Lũ Người Quỷ Ám - Chương 10

3

Satov quả quái gở thật, nhưng phải có cái gì thầm kín bên trong. Trước hết, tôi không ngờ Liza thực sự muốn xuất bản sách. Kế đến, cái thư ngu xuẩn, song le nói lên rõ ràng là tác giả dọa cung cấp hồ sơ ám hại nhưng về chuyện đó bọn họ im lặng, mà chỉ hỏi chuyện khác. Và sau cung, chuyện nhà in? Tôi thấy Satov bắt đầu giận lúc Liza nói với nhà in. Tôi nghĩ là phải có gì xảy ra trước khi tôi đến mà tôi không rõ. Cho nên tôi cảm thấy thừa và chẳng có gì liên quan đến tôi. Dù sao cũng tới lúc tôi xin kiếu từ: đây là lần đầu tiên viếng thăm và đã kéo dài tạm đủ. Tôi đứng dậy để cáo từ. Liza dường như quên hẳn sự có mặt của tôi trong phòng. Nàng vẫn còn đứng ngay chỗ cũ trước bàn. Đầu cúi trầm ngâm, như đang ngắm nghía một điểm gì đặc biệt trên thảm. Nàng nói nhỏ nhẹ, thân mật và lễ phép như thường lệ:

- Ô, ông cũng về à... xin chào. Cho tôi gửi lời thăm ông Verkhovenxki, và thúc ông tới tôi sớm. Mavriki, ông

Govorov kiếu từ. Ông thứ cho, mẹ tôi không ra

đươc...

Tôi vừa xuống khỏi bậc thềm, người hầu đuổi theo kịp.

-  Thưa ông, cô Elizaveta xin ông vui lòng nán lại.

-  Cô Elizaveta? Thưa vâng ạ.

Liza không tiếp tôi trong phòng khách to lúc nãy, mà trong phòng nhỏ kế bên. Cửa thông sang phòng khách, còn Mavriki một mình trong đó đã khép lại.      

Nàng mỉm cười với tôi, nhưng mặt nàng trông xanh mét. Nàng đứng giữa phòng, vẻ lưỡng lự, dường như có sự giằng co trong lòng. Đột nhiên nàng chụp lấy cánh tay tôi, chẳng nói chẳng rằng, lôi tôi đến bên cửa sổ. Nàng thều thào, trừng mắt nhìn tôi, đầy ý chí nóng nảy như không chấp nhận sự cãi lại.

-  Tôi muốn gặp ả ngay tức khắc. Tôi phải nhìn tận mắt, tôi van ông giúp tôi.

Nàng như chẳng còn tự chủ nữa, hoàn toàn tuyệt vọng. Tôi lo lắng hỏi nàng:

-  Cô Elizaveta Nicolaevna, cô muốn gặp ai?

-  Con què - nhà Lebiadkin. Nó què thật sự không?

Tôi bối rối, cuống lên, nói lắp bắp, không thành lời:

-  Tôi chưa gặp cô ấy bao giờ, tôi chỉ nghe nói là thọt chân. Thế thôi, tối qua tôi còn nghe nói vậy.

-  Tôi phải gặp nó. Ông thu xếp cho tôi nội ngày nay được chứ?

Tôi cảm thấy thương hại nàng vô cùng, tôi cô thuyết phục cho nàng tỏ ra biết điều:

- Không thể được. Tôi cũng không biết phải làm việc đó như thế nào. Tôi sẽ tới gặp anh Satov xem sao.

- Nếu ông thu xếp trong ngày mai không được, tôi sẽ đích thân đến chỗ ả ở. Tôi đi một mình vì Mavriki từ chối

theo tôi. Giờ tôi chỉ còn hi vọng vào ông. Không còn ai giúp tôi được. Khi nãy tôi không biết cư xử với

Satov, xử sự ngu ngốc quá. Tôi tin rằng, ông tử tế và cao thượng - và có lẽ ông quí mến tôi đôi chút. Ông

làm ơn - vui lòng thu xếp giùm

tôi.

Ngay lúc ấy tôi muốn giúp nàng hết lòng. Sau khi suy nghĩ vấn đề một chặp, tôi trình bày với nàng:

- Tôi sẽ làm như thế này. Tôi sẽ đi một mình. Tôi bảo đảm gặp được cô ta. Tôi hứa danh dự là sẽ tìm hết cách

gặp được mới nghe. Nhưng cô phải cho tôi tham khảo ý kiến với Satov trước mới

được.

- Ông nhớ nói lại với ông Satov, là tôi có ý định như vậy và tôi không thể chờ đợi thêm nữa. Giải thích thêm

giùm, lúc nãy tôi không có ý định phỉnh ông ấy, ông ấy bỏ đi ngang như vậy có lẽ vì tính thẳng thắn nóng nảy

và ông ấy nghi tôi có ý lừa gạt. Tôi thực không có lòng dạ đó. Tôi có ý định xuất bản sách và mộ một nhà

in...

Tôi sốt sắng tán đồng:

- Vâng, tính anh ấy rất thẳng thắn.

- Nhưng nếu ông thu xếp không xong trong ngày mai, tôi quyết định đi một mình. Tôi không ngại gì cả, dù mọi

người có biết

được.

Tôi lấy lại được chút bình tĩnh:

-  Ngày mai tôi không thể đến đây trước ba giờ.

Nàng mỉm cười và bắt tay tôi một cách vội vã:

- Được rồi, ba giờ trưa mai. Ông quí mến tôi thật, tôi đoán không lầm từ hôm qua gặp ông ở nhà bác

Verkhovenxki.

