Mưa Đỏ - Chương 38
Chiều muộn. Trời lúc mưa lúc tạnh. Những hạt mưa bay xiên qua các đụn khói vẫn đang còn vẩn lên, bay xiên qua ráng chiều bầm tím, thấm rơi xuống các chiến hào chật ních tử sĩ, thương binh, thấm rơi vào mặt sông tám mươi mốt ngày đêm chưa hề có một khoảnh khắc trở lại màu xanh. Một bầu không khí nặng nề đến thê lương bao trùm toàn khu thành.
Mặc những bộ quân phục còn lành lặn vừa lôi trong ba lô ra, Cường, Tấn đứng cúi đầu trước mông lung. Họ lặng lẽ quỳ xuống, chắp hai tay lên ngực. Tiếng Cường trộn vào mưa gió:
- Hải ơi, Bình ơi, Tú ơi, Sen ơi, các đồng chí ơi... Anh Tạ ơi! Chúng tôi đi đây, sắp đến giờ sang sông rồi... Sau này nếu còn sống, anh em tôi nhất định sẽ trở lại đưa anh, đưa các đồng chí về với gia đình. Tạm biệt!
Tấn cọ cọ mỏ chú chim non vào má mình rồi thả tay ra: “Bay đi!” Chú chim lảo đảo một chút rồi vút bay vào bầu trời xám ngoét.
Hai người, cả đại đội lúc này chỉ còn có hai người, đi nhanh xuống bờ sông. Tại đó, những tốp thương binh đang nằm ngồi ngổn ngang chờ đến lượt qua sông. Dưới ánh pháo sáng, những con thuyền, những bè mảng, những bọc ni lông đan qua đan lại, trôi ngược trôi xuôi mà lượng thương binh trên bờ vẫn gần như không vơi đi chút nào.
Trong cái xô bồ tanh nồng mùi máu và diêm sinh ấy, thấp thoáng bóng của người bác sĩ, người chỉ huy trưởng và bóng những cô du kích làm nhiệm vụ vận tải, trong đó có cả cái dáng đôn đáo của Xã đội trưởng Hồng lúc ẩn lúc hiện trong sự hối hả đốc thúc, điều hành đã trở thành gần như bất lực. Thỉnh thoảng lại một trái pháo dựng cột nước ở giữa dòng, ở bờ bên kia và ngay cả bờ bên này.
Tiếng Trung đoàn trưởng vang lên:
- Bộ đội bám dây cáp và phao, thuyền, bè mảng dành cho thương binh! Khẩn trương!
Trong chiến tranh, vị trí người chỉ huy bao giờ cũng đóng một vai trò quan trọng nếu không muốn nói nhiều khi là tất cả, nhưng ở vào những tình huống chênh vênh như tình huống vượt sông này, các khái niệm về chỉ huy và bị chỉ huy dường như hoàn toàn biến mất, để thay vào đó, tất cả cùng đều làm một công việc như nhau. Như người Chính ủy rất nguyên tắc và lúc nào cũng mực thước kia, lúc này không chỉ thấy cái dáng tầm thước của ông đi lại nói năng, khích lệ động viên an ủi đơn thuần nữa, mà với một cánh tay còn lại, ông thật sự đã trở thành một người lính cứu thương tận tụy, thậm chí đôi khi còn văng tục với những chiến sĩ chen lấn làm rối loạn trật tự.
Thuyền đã cập bến nhưng Cường vẫn ngần ngừ chưa muốn bước xuống, mặc cho Tấn đã trên hai lần lúc thì cáu kỉnh lúc lại nằn nì nhắc anh bước lên không đủ người nó lại quay đầu đi mất. Cường vẫn dùng dằng đưa cái nhìn hun hút sục sạo vào từng người, từng nhóm người rối rắm mờ nhòa trước mặt... Chợt mắt anh sáng lên như có đốm lân tinh nào bay vào. Trước anh, lẫn trong bông băng là cái dáng mảnh khảnh, mềm mại quá đỗi quen thuộc của Hồng đang lui cui ở mép nước với một vệt thẫm màu không hiểu là máu hay mồ hôi chạy dọc tấm lưng con gái.
Anh quay qua Tấn:
- Anh có chút việc, em cứ qua trước đi!
Tấn nhướng mắt:
- Việc gì anh?
- Việc có liên quan đến cả cuộc đời.
Tấn lắc đầu quầy quậy:
- Không! Cả đại đội còn có hai người, giờ sao lại có chuyện sau trước? Anh không được bỏ em...
Cường cúi xuống hôn phớt vào cái má đang phịu ra của Tấn một cái rồi quay người bước đi.
