Nếp Cũ Con Người Việt Nam - Chương 09: Khao Vọng
CHƯƠNG 9 : KHAO-VỌNG
Khao có nghĩa là thết tiệc đãi khách trong một dịp vui mừng, còn vọng nghĩa là nộp tiền hay lễ-vật theo hương-lệ để được hưởng ngôi-thứ trong làng.
Hai chữ khao-vọng ghép lại có nghĩa nhân một dịp vui-mừng làm tiệc thết-đãi làng nước và nộp lệ cho làng xã để được làng xã công-nhận sự vui-mừng theo tục-lệ.
Trong một đời người có nhiều dịp vui-mừng, khi thi-đỗ, khi được dân làng cử vào một chân hương-chức, khi được ân-thưởng phẩm-hàm, khi do niên-kỷ được xếp vào ngôi-thứ trong làng và những khi đến một tuổi cao được mọi người trọng-vọng : khao lục-tuần là ăn mừng khi được sáu mươi tuổi, khao thất-tuần thượng-thọ là ăn mừng khi được bẩy mươi tuổi, khao bát-tuần, cửu-tuần thượng-thọ vân, vân…
Theo Phan-kế-Bính trong Việt-Nam Phong-Tục thì :
« Người thi đỗ hoặc văn hoặc võ, người được bổ làm quan, người được phẩm-hàm, người làm Chánh phó tổng, người lên hạng bô-lão và người ra làm lý-lịch đều phải khao-vọng ».
Ý-nghĩa của khao-vọng là đem sự vui-mừng của mình chia sẻ cùng mọi người. Bởi vậy nên mới có cỗ bàn đãi khách và nhiều khi có cả những cuộc vui để họ hàng bà con cũng giải-trí.
I. TỤC-LỆ KHAO-VỌNG
Người có việc vui-mừng, muốn ăn khao, phải sửa cơi trầu trình với tiên, thứ-chỉ, hoặc với hương-chức trong làng để định ngày tổ chức lễ-khao. Được sự đồng-ý của tiên, thứ-chỉ và hương-chức rồi, đương-sự phải sửa lễ để cáo với Thành-hoàng ngày ăn khao để xin thần minh chứng-giám.
Ăn-khao có cỗ-bàn linh-đình mời trong họ ngoài làng, mời bạn-bè xa gần. Ngoài ra lại có lễ ra đình để cúng thần, thường là trâu bò lợn rượu, xôi và trầu cau. Những lễ-vật này sau khi cúng thần rồi, một phần dùng làm phần biếu hương-lý kỳ-mục trong xã, một phần dùng làm cỗ.
Lẽ tất-nhiên, trong khi làm cỗ mời bà con dân làng, người ăn khao cũng phải có lễ cáo với tổ-tiên, cũng như cúng cả Thổ-công bản-địa nữa.
Có nhiều nơi, tục khao rất nặng phải có bánh dầy bánh chưng, cùng một đôi bánh khác như bánh ú, gánh tràng-gừng, v.v… làm đồ biếu.
Ngoài ra đối với các hương-lý kỳ-mục lại thường có mâm cỗ riêng, và có khi những người này đòi gia-chủ phải cung-phụng thuốc sái để hút ban đêm và yêu-cầu gia-chủ phải mời ả-đào tới hát để họ mua vui.
Những điều kỳ-mục đòi hỏi, thực ra chính các gia-chủ cũng sẵn-sàng muốn có để việc vui-mừng được thêm vui và để chứng-tỏ sự rộng-rãi của mình. Trong những tiệc khao thường có những bàn tổ-tôm tài-bàn đề khách-khứa mua vui, có khi thâu đêm suốt sáng. Gia-chủ phải cắt người hầu hạ, nửa đêm thường bày thêm tiệc ăn uống riêng cho các vị này.
Cũng có người muốn cho tiệc khao được thật linh-đình thường mời các ban hát chèo hát bội tới diễn để dân làng cùng giải-trí.
Lễ ăn khao có khi kéo dài tới ba bốn hôm với đủ mọi trò vui, gia-chủ không nề-hà gì tốn kém.
Cũng có người không được sung-túc, nhưng may-mắn được chút danh-vọng cũng phải cố khao theo lệ làng, nhưng sự ăn uống vui chơi giảm cho tới mức tối thiểu.
Ta có câu : « Vô vọng bất thành », nghĩa là chưa đủ lệ làng thì làng chưa công-nhận sự nên danh của đương-nhân.