Nàng quày quả bước sang phòng khách với Mavriki.

Tôi ra về, nghĩ tới lời hứa mà lo lắng, không hiểu vì sao con gái trong tuyệt vọng, chẳng còn e ngại gì, đành phó mặc tin cậy vào người đàn ông vừa mới quẹn. Thoạt từ buổi đầu gặp gỡ, nụ cười đầy nữ tính và việc nàng thấu hiểu tâm tình tôi đối với nàng đã làm tim tôi xao xuyến. Tôi thấy thương hại nàng, như thế là đủ! Bí ẩn của nàng, trở thành thiêng liêng đối với tôi và nếu có ai cố bảo cho tôi, tôi cũng bịt tai lại chẳng màng nghe. Tuy thế tôi vẫn có một dự cảm không may... Và bây giờ tôi biết làm sao giữ được lời hứa đây?! Tôi không biết người ta trông cậy tôi làm gì. Tôi phải sắp đặt một cuộc gặp gỡ, nhưng gặp gỡ nào? Tôi nào có phép mầu gì làm cho họ gặp gỡ nhau? Chỉ còn biết bám vào Satov, dù ngờ rằng anh chẳng giúp được gì, tôi cũng vội vã đến nhà anh.

4

Tôi tới nhà anh lúc bảy giờ hơn. Tôi ngạc nhiên thấy có khách: Kirillov và người nữa tên Sigaliov, tôi biết qua loa, là anh vợ của Virghinxki.

Sigaliov vừa đến thành phố chúng tôi chừng vài tháng nếu tôi không lầm. Tôi không rõ anh ta từ đâu đến. Tôi chỉ biết anh ta có viết bài trên một tạp chí cấp tiến của Petersburg. Virghinxki đã một lần giới thiệu chúng tôi với nhau ở ngoài phố rồi. Vẻ mặt anh ta đập mạnh vào mắt tôi. Thú thực, trong đời, tôi chưa hề thấy vẻ mặt nào cau có, sầu thảm như vậy. Anh ta có vẻ như đang trông ngóng ngày tận thế, không phải một ngày vu vơ căn cứ vào lời tiên tri chẳng bao giờ xảy ra, mà là cả quyết chắc nịch, chẳng hạn như ngày mai đúng mười giờ hai mươi lăm. Dịp ấy, Sigaliov và tôi chẳng trao đổi nhau một lời, chúng tôi bắt tay như hai kẻ âm mưu. Tôi chú ý nhất là đôi vành tai quá khổ của anh ta, dài, rộng và dày vểnh ra khỏi đầu. Điệu bộ của anh ta chậm chạp và vụng về. Nếu Liputin chỉ hi vọng ngày nào đó người ta tổ chức một Thế giới Đại đồng trong thanh phố chúng tôi, thì chính Sigaliov lại biết chắc ngày và giờ xảy ra. Tôi biết ngay điểm bất lành khi thấy anh ta ở nhà Satov, và kinh ngạc vô cùng, vì Satov chẳng hề thích tiếp khách bao giờ.

Tôi đã nghe tiếng ồn ào của họ khi đang lên thang lầu. Họ đang nói cùng một lúc, như cãi lẫy. Nhưng ngay khi tôi xuất hiện, họ im bặt. Họ đã đứng lúc cãi nhau, giờ họ ngồi xuống, tôi cũng phải ngồi theo. Tiếp theo là cái im lặng ngờ nghệch, kéo dài ít nhất đôi ba phút. Mặc dù tôi biết anh ta nhận ra tôi, nhưng Sigaliov vờ như không - tôi chắc chắn lý do không phải vì hiềm thù, mà tự nhiên chẳng có duyên cớ gì hết. Kirillov và tôi gật đầu chào nhau, nhưng không bắt tay. Sigaliov, cau mày nhìn tôi một cách nghiêm khắc, tin tưởng một cách ngây thơ rằng tôi sẽ phải đứng dậy rút lui. Sau cùng Satov đứng lên, cả hai người kia cũng đứng phắt dậy theo và đi ra khỏi phòng không chào tạm biệt. Nhưng vừa tới ngưỡng cửa Sigaliov quay lại nói với Satov đang theo sau:

-  Nhớ rằng anh còn phải thanh toán với chúng tôi.

-  Tôi nhổ toẹt, và tôi chẳng phải thanh toán gì cho ai cả.

Satov nói xong đóng cửa cài then lại.

-Đồ ngu một lũ.

Anh thốt lên, nhìn tôi cười gượng nên trông như mếu. Satov dường như giận lắm. Tôi ngạc nhiên nghe anh lên tiếng trước. Thường khi tôi đến thăm anh, rất hiếm hoi, anh ngồi trong một xó, vẻ mặt cau có, một lúc lâu chỉ trả lời nhát gừng câu hỏi của tôi. Anh chỉ hứng về lúc cuối, bấy giờ anh mới nói thoải mái. Rồi đến lúc tiễn bạn ra về, anh trở lại cau có, như thể đang tránh khỏi một kẻ thù.

Tôi lên tiếng:

-  Tôi dùng trà với Kirillov tối qua. Anh ta dường như quá lậm huyết vô thần.

Satov đứng lên thắp ngọn nến mới, càu nhàu:

-  Chủ nghĩa vô thần ở Nga chỉ là bon chơi văn giỡn chữ.