Anh đi nhanh tới cái bóng người kia. Nhưng không phải! Hồng ơi... Tiếng gọi thảng thốt chực bật ra ở cửa miệng lập tức bị chặn cứng khi cô gái kia quay lại với một khuôn mặt hoàn toàn khác, một cái nhìn hoàn toàn khác. Chưng hửng toàn thân nhưng trót rồi, anh lại đi tiếp, lại sục sạo ánh mắt vào tất cả những gì gợi lên cái bóng dáng vừa gần vừa xa, vừa mơ hồ vừa rất cụ thể của em. Nhưng rồi vẫn không phải, vẫn là những khuôn mặt khác. Anh vẫn đi, cái đầu lúc nóng lúc lạnh dường như không còn làm chủ được đôi chân của mình. Tôi phải gặp được em, trong tình huống chao chênh chưa biết điều gì sẽ xảy ra này, tôi không thể không gặp. Suy nghĩ cháy bỏng ấy đẩy nhanh đôi chân anh đến với những cái bóng con gái khác nhưng mọi sự vẫn thế, trật lất! “Vậy em đi đâu? Lúc này em đang ở đâu? Liệu có cái gì không may đã đến với em? Hồng ơi...”
Chỉ có tiếng pháo gầm rít lộng óc và tiếng rên la đau đớn của thương binh dội lại. Thất vọng, anh định quay trở về với Tấn thì giọng Trung đoàn trưởng Thành bỗng vang lên ở một mô đất cao:
- Các đồng chí! Có ba tiểu đoàn biệt động kết hợp với lực lượng Hắc Báo đang vận động đến đây để ngăn chặn việc chuyển quân của chúng ta. Tôi cần ba mươi người còn sức chiến đấu theo tôi đánh chặn chúng lại!
Im lặng một lát rồi tức thì một người... hai người... mười người... rất nhiều người chứ không phải chỉ ba mươi tách ra từ những tấm thân rách nát tiến lại phía ông, trong đó có cả Cường và Tấn.
Ông quay qua Chính ủy:
- Anh Tân ở lại phụ trách cho bộ đội qua sông, tôi dẫn anh em đi nện trận cuối cùng này.
- Cẩn thận nhé! Hẹn gặp lại bên kia sông!
Hai người chỉ huy rách rưới siết chặt tay nhau rồi mỗi người lao về vị trí của mình.
Cường cũng định lao đi thì vừa lúc, ngay phía sau Cường khẽ vang lên một tiếng gọi thật khẽ: “Anh Cường!” Như có một cái gì đó ngọt lịm và buốt sắc từ đâu đó xa xôi lắm xuyên thẳng vào ngực, anh rùng mình nhìn lại... và không tin ở mắt mình nữa khi Hồng đang đứng trước mặt anh, sắc nét và nhập nhòa như từ thinh không hạ xuống.
Giọng anh rung lên:
- Trời, anh tìm em mãi.
- Em cũng tìm anh. Em sợ không còn được gặp anh nữa. - Tiếng nói cũng như từ trên thinh không vọng xuống.
Họ ôm chặt lấy nhau, ôm chặt trước bao con mắt của đồng đội nhìn vào.
- Em đi đâu đây? - Cường hỏi sau khi họ đã buông nhau ra.
- Đi theo anh, đi chặn địch theo các anh.
- Không được. Chỗ em là ở dưới kia cơ.
- Ơ! - Vẫn cái nét bướng bỉnh hiện lên trên đôi môi hơi cong. - Anh quên em là xã đội trưởng rồi à?
- Thủ trưởng Thành không cho em đi đâu.
- Em xin rồi, Thủ trưởng bảo cứ ra hỏi anh.
- Nhưng mà nguy hiểm lắm!
- Em muốn được một lần ở bên anh, chiến đấu cạnh anh, sống chết cùng anh, nguy hiểm thế nào cũng được. - Nói đến đây, cô nhìn thẳng vào mắt Cường, hạ giọng. - Anh Cường, anh còn nhớ lời em nói hôm ấy không? Giờ đây, chồng ở đâu vợ ở đấy.
- Hồng...
Một nỗi xúc động bất chợt dâng lên không kìm được, Cường lại ghì nhẹ cái thân hình thân thiết kia vào lòng mình rồi cả hai chạy nhanh theo đội hình.
Trời vẫn mưa và pháo mỗi lúc mỗi nổ dày đặc hơn, như thể đối phương biết mà làm cuộc tiễn đưa bằng bữa tiệc âm thanh cuối cùng.
