế, tôi phải tự hỏi mình…”

“Đi đi!,” cô gào lên.

“…Ai là người điên ở đây?”

Người đàn ông đó cười sằng sặc. Cứ như thể tiếng cười của anh ta vọng lên cả bầu trời mà anh ta đang nói đến. Cô chợt muốn hỏi: Anh đã nhìn thấy nó bao lâu rồi? Nhưng cô không hỏi.

“Để chúng tôi yên!,” Malorie hét lên.

Nước lạnh bắn lên thuyền trong lúc cô vật lộn. Girl hét lên. Malorie tự nhủ, Hỏi người đàn ông này xem anh ta nhìn thấy nó bao lâu rồi. Có lẽ sự điên rồ vẫn chưa phát tác hoàn toàn. Có lẽ nó sẽ phát tác chậm với anh ta. Có lẽ anh ta sẽ thực hiện hành động tử tế cuối cùng trước khi đánh mất tất cả tri giác về hiện thực.

Con thuyền thoát ra.

Tom từng nói rằng việc này xảy ra ở mỗi người một khác. Anh ấy nói một người điên có thể sẽ không điên thêm được nữa. Còn người tỉnh táo nhất sẽ lâu phát điên hơn.

“Mở mắt ra, đồ chết tiệt!,” người đàn ông đó gào lên.

Giọng anh ta đã thay đổi. Anh ta có vẻ say, khác hẳn.

“Thôi chạy trốn đi, cô gái. Mở mắt ra!” Anh ta nài nỉ.

“Đừng nghe hắn ta!” Cô hét lên. Boy áp sát vào cô còn Girl rên rỉ sau lưng. Malorie run rẩy.

“Mẹ các cháu là đồ điên, hai đứa ạ. Tháo đống băng bịt mắt ra đi.”

Người đàn ông đó đột nhiên gào lên, thở khò khè. Giống như có gì đó đã chết trong họng anh ta. Còn bao ]âu nữa thì anh ta tự treo cổ bằng dây thừng đang dùng làm tay vịn thuyền hay buông người xuống chân vịt đang quay của con thuyền?

Malorie điên cuồng chèo. Cô có cảm giác băng bịt mắt của mình không đủ chặt.

Thứ anh ta nhìn thấy ở gần đây. Thứ anh ta nhìn thấy ở ngay trên con sông này.

“Đừng tháo băng bịt mắt!” Malorie lại gào lên. Lúc này cô đang chèo qua con thuyền đó. “Hai đứa có hiểu mẹ nói gì không? Trả lời mẹ đi.”

“Vâng ạ!” Boy nói.

“Vâng ạ!” Girl nói.

Người đàn ông đó lại gầm lên nhưng bây giờ anh ta đã bị bỏ xa sau lưng họ. Dường như anh ta đang cố gắng gào thét nhưng quên mất phải làm như thế nào.

Khi con thuyền đã đi được khoảng bốn mươi mét nữa và gần như không còn nghe thấy âm thanh động cơ phía sau, Malorie với tay ra trước và chạm vào vai Boy.

“Đừng lo Mẹ ạ.” Thằng bé nói.

Rồi Malorie với ra sau và tìm tay Girl. Cô siết tay nó. Rồi, buông cả hai đứa ra, cô lại nắm mái chèo.

“Con có bị ướt không?” Cô hỏi con bé.

“Có ạ,” Girl trả lời.

“Dùng chăn lau khô ngay đi.”

Không khí lại có mùi sạch sẽ. Cây cối. Nước.

Mùi ga đã ở xa sau lưng họ.

Mày có nhớ ngôi nhà đã bốc mùi như thế nào không? Malorie nghĩ.

Bất chấp nỗi kinh hoàng vì gặp phải người đàn ông trên thuyền, cô vẫn nhớ. Không khí ngột ngạt, khó thở của ngôi nhà. Nó đã như thế vào ngày cô đến. Và chưa khi nào khá khẩm hơn.

Cô không ghét người đàn ông ở trên thuyền lúc nãy. Cô chỉ cảm thấy đau buồn.

“Các con làm rất tốt,” Malorie nói với lũ trẻ, run rẩy nhấn mái chèo xuống sông sâu hơn.