-  Theo tôi Kirillov không phải bọn ấy đâu. Anh ta diễn tả còn thấy khó khăn nói gì giỡn chữ.

-  Bọn đó không hơn gì hình nộm, nô dịch tư tưởng chẳng khác nào lũ đầy tớ.

Satov phát biểu xong, ngồi xuống ghế trong góc phòng, và chống khuỷu tay lên đầu gối. Sau một hồi im lặng, anh nói tiếp, lớn tiếng như thể từ cơn thịnh nộ trong lòng tuôn ra:

- Ở đây cũng có hận thù. Bọn chúng chắc sẽ là những người đầu tiên đau khổ khủng khiếp, nếu nước Nga có thay đổi nào - ngay như thay đổi theo ý của chúng nó - nước Nga bất ngờ trở nên cực kì giàu có, thịnh vượng. Bọn chúng lúc đó không còn ai để thù ghét, để phỉ nhổ, chẳng còn gì để nhạo báng! Bọn chúng chẳng có gì đóng góp cho nước Nga ngoài lòng hận thù thú vật và nó đã ăn mòn cơ thể của bọn chúng. Và không hề có dấu giọt nước mắt nào đằng sau sự cười nhạo kia. Ở nước Nga chưa hề có lời nào man trá bằng những lời nói về những giọt nước mắt đó.

Tôi cười:

-  Có trời hiểu anh nói gì!

Satov cười gằn:

- Anh là người “tự do ôn hòa”. - Đột nhiên anh lên tiếng tiếp: - Anh biết chứ - có lẽ tôi ngu dại đề cập tới sự

nô dịch của bọn chúng. Anh có thể nói vào mặt tôi: “Anh nói rất khéo, vì anh vốn là con của tên nông

nô”.

- Tôi nào dám nghĩ đến điều như thế. Anh nói gì lạ vậy?

- Đừng cải chính. Tôi không sợ những gì anh nói đâu. Tôi sinh ra là con một nông nô, bây giờ tôi trở thành tên

bồi cũng như anh vậy. Một người Nga theo chủ nghĩa tự do, trước hơn ai hết là một tên bồi luôn luôn đi tìm

quan thầy để đánh giầy

hầu.

- Giầy gì? Anh muốn ví von gì?

- Không ví von gì cả. Tôi biết, tôi chỉ làm trò cười cho anh... Ông Verkhovenxki cho rằng tôi nằm dưới tảng đá, bị nghiền dập, ngắc ngoải cố vùng vẫy trong tuyệt vọng. So sánh hay đáo để.      

Tôi cười bảo:

- Ông Verkhovenxki quả quyết với tôi rằng anh thù ghét người Đức. Nhưng tôi vẫn cho rằng chúng ta đã tìm cách

móc túi ít nhiều trong túi người Đức và bỏ vào túi chúng

ta.

- Vâng, chúng ta móc hai cắc mà phải trả một trăm rúp.

Chúng tôi im lặng một lúc, rồi anh lên tiếng:

- Còn thằng nọ thì mắc chứng đó bên Mĩ.

-  Ai? Mắc chứng gì?

-  Kirillov. Nó và tôi sống chung bốn tháng trong chòi, nằm dưới đất.

Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Anh có đi Mĩ à? Chưa hề nghe anh nói tới.

- Chẳng có gì đáng nói. Hai năm trước đây, ba chúng tôi đi Mĩ như dân di cư. Chúng tôi dốc hết tiền túi mua vé

tàu. Chúng tôi đi Mĩ để thể nghiệm cuộc sống người công nhân Mĩ và bằng cách đó qua kinh nghiệm cá nhân nếm

mùi đời sống dưới điều kiện xã hội ngặt nghèo nhất. Đó là mục đích của chuyến

đi.

Tôi cười to:

- Trời ơi. Tưởng vì mục đích gì. Chứ cần gì phải đi Mĩ cho xa xôi. Nếu muốn có kinh nghiệm bản thân đó, anh về

miệt đồng ruộng ở đây, vào mùa gặt có phải hay hơn

không?

- Sang đó, chúng tôi làm thuê cho một nhà khai khẩn. Chúng tôi gồm sáu người Nga, thành phần sinh viên có,

nghiệp chủ bỏ dinh cơ có, sĩ quan cũng có, tất cả giống nhau là vì lý tưởng cao đẹp. Chúng tôi làm quần

quật, dầm mưa dãi nắng, vất vả trăm chiều, sức lực mỏi mòn. Cuối cùng Kirillov và tôi phải ra đi. Chúng tôi

kiệt sức, đau ốm chẳng kham nổi công việc nữa. Khi đi ra, thằng chủ còn lừa công chúng tôi nữa, đáng lẽ mỗi

người chúng tôi lãnh ba mươi Mĩ kim, nó chỉ trả tôi tám đồng, và Kirillov mười lăm. Chưa kể là lúc làm ở đó

chúng tôi còn bị đánh đập nữa. Sau đó chúng tôi thất nghiệp, sống bốn tháng trong chòi, ngủ dưới đất.

Kirillov và tôi mỗi người theo đuổi một ý

nghĩ.

- Chủ nhân đánh đập thật à? Bên Mĩ vậy sao? Tôi hình dung anh cáu tiết hắn biết chừng nào!