Đang chạy, bỗng tổ trinh sát đi đầu bất chợt dừng lại khoát tay. Tất cả cũng chợt dừng rồi nhanh chóng tản ra những vị trí che khuất trên triền sông, nằm xuống, súng găm thẳng về phía trước. Tại chỗ đó, cách không đầy trăm thước, trong bóng tối nhập nhòa, những chiếc bóng lính chật chội, nón sắt tùm hụp cũng đang dàn hàng ngang hàng dọc đen kịt tiến lại lầm lì như một đàn thủy quái vừa từ dưới sông bò lên nhe nanh múa vuốt. Cục diện thật chênh lệch. Hơn ba mươi chiến sĩ phải đọ với số lượng biệt động quân thiện chiến gấp hàng chục lần hơn. Nhưng hơn tám mươi ngày đêm họ đã quá quen với sự chênh lệch này, chênh lệch đến ngoài sức hình dung nên không một ai tỏ ra bối rối, choáng ngợp, thậm chí còn tỏ ra phấn khích vì đây là lần đầu họ được tác chiến thảnh thơi, rộng dài giữa thiên nhiên khoáng đạt chứ không phải trong những căn hầm ngột ngạt, tanh khẳm và dẫu chẳng may có ngã xuống thì cũng ngã vào dòng sông ăm ắp nước.
Ông Thành quay sang Cường, nói khẽ như nói với một chỉ huy đồng cấp:
- Nói anh em tản rộng ra để tránh sát thương và hết sức tiết kiệm đạn.
- Rõ!
Cường định trườn người đi thì chợt ông giữ lại, tiếng nói ân cần như của một người cha nói với con:
- Cường! Đáng hy sinh thì hy sinh, đừng quá liều mạng. Chú biết thời gian qua cháu đã trưởng thành nhiều lắm, mẹ cháu ở bên kia chắc cũng sẽ rất vui, sau chiến dịch này cháu phải về đi học lại, không có lý do gì ở lại trong này nữa.
Cường cũng nói như nói với một người cha:
- Chú cứ tin ở cháu. Bọn cháu sẽ hành xử như những người lính có tự trọng của Trung đoàn Quang Sơn.
Nói xong anh băng người đi, để lại trong mắt người chỉ huy hình ảnh rực sáng của một dũng sĩ “tử vì đạo” rất mặc nhiên.
Trận đánh tuy không cân sức nhưng lại tạo được thế bất ngờ khi chủ động nổ súng trước. Ngay từ loạt đạn đầu họ đã hất được khá nhiều địch quân xuống sông, xuống mép nước, đã phá vỡ cơ bản được cái đám đông ken đặc nhiều tầng nhiều lớp ở trước mặt. Nhưng rồi khi biết đối phương chỉ có một nhúm người lèo tèo tan ra rồi lại hợp vào theo đúng chiến thuật nghi binh truyền thông, chúng đã xốc lại đội hình và ào ào lao xuống. Và vì thế, một trận tao ngộ chiến nhỡn tiền phải xảy ra như nó đã từng xảy ra theo đúng quy luật đánh gần mà bên ít người dù muốn hay không cũng buộc phải rơi vào tình thế co cụm vô cùng bất lợi.
Một lần nữa, ranh giới giữa người chỉ huy và người bị chỉ huy bị đốt cháy. Dưới lửa đạn, dưới ánh pháo sáng, Hồng nhìn rõ người chỉ huy trưởng Thành cổ của mình đang tả xung hữu đột như một chàng trai trẻ còn nguyên sức vóc, dẫu rằng cái bóng gầy guộc xiêu vẹo của ông chốc chốc lại bật lên ngã xuống đến khổ. Ông đang thể hiện thật sinh động sự lì lợm, tài hoa của một tay súng dạn dày chứ không chỉ ở bàn tay vung lên hạ xuống vạch những phương án tác chiến lớn nhỏ ở chỉ huy sở. Tất cả những súng ngắn, súng trường, tiểu liên, phóng lựu, tạc đạn, kể cả hỏa lực B40, B41... lọt vào tay ông đều trở thành những điểm nổ chính xác và phát lộ hết công năng.
Hình ảnh ấy đã lọt vào con mắt độc địa của tên toán phó Hắc Báo. Hắn không cần biết ông là ai, chỉ huy hay lính thường, cán bộ hay chiến sĩ mà chỉ cần cái hình ảnh thù địch khó chịu ấy phải bị tan biến đi, tan càng nhanh càng tốt. Hắn đặt cây M16 lên chạc cây như một kẻ đi săn thiện nghệ rồi rê nhẹ nòng súng theo bóng ông, miệng nở nụ cười khoái trá như rê theo một con mồi béo bở... Đến khi toàn bộ thân hình méo mó, tơ tướp của ông ăn vào tầm ngắm, hắn mới nghiến răng siết cò. Cả một băng đạn găm lút vào ngực, hất thân thể ông nhảy dựng lên rồi đổ vật xuống. “Thủ trưởng Thành!” Từ phía sau, Hồng kêu lên một tiếng xé lòng rồi chạy ào đến chỗ ông.