10

Malorie đã sống ở đây hai tuần. Mọi người trong nhà gần như sống nhờ hoàn toàn vào đồ hộp tích trữ dưới hầm, cộng thêm bất kì chỗ thịt nào còn lại trong tủ lạnh. Mỗi buổi sáng, Malorie thở phào khi thấy điện vẫn còn. Đài là nguồn tin duy nhất nhưng phát thanh viên còn lại cuối cùng, Rodney Barrett chẳng có tin tức nào mới mẻ để nói với họ. Thay vào đó, anh ta nói luyên thuyên. Anh ta tức giận. Anh ta chửi thề. Trước đây, mọi người trong nhà còn nghe thấy anh ta ngủ khi đang lên sóng. Nhưng bất chấp những điều đó, Malorie hiểu vì sao họ vẫn nghe anh ta. Dù tiếng anh ta thầm thì trong không gian chung hay lấp đầy phòng ăn nơi để đài, anh ta là sợi dây cuối cùng liên kết họ với thế giới bên ngoài.

Malorie cảm thấy như mình đang ở trong một cái hầm. Nỗi sợ hãi bị giam cầm thật khó tưởng tượng nổi, đè nặng lên cô và đứa con trong bụng cô.

Vậy mà tối nay mọi người trong nhà lại tổ chức tiệc.

Sáu người bọn họ đang tụ tập quanh bàn ăn. Cùng với đồ hộp, giấy vệ sinh, pin, nến, chăn và dụng cụ lấy từ hầm, còn có vài chai rượu rum… thêm một ít cỏ của Felix (cậu ấy ngượng ngùng thừa nhận rằng bản thân mong đợi một cuộc tụ tập của dân “híp pi” hơn là những tay đầu óc tỉnh táo mà cậu ấy đã gặp khi đến đây). Vì đang bầu bí, Malorie là người duy nhất không tham gia uống và hút. Nhưng tâm trạng này cũng dễ lây và khi Rodney Barrett bất ngờ mở một giai điệu êm dịu, Malorie đã có thể mỉm cười, đôi khi còn cười phá lên, bất chấp những nỗi kinh hoàng không biết nguồn cơn đã trở thành quen thuộc.

Trong phòng ăn có một chiếc piano. Tương tự đống truyện cười bên cạnh bàn trang điểm trong phòng ngủ của cô, chiếc piano xuất hiện giống tàn dư, gần như lạc lõng, của một cuộc sống khác.

Ngay lúc này, Tom đang chơi nó.

“Bài hát này cung gì?” Tom, đang toát mồ hôi, hét lên với Felix, đang ngồi ở chiếc bàn phía bên kia phòng. “Cậu có biết cung gì không?”

Felix mỉm cười và lắc đầu. “Tôi biết thế quái nào được? Nhưng tôi sẽ hát cùng anh từ đây, Tom ạ.”

“Xin đừng,” Don nói, vừa mỉm cười vừa nhấp một ngụm rượu.

“Không, không,” Felix vừa đáp lại vừa cười toe toét, “Tôi hát rất hay mà!”

Felix loạng choạng đứng lên. Cậu ấy đến gần Tom đang ngồi bên đàn piano. Họ cùng nhau hát bài “It’s De-Lovely”. Đài đang nằm trên chiếc bàn sát tường. Tiếng nhạc Rodney Barrett đang phát đụng chan chát với bài hát của Cole Porter.

“Cô thế nào rồi, Malorie?” Ngồi bên kia bàn, Don hỏi cô. “Đến giờ cô đã thích nơi này chưa?”

“Tôi ổn cả.” Cô nói. “Tôi nghĩ về đứa bé rất nhiều.”

Don mỉm cười. Khi anh làm thế, Malorie nhìn thấy nỗi buồn trong biểu cảm của anh. Cô biết Don cũng mất em gái. Mọi người trong ngôi nhà này đều đã trải qua sự mất mát khủng khiếp. Trong cơn hoảng sợ, bố mẹ Cheryl đã lái xe về phía nam. Chị ấy chưa hề liên lạc được với họ kể từ khi đó. Felix hi vọng sẽ biết được tin tức của anh trai bằng các cuộc điện thoại ngẫu nhiên mà cậu ấy gọi. Jules thường xuyên nói về cô vợ chưa cưới Sydney, người anh ấy tìm thấy trong máng nước ngay bên ngoài căn hộ của họ trước khi nghe theo đoạn thông báo mà Malorie đã tìm thấy. Cô ấy bị cắt cổ. Nhưng theo Malorie, câu chuyện của Tom là tồi tệ nhất. Nếu không còn từ gì khác để diễn tả.

Bây giờ, nhìn anh ngồi sau đàn piano, trái tim Malorie tan vỡ.

Khi bài “It’s De-Lovely” kết thúc, họ lại có thể nghe rõ tiếng đài. Bài hát Rodney Barrett đang phát cũng dừng. Sau đó, anh ta bắt đầu nói.

“Nghe này, nghe này,” Cheryl nói. Chị đi ngang phòng đến chỗ để chiếc đài. Chị khom người và vặn núm tăng âm. “Anh ta nghe có vẻ tuyệt vọng hơn bình thường.”