- Không vậy đâu. Ngược lại là khác. Chúng tôi đi tới một kết luận là người Nga sánh với người Mĩ chỉ như những

đứa trẻ con. Để được coi ngang hàng họ, người ấy phải sinh ra tại Mĩ hay ít nhất là chung sống với họ nhiều

năm dài. Chưa hết đâu, ở bên đó, đồ vật chỉ đống vài xu hờ đòi chúng tôi trả một đồng, chúng tôi sẵn sàng

trả một cách mãn nguyện. Chúng tôi bị mê hoặc bởi mọi thứ bên đó: thông thần học, luật tàn sát da đen vì kì

thị, súng đạn và du đãng. Một lần chúng tôi đáp tàu hỏa, có một tên tự tiện thò tay vào túi chúng tôi lấy

chiếc lược chải đầu tỉnh bơ. Kirillov và tôi nhìn nhau, và rất tán đồng hành động của

nó.

Tôi phát biểu:

- Đường lối của người Nga thật lạ lùng, không những chấp nhận mọi ý tưởng mà còn cố gắng bắt chước làm đúng hệt

mới

chịu.

Satov bảo:

- Tôi đã bảo anh đó, họ là những hình nộm.

- Tuy nhiên những người Nga dám vượt đại đương trên tàu chở dân cư, đến vùng xa lạ để tìm kinh nghiệm bản

thân... vân vân... Tôi cho đó là một quyết định cao cả và quảng đại. Nhưng rồi sao anh rời khỏi nước Mĩ

được.

- Tôi viết thư cho người bạn ở Âu châu và qua anh ta gửi một trăm đồng rúp.

Satov có thói quen cúi đầu trong khi nói, ngay cả lúc hăng say. Giờ đây, đột nhiên anh ngẩng đầu lên hỏi tôi:

-  Anh muốn biết tên người đó không?

-  Ai vậy?

-  Nicolai Xtavroghin.

Anh đứng lên, lại đằng bàn viết, lục lọi ngăn kéo. Tôi liên tưởng đến lời đồn đại đầy đủ chi tiết về người vợ li thân của Satov có liên lạc mật thiết với Xtavroghin ở Paris chừng hai năm trước, có nghĩa là lúc đó Satov còn ở bên Mĩ. Nếu đúng thế, tôi tự hỏi tại sao anh còn nhắc đến tên người kia. Anh nói và nhìn tôi chằm chằm:

-  Tôi vẫn chưa trả lại tiền hắn.

Rồi anh ngồi xuống, hỏi tôi với một vẻ khác lạ.

-  Chắc anh đến thăm tôi có việc cần? Chuyện gì vậy?

Tôi kể cho anh nghe đầu đuôi câu chuyện. Tôi giải thích với anh là bây giờ tôi nhận ra quả là cả vấn đề nan giải mà trong lúc quá xúc động tôi hứa ẩu. Tôi nhận rằng nó quan trọng khủng khiếp đối với Liza đến nỗi tôi quyết giúp nàng tới cùng, mặc dù tôi không biết đúng ra điều tôi hứa làm là gì. Sau đó tôi trịnh trọng nhắc lại với anh là nàng không có ý phỉnh anh, đấy chỉ là ngộ nhận, nàng rất đau lòng khi anh bỏ ngang về.

Anh lắng nghe tôi rất chăm chú.

- Có thể tôi hành động ngu muội - tôi thường như vậy. Nhưng nếu nàng không hiểu tại sao tôi bỏ về, càng tốt

cho

nàng.

Anh đứng lên, đến mở cửa và nghe ngóng bên ngoài.

-  Anh có muốn gặp đương sự không?

Tôi đứng phắt dậy hân hoan và nói:

- Muốn, nhưng làm thế nào được?

- Có gì đâu, chúng ta sang đó trong lúc chỉ có mình nàng ở nhà. Hắn đánh đập nàng chẳng nương tay nếu biết

chúng ta có sang. Tôi thường sang nàng một cách lén lút. Sáng nay tôi suýt đánh nhau với hắn một trận khi

hắn vừa định đánh

nàng.

- Anh nói sao?

- Tôi lôi đầu hắn ta khỏi nàng. Hắn muốn gây sự với tôi, nhưng hắn coi bộ gớm tôi và chuyện chấm dứt. Giờ tôi

sợ rằng hắn say sưa trở về, nhớ lại chuyện ban sáng, lôi nàng ra

đánh.

Chúng tôi vội vàng xuống lầu.

5

Cửa phòng của Lebiadkin không cài, chúng tôi đẩy cửa vào. Chỗ ở gần hai phòng nhỏ tồi tàn, tường ám khói và dán giấy báo rách tả tơi. Vài năm trước đây những phòng của nhà này làm quán ăn và quầy rượu, sau chủ nhà, Filippov dời công việc làm ăn sang nhà mới. Những phòng kia giờ khóa lại, chỉ còn hai phòng chỗ Lebiadkin thuê. Phòng đầu còn đầy những chiếc băng gỗ cùng bàn thô thiển chẳng sơn, và độc nhất chiếc ghế bành cũ kĩ thiếu mất một tay. Phòng kế, một chiếc giường kê sát góc, phủ chăn vải. Chiếc giường đó của cô Lebiadkina. Còn đại úy, tối về nhà lăn quay ra sàn đánh một giấc, chẳng mấy khi thay y phục. Khắp phòng đều dơ dáy, ẩm ướt và nhớp nháp, nước đọng thành vũng. Phòng đầu, ngay giữa nằm choán một tấm thảm to ướt mèm, kề bên vũng nước nằm một chiếc giầy cũ há mõm. Ở đây công việc cơm nước dường như chẳng ai mó tay đến, bếp lạnh tanh, Satov bảo đến cái ấm đun nước họ cũng chẳng có. Khi mới tới, đại úy không có đồng xu dính túi, và Liputin nói đúng là ban đầu đại úy phải xin ăn từng nhà. Bây giờ ngay thình lình có tiền, hắn nhậu li bì, chẳng nghĩ gì tới chỗ ăn ở cho khá hơn.