Cường và Tấn đã trở lại. Nấp sau một gờ đá, anh đã chứng kiến tất cả, chứng kiến luôn cái vị trí đường đạn đã bay ra hạ sát người chỉ huy của mình. Đau đớn chết lặng đi giây lát, cố nén, anh vẫy Tân luồn qua một rặng cây rậm rạp tiến đến sát chỗ kẻ sát thủ đang đứng. Gần đến nơi, anh ra hiệu cho Tấn ngồi lại rồi một mình bò lên. Toàn thân tên Hắc Báo đã hiện ra, vằn vện, gớm guốc. Anh đưa nòng AK lên. Ngón tay siết mạnh nhưng... hết đạn, súng không nổ, chỉ nghe tạch một tiếng khô khan. Tên toán phó thấy động giật mình quay lại. Như chỉ chờ có thế, với tất cả sự hận thù, anh bật dậy, giáng xuống giữa ngực hắn một báng súng cực mạnh. Rắc... Cùng với âm thanh gãy vỡ ấy, hắn ngã bổ chửng ra phía sau, đập mạnh lưng xuống đất, nhưng, như một con sâu đo đã được thục luyện kĩ càng, lại lồm cồm bò dậy hướng thẳng nòng súng về anh. Cường nhào đến, định giáng vào cái thân hình quằn quèo kia một cú đá quyết định nữa để kết liễu luôn thì bất thần nòng súng ngắn từ trên tay một gã cao lớn không biết từ đâu nhảy ra đã kê sát vào ngực anh. Đó là Quang. Ánh hỏa châu phực lên soi rõ khuôn mặt hốc hác nhưng vẫn đẹp như bức tượng khắc gỗ của Cường, Quang tròn mắt:
- Trời! Lại là anh bạn? Tưởng anh bạn đã đi tìm tiên tổ ở dưới suối vàng trong lần cắm cờ ấy rồi vậy mà... Đúng là đất đai chật hẹp.
Rồi, với một nét mặt cố tỏ ra mã thượng không đúng lúc, hắn nhét trở lại cây súng vào bao, cất một tiếng cười khinh bạc cố hữu nhưng đôi mắt lại buồn buồn:
- Rất hân hạnh được gặp lại cựu thù! Nhưng chiến tranh là chiến tranh, nếu phải làm một cái gì đó thì cũng chỉ là buộc phải làm thôi, anh bạn cảm phiền. - Hắn quay sang đám lính đang đứng gườm gườm ở đằng sau như bầy thú hoang sẵn sàng lao lên nhai sống con mồi. - Nào, còn thời gian, tụi bay, vứt hết vũ khí xuống, chỉ được bắt sống chứ không được hạ sát!
Hắn bật ngón tay đánh tách, giật lấy cây AK hết đạn từ tay anh vứt ra sông rồi đứng lui ra như thể chỉ đóng vai trò chứng kiến. Cường cũng thoáng giật mình khi mang máng nhận ra khuôn mặt ít nhất đã trên hai lần chạm trán kia và lặng lẽ thu người về trong tư thế phòng thủ.
Sau lưng anh, dưới một bụi cây xơ xác là khuôn mặt của Tấn và Hồng. Hồng cũng đã nhận ra Quang. Cô hốt hoảng định nhao ra như một động thái tự thân muốn che chở cho người đàn ông thân yêu của mình, nhưng bàn tay Tấn kịp ghì chặt lấy: “Chị Hai... Chưa phải lúc. Ra bây giờ chết!” Cô đành cắn chặt môi ngồi lại, mắt nhìn trừng trừng về phía Cường.
Chỗ đó, theo lệnh của Quang, hai gã Hắc Báo to con, thân hình dềnh dàng, đen mun, tóc tai cượp gáy như hai con báo đen hùng hổ nhảy vào như muốn cắn xé anh ra làm trăm mảnh.
Chúng tung ra những đòn hóc hiểm nhằm hạ gục anh ngay từ đầu nhưng anh, dù dính đòn khá mạnh, vẫn lần lượt hóa giải và tung đòn trở lại cũng hóc hiểm không kém khiến cho cả hai thằng bỗng chốc trở thành hai cái xác quằn quại không thể gượng dậy nổi...
Lại hai tên nữa xông vào, vẻ hầm hố dữ dội hơn. Biết rằng chơi tay không với tay Việt Cộng có cái dáng mảnh khảnh thư sinh tưởng chỉ cú đấm thì thiếu cú đạp thì thừa kia là một điều sai lầm, chúng quyết định dùng dao găm. Những đường dao loang loáng xẹt qua xẹt lại vào da thịt anh, cứa sâu, tưởng chừng anh sẽ lãnh đủ nhưng người sinh viên cựu vô địch đai đen Hà thành ngày nào, dù đã kiệt sức, dù mặt mày tay chân không còn chỗ nào nguyên vẹn nhưng bằng những cú tránh mềm mại, những cú ra chân sắc lẻm đã tiếp tục cho cả hai tên ôm mặt, ôm bụng bật ra. Toàn thân nhòe máu, anh cũng loạng choạng muốn quỵ xuống.