Tom phớt lờ chiếc đài. Toát mồ hôi, hớp một ngụm rượu, anh lóng ngóng dạo đoạn mở đầu của bài “I Got Rhythm” của Gershwin. Don đang quay sang để xem Cheryl nói gì. Jules, đang ngồi tựa lưng vào tường vuốt ve Victor, từ từ quay đầu về phía chiếc đài.

“Những sinh vật,” Rodney Barrett đang nói. Giọng anh ta ề à. “Chúng mày đã cướp đoạt của tao những gì? Chúng mày đang làm gì ở đây? Chúng mày có mục đích gì?”

Don đứng dậy khỏi bàn và đi đến cạnh Cheryl. Tom dừng chơi đàn.

“Tôi chưa bao giờ nghe anh ta nói chuyện trực tiếp với các sinh vật này trước đây,” anh nói, vẫn ngồi trên chiếc ghế trước đàn.

“Chúng tao đã mất bố mẹ, anh chị em,” giọng Rodney Barrett tiếp tục vang lên. “Chúng tao mất vợ và chồng, người yêu và bạn bè. Nhưng không gì đau đớn bằng những đứa trẻ chúng mày đã cướp của chúng tao. Làm sao mày dám sai khiến một đứa trẻ nhìn mày?”

Malorie nhìn Tom. Anh đang lắng nghe. Đôi mắt anh có phần xa xăm. Cô đứng lên và đi về phía anh.

“Trước đây anh ta cũng say,” Cheryl nói về Rodney Barrett. “Nhưng chưa bao giờ như thế này.”

“Chưa bao giờ,” Don nói. “Có vẻ như anh ta còn say hơn chúng ta.”

“Tom,” Malorie gọi tên và ngồi xuống bên cạnh anh trên ghế.

“Anh ta sẽ tự tử,” đột nhiên Don nói.

Malorie ngẩng lên, muốn bảo Don im miệng, sau đó cô nhận thấy chính điều Don vừa nói. Sự trống rỗng tuyệt đối trong giọng nói của Rodney Barrett.

“Hôm nay, tao sẽ lừa chúng mày,” Barrett nói. “Tao sẽ lấy nó trước, thứ duy nhất còn lại mà chúng mày có thể cướp khỏi tao.”

“Ôi Chúa tôi,” Cheryl kêu lên.

Đài im bặt.

“Tắt đài đi, Cheryl,” Jules nói. “Tắt đi.”

Khi Cheryl với tay về phía đài, tiếng súng nổ vang lên trong loa.

Cheryl hét lên. Victor sủa.

“Chuyện quái gì vừa xảy ra thế?,” Felix hỏi, mắt đờ đẫn nhìn chằm chằm vào chiếc đài.

“Anh ta đã làm thế,” Jules thẫn thờ nói. “Tôi không thể tin được điều này.”

Rồi im lặng.

Tom đứng lên khỏi ghế đàn và tắt đài đi. Felix uống rượu. Jules quỳ một chân xuống, xoa dịu Victor.

Rồi, đột nhiên, cứ như là vọng âm của tiếng súng, có tiếng gõ cửa.

Tiếng gõ thứ hai nhanh chóng vang lên.

Felix bước về phía cửa, Don túm lấy tay cậu.

“Đừng cứ thế mà mở cửa, chàng trai,” anh nói. “Thôi nào. Chuyện gì xảy ra với cậu thế?”

“Tôi sẽ không làm thế đâu!” Felix đáp lại. Cậu ấy rút tay ra.

Tiếng gõ cửa lại vang lên. Giọng một phụ nữ gọi họ.

“Xin chào?”

Mọi người trong nhà im lặng và đứng yên.

“Ai trả lời cô ấy đi,” Malorie nói, đứng dậy khỏi ghế đàn để tự mình làm điều ấy. Nhưng Tom đã đi trước cô.

“Chào!” anh trả lời. “Chúng tôi đây. Cô là ai?”

“Olympia! Tên tôi là Olympia! Để tôi vào được không?”

Tom dừng lại. Anh có vẻ say.

“Cô đến một mình à?” anh hỏi.

“Vâng!”

“Cô có nhắm mắt không?”

“Có, tôi đang nhắm mắt. Tôi rất sợ. Xin hãy để tôi vào được không?”

Tom nhìn sang Don.

“Ai đó lấy chổi đi,” Tom ra lệnh. Jules đi lấy.

“Tôi không nghĩ chúng ta có thể nuôi thêm bất kì cái miệng nào nữa,” Don phân trần.