Nếu có người nào may mắn được danh vọng, nhưng túng-thiếu quá, không ăn khao, danh-vọng kia cũng coi như không có. Phải có khao-vọng, dân làng mới công-nhận sự nên danh của một người. Chính vì vậy nên nhiều người dù túng-thiếu đến đâu cũng phải cố lo cho đủ lệ làng để khỏi bị thôn xóm chê cười, để khỏi thua kém ai.
1) KHAO THI ĐỖ
Người thi đỗ vinh-quy bái-tổ được dân làng đón rước, lẽ tất-nhiên phải ăn mừng sự thi đỗ. Việc ăn mừng này có khi chỉ thu hẹp trong phạm-vi xã mình, nhưng trong những trường-hợp đỗ Đại-khoa, lễ ăn mừng có mời đến hàng phủ hàng huyện. Việc ăn mừng thi đỗ đã có nói rõ trong mục Thi-cử, ở đây xin khỏi nhắc lại.
2) KHAO NHẬN CHỨC-VIỆC
Những Chánh Phó-tổng, Chánh Phó hương-lý cùng những chức-sắc khác trong làng, sau khi được dân bầu ra và được quan trên chấp thuận, cấp cho nghị-định văn-bằng đều làm tiệc khao hàng xã hoặc hàng tổng trước khi nhận việc. Cũng có người nhận việc trước rồi mới khao sau.
Các đương-sự, khi mở tiệc khao cũng giở lịch xem ngày, chọn ngày tốt để cho công-việc mai sau không gặp sự gì trắc-trở.
Trong tiệc khao có giết trâu bò, làm cỗ bàn linh-đình mời bạn-bè bà con làng nước ăn uống.
Đương-sự trước hết phải sửa lễ nói với ban kỳ-mục trong làng để xin mời tới dự-lễ trong ngày khao. Ban kỳ mục gồm có tiên, thứ-chỉ và các vị chức-sắc cũ trong làng.
Được ban kỳ-mục chấp-nhận rồi, đương-sự lại phải có cơi trầu tới mời ban tư-văn trong làng, ban tư văn gồm các quan-viên nguyên chân văn-học đã có chức-sắc, hoặc các hương-chức cũ đã được thưởng phẩm-hàm hoặc những người đã thi-đỗ. Ban tư-văn sẽ dự-lễ khao và sẽ có các văn-tế thần hoặc tổ-tiên người đứng khao.
Sau khi được lời của ban kỳ-mục và ban tư-văn rồi, đương-sự mới làm lễ cáo gia-tiên.
Trong ngày khao đương-sự phải có lễ-vật ra đình để cúng Thành-hoàng. Có khi có cuộc tế lễ rất long-trọng, việc tế-lễ này do ban tư-văn phụ-trách.
Nếu đương-sự có làm lễ tế gia-tiên, ban tư-văn cũng sẽ sẵn-sàng tế giúp. Văn tế Thành hoàng cũng như văn tế-gia-tiên đều do ban tư-văn soạn thảo.
Mỗi lần tế xong, tại đình cũng như tại nhà, đương-sự đều phải có phần biếu riêng ban tư-văn, hay ít ra cũng phải có một mâm cỗ dành riêng mời các cụ trong ban này.
Nhiều khi trong lễ khao này có cuộc rước văn-bằng.
Văn-bằng do quan trên gửi tới còn để tại nhà làng, hoặc tại một nhà vị chức-sắc nào đó. Ngày khao, đương-sự mới đưa kiệu, nhờ họ-hàng cùng các con em tới rước văn-bằng về trình với tổ tiên trong việc khao.
Bạn-bè, làng nước được mời tới dự đám than đều có lễ mừng. Các tay văn-tự thì mừng đại-tự, mừng câu đối, còn bà con khác mừng trầu rượu cau hoặc có khi mừng tiền.
Lễ khao rất tốn-kém nếu muốn mời được đông-đủ mọi hạng khách trong làng trong tổng. Chính vì sự tốn-kém này mà nhiều người mà sau khi nhận lĩnh một chức-vụ trong làng, cửa nhà đã sa-sút, ruộng nương phải cầm bán. Và để lấy lại số tiền đã vung ra, những người này phải xoay vào dân xã và gây nên nạn cường-hào ác-bá.