Đến lúc này Quang mới quyết định nhập cuộc. Hắn bước lên, nói vừa đủ nghe, đôi mắt vẫn thật buồn:
- Có một đối phương như anh thật cũng đáng mặt để lâm trận, đáng để cho tụi này khốn khổ khốn nạn bao ngày qua. Đáng ra lúc này được ngồi bù khú với nhau bên chai đế là thú nhất nhưng thôi, đây là tử chiến chứ không phải võ đài, tụi này đang vội, đành chia tay người hùng Việt Cộng vậy, xin xá lỗi!
Với đế giày đinh sần sùi, nặng trịch, như đã được chuẩn bị kĩ càng từ trước, hắn bất thần tung một cú đá ngược cực mạnh vào giữa ngực anh, cú đá chỉ để dành cho những tình huống cấp bách. Không chịu nổi đòn đánh hủy diệt cho chết ngay này, anh ôm ngực quặn người gục xuống. Bật lên một tiếng cười như xương gãy, hắn nhào đến, định tung một cú đá bồi quyết định nữa thì anh bắt được, ghì cứng lại. Mất đà, hắn chúi tới, siết cả hai cánh tay cứng như hai thanh thép vào cổ anh định bẻ. Anh cũng siết cứng trở lại... cả hai ôm nhau lăn tròn xuống bờ ta-luy nhầy nhụa đất cát...
“Anh Cường ơi...” Sau khóm lá, tới lúc này thì chính Tấn cũng đã không còn kìm nổi nữa, cậu cùng với Hồng quyết định xông ra thì bất thần hai bàn chân họ bỗng sựng lại... Từ trong vũng tối, trên bờ cách đó không xa, một loạt tiểu liên cực nhanh rất căng phóng xuống mép sông, phóng chính xác vào chỗ hai thân hình kia đang vật lộn, vẫy vùng, tung tóe nước... Trong thoáng chốc, hai thân hình đó bật rời nhau ra, ngơ ngác rồi cùng nằm vật xuống, bất động.
Tấn và Hồng nhào tới, quỳ gối lia hàng loạt đạn về phía vũng tối ấy và về cả những điểm đen nghi ngờ khác. Những đường đạn đã trúng đích. Những tiếng kêu la vang lên, những thân xác đổ vật, có cả những tiếng chân dận giày đinh bỏ chạy thục mạng về phía sau.
Khoảnh khắc đó, họ không biết rằng, tại cái vũng tối vừa bay ra loạt đạn quái ác xuống mép nước đủ để hạ gục hai con người đang ôm cứng lấy nhau kia, người lính có nét mặt sắt nguội đã tha cho Hồng đêm nào đang gí trái da láng lạnh buốt vào sát mặt tên toán phó, gằn giọng:
- Đ. má! Hèn hạ đến thế thì mày chỉ đáng chết như chó!
Anh ta rút dây lưng trói giật hai tay gã lại phía sau rồi rút trái tạc đạn, mở chốt, nhét sâu vào trong cạp quần gã, thứ quần lính buộc túm ở cổ chân rồi khinh bỉ bỏ đi xuống mép nước, nơi có thân xác của Quang, người chỉ huy thân thiết đang nằm im lịm bên đối thủ của mình.
Đằng sau anh ta, với trái tạc đạn trong quần, gã toán phó ác ôn đang điên loạn nhảy dựng lên như nhập đồng rồi đứng đờ ra, ngây dại, hai mắt lộn tròng... Một tiếng nổ vỡ toác kèm theo quầng lửa bùng lên bao trùm lấy toàn thân gã...
Dưới mép nước, Hồng đang ôm chặt lấy tấm thân rách nát của Cường, đặt đầu anh vào lòng mình, nấc lên:
- Em đây anh Cường ơi!... Anh đừng bỏ em, đừng bỏ em...
Cường khẽ mở mắt tỉnh lại, mỉm cười khô xác:
- Hồng... Tập giấy để trong người... em gửi về cho mẹ... Anh... anh yêu em... Mẹ ơi!
Anh gọi mẹ tiếng cuối cùng rồi ngật đầu, tắt thở.
“Mẹ ơi...” Tiếng gọi ấy lan ra mặt sông, bay lên không trung, bay qua bầu trời đêm Thạch Hãn, bay vào cõi mênh mông hư ảo...
★
Và vượt qua ngàn trùng mây trắng, tiếng gọi ấy đã bay đến trái tim người mẹ.