Cô Lebiadkina, mà tôi nôn nóng muốn gặp, đang ngồi bất động trên cái ghế trước bàn ăn trống trơn trong phòng thứ nhì. Cô chẳng buồn lên tiếng khi chúng tôi mở cửa và cũng chẳng thèm nhúc nhích khi chúng tôi bước vào. Satov bảo rằng cửa không gài và có lần mở toang suốt đêm. Bên ánh sáng tù mù của ngọn nến nhỏ cắm trên giá sắt, người đàn bà ngồi bất động, độ ba mươi, gầy guộc, bệnh hoạn, mặc bộ đồ vải cũ để hở chiếc cổ dài và mảnh khảnh. Tóc thưa và đen, búi nhỏ như nắm tay đứa trẻ hai tuổi nằm trên gáy. Kề bên giá nến trên bàn, chiếc gương nhỏ, thường thấy ở nhà quê, một cỗ bài cũ, một tập bài ca sứt bìa và một ổ bánh mì đã cắn vài miếng. Nàng lộ vẻ vui mừng khi thấy chúng tôi. Tôi nhận thấy nàng có đánh phấn và tô son. Nàng cũng có kẻ lông mày đậm nét dù chúng dài sẵn, mịn và đen nhánh. Chiếc trán cao và hẹp hiện đôi nếp nhăn sâu dưới lớp phấn. Nàng không đứng lên hay bước đi lúc bấy giờ, nhưng tôi cũng biết là nàng thọt chân. Tôi hình dung ngày còn trẻ hẳn nàng phải xinh đẹp lắm. Đến bây giờ, đôi mắt nâu vẫn còn vẻ gì mơn trớn, quyến rũ. Cái nhìn dịu hiền đượm vui tươi cùng thành thực và mơ mộng. Cái vẻ tươi vui thanh thoát phản ảnh trên nụ cười của nàng làm tôi ngạc nhiên nhiều nhất, sau những chuyện về chiếc roi Cozac và tính vũ phu của anh nàng. Kể cũng lạ, thay vì như người ta thường thấy biến đổi đột ngột đau khổ và kinh sợ trước nạn nhân bị Tạo hóa trừng phạt, tôi lại thấy vui thích khi thoạt nhìn nàng, và tiếp theo mối cảm tình kia, chỉ là lòng thương xót, chứ không hề có gớm ghiếc.

Satov nói với khi chúng tôi dừng lại gần bên cửa:

- Nàng ngồi như thế, ngày này qua ngày kia, đơn độc, chẳng nhúc nhích. Nàng soi gương và bói bài. Thằng anh kia

chẳng hề chăm sóc nàng. Bà già người làm của Kirillov thỉnh thoảng mang sang cho nàng vài thức ăn làm phước.

Tôi chẳng hiểu sao hắn có thể bỏ mặc nàng đơn độc với ngọn nến lù

mù.

Tôi ngạc nhiên sao Satov lại nói lớn như thể chẳng có mặt nàng trong phòng.

Cô Lebiadkina nói một cách thân thiện:

-  Chào anh Satov.

Satov đáp lời:

-  Maria, tôi đưa khách đến thăm đây.

Từ phía sau ngọn nến nàng ngó tôi chăm chăm:

-  Tôi rất vui mừng gặp ông ấy, dường như... tôi không nhớ ra.

Rồi nàng quay sang Satov, như quên hẳn sự hiện diện của tôi, nàng chỉ nói chuyện với Satov. Nàng cười lộ hai hàm răng đều đặn đẹp đẽ.

-  Anh đi lại một mình trong buồng như thế chắc buồn lắm?

-  Kể cũng buồn, và lại muốn được gặp cô.

Satov đẩy chiếc ghế băng lại gần bàn, ngồi xuống và ra hiệu cho tôi làm theo.

- Tôi cũng thích được dịp chuyện trò. Anh trông buồn cười thật, như thầy tu vậy. Anh chải tóc cách này bao lâu

rồi? Xích lại đây để tôi chải tóc

cho.

Nàng móc chiếc lược trong túi ra.

-  Từ hôm tôi chải tóc cho anh một lần rồi tới giờ tôi cá là anh chẳng có chải gỡ gì cả, đúng không?

Satov cười nói:

- Tôi có chiếc lược nào đâu.

- Thật không? Anh lấy chiếc lược này đây. Không, không phải chiếc này - tôi đưa anh chiếc khác. Nhớ nhắc tôi

nhá.

Và nàng bắt đầu chải tóc cho Satov, trông thật là trang trọng. Nàng còn rẽ ngôi ngay ngắn nữa. Xong, nàng nghiêng người ra sau, ngắm nghía tác phẩm của mình rồi bỏ lược vào túi.

- Anh Satov, anh biết không? Tôi cho là anh thông minh. Nhưng anh chán bản thân anh. Tôi không hiểu nổi những

người như anh. Tôi không hiểu sao người ta lại có thể chán được. Thực ra không phải là họ chán đâu, chẳng

qua họ không có hạnh phúc đó thôi. Tôi, tôi vui sướng với

mình.