“Anh điên rồi,” Felix lên tiếng. “Ngoài kia là một phụ nữ…”

“Tôi hiểu chuyện gì đang diễn ra, Felix,” Don tức giận nói. “Chúng ta không thể chứa chấp cả đất nước này.”

“Nhưng cô ấy ở ngay ngoài kia,” Felix đáp trả.

“Và chúng ta đang say rượu,” Don nói.

“Thôi nào, Don,” Tom ngăn lại.

“Đừng biến tôi thành kẻ ác,” Don nói. “Anh cũng như tôi, biết rõ là chúng ta còn bao nhiêu hộp thức ăn trong hầm.”

“Xin chào?” Người phụ nữ kia gọi lần nữa.

“Chờ chút!” Tom trả lời.

Tom và Don nhìn nhau chằm chằm. Jules đi vào tiền sảnh. Anh đưa một cái chổi cho Tom.

“Cứ làm những gì mọi người muốn,” Don nói. “Nhưng chúng ta sẽ chết đói sớm hơn.”

Tom quay ra cửa trước.

“Mọi người,” anh tiếp tục lên tiếng, “nhắm mắt lại.”

Malorie lắng nghe tiếng giày của anh gõ trên sàn gỗ nơi tiền sảnh.

“Olympia?” Tom gọi.

“Vâng!”

“Tôi sẽ mở cửa bây giờ. Khi tôi làm thế, khi cô nghe thấy tiếng cửa mở, cô sẽ bước vào trong nhà nhanh hết mức có thể. Cô hiểu không?”

“Vâng!”

Malorie nghe tiếng cửa mở. Có chuyển động. Cô hình dung Tom đang kéo cô gái đó vào trong như những người bạn cùng nhà đã kéo cô vào hai tuần trước. Rồi cánh cửa đóng sập lại.

“Cứ nhắm mắt nhé!” Tom nói. “Tôi sẽ sờ quanh cô. Đảm bảo rằng không có thứ gì đi vào cùng cô.”

Malorie có thể nghe thấy tiếng chổi quét trên tường, sàn nhà, trần nhà và cửa trước.

“Được rồi,” cuối cùng Tom bảo. “Mở mắt ra.”

Khi Malorie làm thế, cô nhìn thấy một cô gái xinh xắn, tóc đen, da trắng đứng cạnh Tom.

“Cám ơn,” cô ấy thều thào nói.

Tom định hỏi cô ấy điều gì đó nhưng Malorie cắt ngang.

“Cô đang mang thai?,” cô hỏi Olympia.

Olympia nhìn xuống bụng. Cô ấy run rẩy ngước lên và gật đầu khẳng định.

“Tôi bốn tháng rồi,” cô ấy nói.

“Thật tuyệt vời,” Malorie vừa nói vừa bước lại gần hơn. “Tôi cũng thế.”

“Chết tiệt,” Don chửi thề.

“Tôi là hàng xóm gần đây,” Olympia lên tiếng. “Tôi xin lỗi đã dọa mọi người như thế. Chồng tôi làm trong không quân. Tôi đã không có tin tức gì của anh ấy nhiều tuần rồi. Có lẽ anh ấy đã chết. Tôi nghe thấy mọi người. Tiếng đàn piano. Mất một lúc tôi mới có can đảm để đi sang đây. Phải lúc bình thường, tôi sẽ mang theo bánh nướng.”

Bất chấp thông tin kinh hoàng mà mọi người trong phòng vừa nghe thấy, suy nghĩ ngây thơ của Olympia xuyên qua cả tăm tối.

“Chúng tôi rất vui vì cô đã đến đây,” Tom nói nhưng Malorie có thể nghe ra sự mệt mỏi và áp lực của việc chăm sóc hai phụ nữ mang thai trong giọng nói của anh. “Vào đi.”

Họ đưa Olympia đi dọc hành lang hướng đến phòng khách. Ở chân cầu thang, cô ấy thở dốc và chỉ vào tấm ảnh treo trên tường.

“Ồ!” Cô ấy nói. “Anh ấy ở đây à?”

“Không,” Tom trả lời. “Anh ấy không ở đây nữa. Chắc cô quen anh ấy. George. Anh ấy từng là chủ ngôi nhà này.”

Olympia gật đầu.

“Vâng, tôi đã nhìn thấy anh ấy rất nhiều lần.”

Rồi sau đó mọi người trong nhà tụ tập ở phòng khách. Tom ngồi với Olympia trên đi văng. Malorie im lặng lắng nghe Tom nghiêm túc hỏi Olympia về những vật dụng trong nhà cô. Những gì cô có. Những gì cô đã để lại.

Những gì họ có thể dùng ở đây.

Báo cáo nội dung xấu