Đó cũng là lúc bà vừa kết thúc Bản dự thảo Nghị định thư về hòa bình ở Việt Nam gồm 9 chương, 23 đề mục, dày 42 trang thì như có một cú thúc mạnh vào ngực, bà xây xẩm mặt mày ngồi xuống. Trước bà, những chữ ký của bốn bên lòa nhòa hiện ra. Những chữ ký từ màu xanh chuyển sang màu đỏ, nhểu máu...
“Con ơi!...” Trên đôi môi tái nhợt của bà bật lên hai tiếng xé lòng xé ruột...
Ngoài kia, trên bầu trời Paris yên bình, có con chim câu nào đậu bên cửa sổ cất tiếng gáy gù gù.
Và ẩn trong gió dường như có một thanh âm mơ hồ nào đó như âm hưởng bản giao hưởng Cổ Thành nhè nhẹ nhen lên, chảy sâu vào tấm lòng người mẹ. Bản giao hưởng thao thiết và hào hùng. Bản giao hưởng máu.
Người mẹ ngồi như hóa đá, nước mắt lặng lẽ chảy ra.
Đoạn kết
Bầu trời Quảng Trị sáng mai nay đã không còn tím bầm màu lửa máu chiến tranh, nhưng mảnh đất nơi đây vẫn lỗ loác, tan hoang, thậm chí nó còn gợi vẻ tan hoang hơn khi được đặt trong thế đối lập với khung cảnh yên hàn, tĩnh lặng của những ngày hòa bình đầu tiên hiện diện ở xung quanh. Thảng hoặc mới nhác thấy một vài ba bóng người dân lầm lũi trở về, đứng lặng rồi lại ngập ngừng rời đi như thể cái không khí thanh bình, yên ả này là không có thật, là chỉ một khoảnh khắc tạm dừng rồi mọi sự lại trở về kinh hoàng như cũ.
Ám ảnh. Trong mọi sự ám ảnh thì cái ám ảnh về chiến tranh có lẽ là sự ám ảnh ghê gớm nhất. Một nỗi ám ảnh màu xám, hút hoẳm, khắc khoải, giày vò, giằng xé, vỡ vụn chắc còn lâu lắm mới có thể nguôi ngoai, vơi nhẹ đi được phần nào trên mảnh đất này, trong tâm hồn người dân nơi đây.
Dòng Thạch Hãn dưới kia đang êm đềm trôi chảy trong sắc nước trong xanh đến vô cùng vô cảm. Như thể ngàn năm nay nó vẫn trong xanh, êm đềm như thế mà chưa hề có những ngày phải trải qua sự quặn mình rớm máu khi phải vật vã, tức tưởi thu nhận vào lòng mình hàng chục ngàn, trăm ngàn những thân thể sinh linh bầm nát.
Giữa khung cảnh trái chiều bảng lảng ấy, một chiếc xe u oát lầm bụi đỏ nổ máy phành phạch từ ngoài mặt lộ rẽ vào, từ từ bon qua cây cầu sắt gãy nát bắc qua sông vừa được dựng tạm rồi dừng lại ở bờ nam.
Từ trên xe có ba con người bước xuống, một đàn ông, hai đàn bà. Trong nắng sớm, người ta nhận ra người đàn ông mặc quân phục đeo hàm thiếu úy còn rất trẻ ấy là Tấn, cậu đội viên sống sót duy nhất của đại đội bảo vệ Thành cổ hôm nào. Và hai người phụ nữ một là bà mẹ của Cường, một là Xã đội trưởng Hồng. Cô sinh viên xã đội lúc này nhìn đẹp ra, rắn rỏi hơn nhưng bà mẹ lại phất phơ những ngọn tóc bạc thật nhiều.
Cả ba lặng lẽ chậm bước về phía Thành cổ lúc này vẫn chưa có một ngọn cỏ nào nhú lên giữa đống hoang tàn gạch đá. Họ thả cái nhìn của mình vào mặt sông ánh bạc.
- Nó hy sinh tại khúc sông này phải không...
Tiếng người mẹ buồn như tiếng gió thổi trong mưa.
Cô gái không trả lời, chỉ khẽ gật đầu.
- Nó được nhắm mắt trong vòng tay của cháu... vậy cũng đỡ cô quạnh.
Cô gái mím chặt cặp môi nhợt nhạt nhưng một tiếng nấc nhẹ vẫn bật ra:
- Dạ... Trước khi nhắm mắt... anh có gọi bác.
Toàn thân người mẹ chợt chênh chao như vấp phải cơn gió lạnh. Bà ngồi xuống, gầy guộc, bé nhỏ và già nua. Trong tâm tưởng bà lúc này, cùng với cảnh sắc xôn xao, không hiểu sao lại bất chợt vang lên khúc giao hưởng thân yêu trong không gian Nhà hát Lớn Hà Nội hôm nào. Khúc giao hưởng ấy đang quẫy lộng làm dòng nước dưới kia biến dạng, chuyển sang màu đỏ ngầu, sôi sủi...