- Cô cũng vui sướng cả khi anh cô có nhà sao?

- Anh muốn nói thằng Lebiadkin phải không? Nó là đầy tớ tôi. Không ăn nhằm gì cả, có mặt nó hay không tôi cũng

vui sướng. Tôi chỉ cần gọi: “Lebiadkin, mang nước cho tao” hay: “Lebiadkin, lấy giầy cho tao”, nó chẳng dám

chậm trễ một phút. Trông nó, đôi lúc tôi không nhịn cười

được.

Satov nói to với tôi chẳng quan tâm gì đến sự hiện diện của người đàn bà:

- Đúng thật như lời nàng nói. Nàng đối xử với hắn như tôi tớ trong nhà. Chính tôi nghe nàng vừa cười vừa sai

bảo hắn: “Lebiadkin, mang nước cho tao”. Chỉ khác là, thay vì vội vàng mang nước, hắn lại giáng cho nàng mấy

quả đấm. Nhưng nàng nào có sợ hắn. Nàng bị lên cơn hầu như mỗi ngày, đầu óc rối loạn và nhờ vậy nàng quên

mọi sự xảy ra. Chẳng hạn, anh có tin nàng nhớ khi chúng ta vào đây không? Có thể nàng nhớ, nhưng nàng lại

sắp xếp theo một cách riêng, và nàng xem chúng ta như ai khác, mặc dù nàng đã nhận ra tôi là Satov. Tôi nói

to như thế này không hề gì, vì nàng chẳng có nghe, trừ khi người ta nói trực tiếp với nàng. Thật vậy, nàng

mơ mộng triền miên. Nàng thật kì lạ, mộng lúc ban ngày: nàng ngồi một chỗ tám giờ liền, ngày này qua ngày

khác. Anh thấy ổ bánh mì đấy không? Có lẽ nàng đã cắn vài miếng hồi sáng, và tới mai cũng hết. Coi kìa, nàng

bắt đầu bói

bài.

Người đàn bà trả lời ngay khi nghe nói tới “bói”.

-  Vâng, tôi đang bói một quẻ xem sao, nhưng điềm bất lành.

Rồi chẳng buồn quay đầu xem, nàng thò tay với ổ bánh - cũng có lẽ nàng nghe Satov nói tới ổ bánh - nhưng cầm một hồi nàng lại để xuống, chẳng cắn miếng nào.

- Những lá bài bao giờ cũng cho tôi chỉ có một chuyện: có đi xa, một người độc ác, có phản bội, bạo bệnh, lá

thư không đợi, tin mừng bất ngờ. Tất cả là hư ảo, anh có nghĩ vậy không? Nếu người ta nói dối được, cỗ bài

tại sao lại

không?

Đột nhiên nàng xóa bài.

- Đó cũng chính là điều tôi bảo với dì phước Praxcovia. Dì rất tử tế và thường đến phòng kín của tôi để nhờ bói

giùm, dĩ nhiên là lén Mẹ Bề Trên. Không chỉ một mình dì, tất cả mọi người trong tu viện đều đến tôi, họ thổn

thức, nức nở, vò đầu bứt tóc tâm sự, nhưng tôi chỉ cười: “Dì Praxcovia, dì hẳn phải nhận một lá thư mà dì đã

mòn mỏi mong chờ mười hai năm rồi! Dì có người con gái, tôi biết, người con gái đi lấy chồng, theo chồng qua

Thổ Nhĩ Kì, và bặt âm hao. Ngày hôm sau, tôi ở trong phòng của Mẹ Bề Trên - Mẹ vốn là một công chúa - chúng

tôi dùng trà với người khách đàn bà - đúng thật là người mộng mị - và với một thầy tu ở núi Athos - một

người nhỏ thó, và tôi cho là rất tức cười. Anh Satov, anh đoán xem chuyện gì xảy đến. Người tu sĩ mang lá

thư của con gái ở Thổ Nhĩ Kì cho dì Praxcovia ngay trong ngày. Đúng ngay con bồi rô - có tin mừng. Còn

chuyện của chúng tôi đang dùng trà. Người tu sĩ nói với Mẹ Bề

Trên:

- Thưa Mẹ Bề Trên, Chúa ban phước lành cho tu viện của Mẹ, tu viện chứa một kho tàng.

Mẹ Bề Trên hỏi:

-  Kho tàng gì?

-  Sao lại không? Thưa Mẹ, xơ Elizaveta đó, người đầy ân phước Chúa.

Xơ Elizaveta thanh khiết, sông ở trong chiếc lồng cao hơn hai thước, rộng độ một thước rưỡi, xây trong tường của tu viện. Mười bảy năm ròng rã trong chiếc lồng, xơ chỉ mặc chiếc áo vải gai, đông cũng như hè; và việc làm độc nhất là mạng những cọng rơm vào chiếc áo. Xơ tịnh khẩu, chẳng hề tắm gội, chẳng hề chải tóc. Mùa đông, người ta chuyển qua song sắt chiếc áo lông cừu cho xơ, và mỗi ngày một mẩu bánh, một hụm nước. Khách thập phương chiêm bái, thổn thức, thở dài và cúng tiền trong bát gỗ. Mẹ Bề Trên sắc mặt giận dữ, hỏi gằn:

-  Đó là kho tàng à?

Mẹ Bề Trên ghét xơ Elizaveta kinh khủng. Mẹ tiếp theo:

-  Elizaveta ngồi trong đó chỉ vì hận đời và cứng đầu chứ không phải bị ai ác độc giam cầm. Tất cả chỉ là giả

đò.