Mắt người mẹ nhòa đi nhưng những giọt nước mắt vẫn khô quánh không chảy ra nổi, hay nó đã chảy ra đến cạn kiệt suốt những ngày qua rồi. Bà sẽ cứ ngồi như thế, ngồi như một bức tượng đài mất mát thiên thu nếu cô gái không nhẹ đỡ bà đứng dậy, dìu bà đi chầm chậm từng bước vào khu Thành cổ.
Khu thành đã được trung tâm bảo tàng chiến tranh tỉnh khẩn trương cho thu dọn, vun vén lại những đường nét kiến trúc cơ bản để du khách đến đây sẽ có khái niệm về cái hình hài ban đầu của nó, nhưng cũng mới chỉ tạm vỡ vạc xong cái đài tưởng niệm và gian bảo tàng kỷ vật đặt ở trung tâm để kịp thời đón khách từ khắp mọi nơi đến thăm viếng, thắp hương chứ tất cả vẫn còn ngổn ngang, xơ xác lắm. Đến nỗi trong mỗi bước đi, gan bàn chân của bà vẫn có cảm giác nhờn nhợn khi giẫm phải những mảnh kim loại giá lạnh, nhọn sắc như vẫn còn nóng bỏng trộn sâu vào đất cát.
Và giây phút này đây, nhỏ nhoi và xiêu xiêu giữa Thành cổ, bà mẹ cũng cảm thấy đang đặt chân lên chính xương thịt của đứa con mình. Một thoáng rùng mình nhen lên, bà thảng thốt:
- Các con ơi... chỉ cho bác chỗ thằng Cường và đồng đội của nó chiến đấu...
Tấn bước lên, dìu bà đi về phía khu hầm tiểu đội năm xưa của mình. Nơi này không còn một dấu vết gì nữa. Tất cả những vui buồn, khát vọng, giận hờn, chết chóc... năm xưa giờ đây chỉ còn một khoảng trũng hút hoẳm có những vạt cỏ non tơ đang lay động vô tình trước gió.
Bà đứng ngẩn ngơ, đôi mắt mở to như muốn hỏi vào đất: “Đâu, con tôi đâu... Cường ơi, con ở đâu?... Mẹ đang ở bên cạnh con đây...”
Tiếng Tấn vang khẽ bên tai bà: “Những lúc không đánh nhau, anh Cường lại nhìn lên trời lâu lắm bác ạ!... Về sau chúng cháu mới biết anh ấy đang viết thầm những nốt nhạc trong đầu...”
Hai người trẻ tuổi dìu người mẹ đi về phía khu đài tưởng niệm liệt sĩ lúc này đang chói chang nắng sớm. Khu đài mới ở dạng phác họa còn sơ sài nhưng cái hồn cái cốt vẫn rờ rỡ hiện lên. Trong bàn tay run run của mẹ, những nén nhang được thắp lên. Khói nhang bay bảng lảng lên cao rồi nhòa tan vào cảnh vật xa dần như những linh hồn tử sĩ nhòa tan vào trời đất, bay sang cả bức phù điêu tưởng niệm các liệt sĩ sinh viên nằm cạnh đó rồi dừng lại, quẩn quanh như không muốn bay tiếp đi đâu nữa.
Thành kính và lặng lẽ, họ đến thắp hương trên đài tưởng niệm. Thắp trên những nấm mồ liệt sĩ hữu danh và vô danh xung quanh... Họ đi quanh bức tường thành, lặng nghe Tấn vừa đưa tay chỉ vừa nói cái gì, chỉ thấy đôi mắt người mẹ mờ dần đi trong giai điệu bài hát Cỏ non Thành cổ thoảng buồn đang vang lên ở chiếc loa treo nơi đầu cổng...
Họ đi vào phòng bảo tàng hai gian lợp mái ngói cũng sơ sài như ở dạng phác thảo dựng tạm. Nắng chiếu qua khung cửa soi tỏ những tấm ảnh sống động của người nhiếp ảnh gia quân đội, soi tỏ cả những bức ký họa màu đen nhưng lại như ánh lên màu máu của Bình được treo vào những chỗ trang trọng nhất trên tường. Trong đó nổi rõ những khuôn mặt trẻ trung sáng láng, những miệng cười rất tươi của tiểu đội anh hùng: Tạ, Sen, Tú, Hải, Bình, Tấn và... Cường. Người mẹ nhìn sâu vào khuôn mặt bụi bặm, phong trần rất đẹp của đứa con, nước mắt không chảy ra được nữa, trống trải, tan hoang... Bà ngồi sụp xuống, kiệt sức... Những ngón tay cô gái nắm chặt lấy bàn tay bà mẹ...
Trời đã về chiều.
★
Chiều Quảng Trị như vẫn còn lưu dấu cái ngột ngạt, nhờn nhợn cái mùi tử thi như những buổi chiều bom đạn năm nào. Hơi hướng chiến tranh không biết đến bao giờ mới tan loãng hẳn trên mảnh đất này đây? Hồng ngước nhìn lên như muốn hỏi vào trời xanh câu hỏi nhức nhối đó.
Họ chầm chậm đi trở lại phía bờ sông. Dòng Thạch Hãn vẫn trôi chảy lành hiền, trễ nải mà dẫu có cố hình dung thì vẫn không thể nào sống lại được cái ký ức về một khúc sông khốc liệt, đẫm máu nhất trong cả cuộc chiến tranh dặc dài của dân tộc. Xa xa là cây cầu sắt gầy guộc vắt qua sông, vắt qua nấm mồ khổng lồ đang chìm sâu trong lòng nước im lặng.
Đến cái bến nước mà những người lính hôm qua thường kêu là Bến Vượt, người mẹ nhận từ tay cô gái mấy nhánh hoa, cúi xuống khẽ thả vào mặt nước. Mặt nước nhẹ êm đón lấy khẽ cuộn mình làm nên những con sóng như đưa như ru đẩy nó ra xa. Những nhánh hoa trôi đi... trôi đi... trôi mãi ra cửa biển như trôi về một miền vô định. Tại đó, có dáng một cô gái chèo đò xuôi dòng vận bà ba đen, quấn khăn rằn nổi lên thật mềm dưới ráng chiều trong tiếng bai chèo mơn man khoét sâu vào lòng nước, đẹp siêu thực như một bức tranh lụa tạc vào không gian không có thật. Những câu thơ được hình thành bằng máu của một chiến sĩ Thành cổ lại bất chợt bay lên thoảng nghe như tiếng sóng tiếng gió, như lời ru à ơi của mẹ lại không phi thực chút nào... “Đò xuôi Thạch Hãn ơi chèo nhẹ / Đáy sông còn đó bạn tôi nằm...”
Bên tai bà vang lên tiếng nói của Tấn:
- Bác ơi... Đáy sông không phải chỉ có đồng đội bọn con nằm đâu mà còn có cả lính phía bên kia nữa, nhiều lắm!
Bà mẹ im lặng không nói gì, chỉ khẽ gật đầu.
★
Bóng chiều đang chùng chình trườn lên phía cửa biển. Không còn thời gian nữa, chiếc u oát bon nhanh đưa họ đến một nghĩa trang khuất lẻ nằm giữa cánh đồng, sau một rặng phi lao chưa kịp lấy lại màu xanh. Nghĩa trang, nơi nằm nghỉ vĩnh hằng của thế giới người âm nao buồn như mọi nghĩa trang khác, nhưng sao ở đây nó cứ có gì như lẻ loi, cô độc, tồi tội thế nào! Như một nghĩa địa bị bỏ rơi.
Bà mẹ đi tới phía góc trong cùng của nghĩa địa rồi dừng lại trước một nấm mồ phủ cỏ có ghi rõ một hàng chữ nhập nhòa trên bia mộ:
“Nguyễn Văn Quang. Quê quán Quảng Trị. Sinh ngày... Mất ngày 16 tháng 9 năm 1972.”
Cạnh bia mộ là một người đàn bà đang âm thầm nhổ cỏ, tỉa hoa. Thấy người lạ, người đàn bà giật mình nhìn lên. Đó là khuôn mặt buồn buồn đã nhăn nheo do thời gian, do cả khổ đau, mất mát của người mẹ một thời quyền quý của Đại úy Quang.
Hai bà mẹ nhìn nhau giây lát như thấu hiểu và cũng như chưa kịp hiểu gì, rồi người mẹ của Cường đi đến, cầm trên tay ba nén nhang cô gái đưa cho, lặng lẽ ngồi xuống:
- Chị cho phép tôi thắp một nén hương lên mộ cháu...
Câu nói ấy khiến người mẹ của Quang khẽ rùng mình đứng dậy, run run chắp hai bàn tay trước ngực, hơi cúi xuống như một động thái biết ơn, một động thái cảm kích rồi chỉ đứng lặng, rưng rưng nước mắt...
Dưới kia, dòng Thạch Hãn vẫn êm đềm trôi chảy như một khúc hát ru đưa con người vào những miền cảm xúc thánh thiện, đơn sơ, thuần phác, tinh khiết và bất tận...
Viết tại các nhà sáng tác:
Nha Trang - Đà Lạt - Tam Đảo
Lập thu 2015