Tôi không thích Mẹ Bề Trên nói như thế. Bấy giờ tôi đang nghĩ tới hãm mình tu khổ hạnh. Tôi mới phát biểu với họ rằng:

-  Theo tôi, Chúa và thiên nhiên là một, như nhau...

Mọi người cùng nháo lên một lúc:

-  Ồ, coi đấy, tôi không...

Mẹ Bề Trên cười và thì thầm với người khách đàn bà lúc đầu. Rồi người đàn bà gọi đến bên, vòng tay ôm choàng lấy tôi và tặng tôi một dây thắt lưng màu hồng thắm. Anh có muốn xem không, anh Satov? Rồi vị tu sĩ nhỏ thó bắt đầu giảng đạo cho tôi. Ông giảng từ tốn, nhún nhường và hay lắm. Tôi ngồi nghe chăm chú. Ông hỏi tôi:

-  Cô có hiểu không?

Tôi trả lời:

-  Thưa không. Tôi chẳng hiểu gì cả. Ông làm ơn để tôi yên.

Thế là từ đó mọi người để tôi yên. Nhưng rồi một hôm, vừa khi chúng tôi đang bước ra ngoài nhà thờ, một người đàn bà ngoài đời đến tu viện để ăn năn chuộc tội vì đã tiên tri, hỏi tôi:

-  Đức Mẹ là gì, theo ý cô?

Tôi bèn đáp:

-  Là Bà mẹ vĩ đại, là niềm hy vọng của loài người.

Xơ nói với tôi:

- Đúng, đúng như vậy. Đức Mẹ là mẹ của thế gian, chân lý này chứa đựng cả hạnh phúc của con người. Trong mỗi

khổ đau của thế gian, mỗi giọt nước mắt con người có sẵn hạnh phúc cho chúng ta. Nếu ta có khóc, nước mắt

tràn ngập bốn đại dương, ta sẽ tìm thấy niềm vui trong tất cả mọi sự

ngay.

Xơ tiếp theo:

-  Và ta không còn lại một khổ đau nào hết. Có lời tiên tri như vậy.

Những lời trên đây tác động mạnh mẽ tâm hồn tôi và từ đấy tôi bắt đầu, mỗi lần quì gối cầu nguyện, hôn mặt đất và mỗi lần hôn là mỗi lần tôi khóc nức nở. Anh Satov, anh sẽ biết, khóc như vậy chẳng có gì xấu cả. Ngay như lúc anh chẳng hề đau khổ mà nước mắt anh vẫn tuôn trào kìa: khóc vì sung sướng. Thỉnh thoảng tôi lại đến tu viện, đến bờ hồ: bên này là tu viện, bên kia là trái núi nhọn hoắt của chúng tôi - vì thế có tên là Núi Nhọn. Tôi trèo lên núi, quay mặt về hướng Đông, tôi hôn mật đất, và tôi khóc, khóc không biết bao lâu nữa, cho đến khi tôi chẳng còn nhớ biết gì nữa. Tôi đứng dậy, quay mặt lại ngắm mặt trời lặn. Ôi to và huy hoàng rực rỡ làm sao... Anh Satov, anh có thích ngắm mặt trời chiều không? Vừa tuyệt mĩ, vừa buồn thảm vô cùng. Rồi tôi quay mặt về hướng đông lại, tôi nhìn bóng trái núi ngả dài, xa tận bờ hồ, thẳng tắp như mũi tên. Nó mảnh dần, càng lúc càng mảnh thêm, kéo dài hằng ngàn cây số, xa tít tận hòn đảo giữa hồ. Nó cắt đôi hòn đảo và xuyên qua tận bờ hồ bên kia. Bấy giờ chính là lúc mặt trời lặn hoàn toàn và mọi sự vật đột nhiên tối hẳn. Trong lòng tôi cũng đen tối nữa. Tôi sợ bóng tối. Tôi hồi tưởng lại, mọi việc tuần tự hiện về... nhưng hầu hết tôi khóc cho số phận con tôi”.

Nãy giờ Satov ngồi lắng tai chăm chỉ, nghe đến “con tôi” anh thót người, thúc chỏ vào tôi. Anh hỏi nàng:

- Cô có con thật à?

- Có chứ, một hài nhi bụ bẫm hồng hào với móng tay nhỏ xíu và điều làm tôi buồn hơn là không còn nhớ nó trai

hay gái. Lúc thì tôi nhớ là trai, lúc thì gái. Ngay sau khi có nó, tôi bọc nó bằng lụa mịn viền, ren và buộc

dây băng hồng, cài hoa vào chân của nó. sẵn sàng cả rồi, tôi quì xuống cầu nguyện, và bế nó đi chẳng có gì

làm lễ rửa tội cho nó. Tôi bế nó băng rừng. Tôi sợ rừng thẳm, tôi run rẩy kinh hoàng. Điều làm tôi khóc

nhiều nhất là có con mà không có

chồng.

Satov e dè hỏi:

-  Nhưng có lẽ có chồng chứ?

Nàng cười ngặt nghẽo:

- Anh Satov, lý lẽ anh làm tôi tức cười. Được rồi, coi như tôi có một người chồng đi, có ích gì, bởi vì có cũng

như không vậy! Đó là câu đố dễ dàng, đố anh chơi vậy. Anh thử giải

xem.

- Rồi cô bế con đi đâu?

Nàng thở dài:

-  Đến ao.

Satov lại thúc tay vào tôi:

-  Giả sử cô không có con thật, tất cả chỉ là mộng mị thôi, thì sao?

Nàng ngẫm nghĩ rồi trả lời, chẳng lộ chút ngạc nhiên:

- Câu hỏi khó trả lời. Tôi không thể nói với anh chút gì về điều đó. Sự thực có thể tôi chưa có đứa con. Đó là

câu hỏi tầm phào, bởi vì tôi không hết khóc về nó kia mà. Không, tôi có phải thấy trong mơ

đâu?

Mắt nàng đã long lanh lệ. Rồi nàng òa lên khóc, đặt hai tay lên vai Satov và nhìn anh chan chứa cảm tình. Nàng hỏi:

- Anh Satov, có thực vợ anh bỏ anh không? Anh đừng có giận. Tôi cũng buồn đứt ruột như anh. Anh biết không...

Để tôi kể giấc mơ cho anh nghe. Chàng trở lại với tôi, gọi to, ngoắc tôi: “Con mèo bé bỏng của anh, lại đây

với anh”. Tiếng “mèo bé bỏng” làm tôi sung sướng nhất. Tôi nghĩ rằng như vậy chàng còn yêu

tôi.

Satov lẩm bẩm:

- Có lẽ chàng sẽ đến ngày nào đó, ngay khi cô đang tỉnh.

- Không, anh Satov, đó thực sự là giấc mộng. Chàng không bao giờ đến khi tôi thức. Anh có biết bài hát này

không?

Chẳng màng gác tía lầu son,

Cô phòng thiếp giữ hồn đơn đợi chờ.

Đợi chàng đâu kể thời giờ,

Ngày ngày cầu nguyện chàng nhờ ơn Trên.

Kìa, anh Satov thân mến, sao anh chẳng hỏi gì hết vậy?

-  Hỏi làm chi, có hỏi cô cũng chẳng nói.

Nàng nói nhanh:

- Đúng, tôi chẳng thèm nói. Anh có giết, có thiêu sống tôi, tôi cũng không nói. Người ta có hành hạ tôi đến thế

nào tôi cũng nhất định không nói, họ chẳng bao giờ biết được gì

đâu.

Satov nói, hạ thấp giọng, đầu càng cúi nghiêng:

-  Như cô hiểu đó, mỗi người có nỗi thầm kín riêng tư.

Nàng nói một cách vồn vã:

- Nhưng nếu anh tha thiết muốn biết, tôi sẽ kể anh nghe. Sao anh chẳng thử hỏi tôi. Hỏi tôi đi. Anh Satov, anh

nài nỉ đi, tôi sẽ kể anh nghe hết. Thuyết phục tôi đi anh, cho tôi thấy thích kể

ra.

Nhưng Satov vẫn im lìm. Một phút trôi qua, mọi người nín lặng. Tôi nhìn nàng, nước mắt nàng chảy ướt má phấn. Tay nàng vẫn còn để trên vai Satov, nhưng giờ nàng đã quên chúng rồi. Nàng chẳng còn nhìn Satov nữa. Đột nhiên Satov giật mạnh chiếc ghế băng tôi đang ngồi và nói:

-  Tất cả chẳng nghĩa lí gì đối với tôi.

Anh đem kê chiếc băng lại chỗ cũ và nói với tôi:

-  Về đi, đứng lên. Tới giờ chúng ta rút lui... Hắn sắp về, đừng để hắn biết chúng ta qua đây.

Người đàn bà thình lình cười khẩy, và nói:

- Ồ, anh lại nhắc tới tên đầy tớ của tôi. Anh sợ à? Được rồi, chào những người bạn quí mến. Nhưng nghe cái này

đã. Hôm qua bạn Kirillov tới đây với Filippov, chủ nhà, có hàm râu rậm đỏ hoe, lúc tên đầy tớ đánh tôi. Chủ

nhà chộp lấy nó như thế này này, và lôi nó ra khỏi phòng. Tên đầy tớ còn la phản đối: “Đâu phải lỗi tôi. Oan

tôi. Kẻ ăn mắm người khát nước”. Làm chúng tôi cười muốn vỡ

bụng.

- Maria, hôm qua chính tôi ở đây, chính tôi chứ không phải ông râu đỏ nắm tóc lôi nó. Chủ nhà tới đây hôm kia,

về chuyện khác kia. Cô lẫn

rồi.

Nàng cười ngất:      

- Khoan đã... để tôi nghĩ xem, có lẽ lú lẫn đôi chút. Anh bảo là chính anh à. Anh nói đúng. Nhưng cãi làm gì,

vô tích sự. Ai lôi nó cũng

vậy.

Satov đẩy tôi ra cửa:

-  Chúng ta đĩ ngay đi. Tôi nghe tiếng cửa cổng rít. Hắn biết chúng ta tới đây, hắn sẽ đánh nàng.

Và thật vậy, vừa lên hết thang lầu, chúng tôi nghe tiếng lè nhè chửi bới của một người say. Chúng tôi vào phòng. Satov khóa cửa lại.

- Tốt hơn anh nên nán lại đôi phút, để tránh lôi thôi. Nghe kìa, hắn hét lên như con lợn bị chọc tiết. Chắc hắn

vấp phải ngạch cửa. Chuyện tái diễn mỗi ngày, hắn té dập mặt xuống

đất.

Chúng tôi lo xa cũng bằng thừa, chuyện lôi thôi không tránh được.

Báo cáo nội dung xấu