Có người không đủ sức khao, khi nhận một chức-vụ của hàng xã hàng tổng, chỉ lo cho đúng lệ làng, lệ tổng và tiệp-diệp mời ăn chiếu-lệ, bãi-bỏ hết mọi sự tế-lễ, rước-sách. Mặc dầu tiệp-diệp cũng vẫn có sự tốn-kém, nhưng không đến nỗi phải bán cửa bán nhà, cầm ruộng cầm trâu như bao người khác.
3) KHAO PHẨM-HÀM
Các Chánh, phó-tổng, hương-lý sau khi làm việc một thời-gian nếu mẫn-cán có công thường được tưởng-thưởng. Triều đình cho tưởng-lục hoặc ban cho phẩm-hàm.
Sự ân-thưởng này, có người khi mãn chức-việc mới nhận được, có người được tưởng-thuởng ngay trong khi lại chức.
Khi được tưởng-thưởng rồi, các đương-sự phải khao làng xã. Việc khao cũng giống như khi nhận chức việc, nếu có khác thì chỉ khác ở chỗ rước sắc của triều đình thay vì rước văn-bằng khi nhận việc.
Sắc này để tại huyện, hoặc tại văn-phòng các viên-chức hàng tổng. Việc rước sắc long-trọng hơn rước văn-bằng.
Các đương-sự được mượn cờ hiệu của làng sau khi đã làm lễ khấn xin phép thần-linh và được các kỳ-mục ưng-thuận.
Trong đám khao cũng lại có tế-lễ, và cũng như khi nhận việc, các người khá-giả có thể có những trò vui cho dân làng, họ-hàng hoặc có những thú tiêu-khiển riêng cho các cụ trong ban kỳ-mục, các quan-viên trong ban tư-văn như đã nói trên.
Những người được ân-thưởng phẩm-hàm sau lễ khao này được dân làng gọi tên theo phẩm-tước mới : ông Bá nếu được thưởng Bá-hộ, ông Cửu nếu được thưởng Cửu-phẩm, ông Hàn nếu được được Hàn-lâm, v.v…
Nếu còn đang tại chức, dân làng sẽ gọi thêm cả chức vụ : ông Lý Bá, ông Tổng-Cửu, v.v…
Danh-giá hơn nhau chỉ một tiếng gọi ! Và có khao-vọng mới được dự chân vào ban tư-văn trong làng, có ngôi thứ mỗi khi dự việc làng.
4) KHAO QUAN-VIÊN
Có những người thi đậu tuyển-sinh khóa-sinh, nhưng theo lệ làng đậu những bằng nhỏ này không được xung ngay vào ban tư-văn, phải chờ tới một tuổi nào thường thường là năm mươi tuổi, mới được dự vào hàng quan-viên trong ban đó. Nói vậy, không phải cứ đúng tuổi của lệ làng là đã thành một quan-viên trong làng. Cần phải có khao, to thì mời cả hàng xã, nhược-bằng không đủ sức thì cũng phải mời đủ ban tư-văn trong làng, sau đó mới được kể là quan-viên, và từ đó sẽ được hưởng mọi quyền-lợi của các vị quan-viên.
5) KHAO NHIÊU, KHAO XÃ
Tại phần nhiều các địa-phương, người dân bạch-đinh phải chịu một thứ phu-phen tạp-dịch, nay đi đắp đê, mai đi đắp đường, nay một ông tân-khoa vinh-quy phải đi khiêng kiệu, mai đón quan sở-tại phải đi cầm-cờ.
Muốn tránh những công việc trên phải là người có văn-học hoặc chức-sắc hoặc trong ban kỳ-mục, hoặc đến tuổi được miễn. Muốn là người có văn-học phải có đỗ-đạt, hoặc đã đi học ít nhất trải qua mấy kỳ thi, muốn là chức-sắc phải gánh vác việc dân việc xã, và muốn có chân trong ban kỳ mục phải có khao.
Tại nhiều nơi dân làng có dành những chân nhiêu chân xã cho những người có tiền bỏ ra mua, tiền này xung vào quỹ làng để làm việc công-ích.
Những người đã mua nhiêu mua xã rồi cũng được miễn phu-phen tạp-dịch, nhưng cũng phải có khao. Lệ khao này không linh-đình như các lệ khao nhận việc, khao phẩm-hàm hoặc khao quan-viên, nhưng cũng phải có cỗ bàn mời các vị chức-sắc, kỳ-mục, quan-viên trong làng.
Lẽ tất-nhiên, đã có khao thì phải có lễ cáo gia-tiên cũng như phải sửa lễ cáo Thành-hoàng bản-xã.
6) KHAO TRÙM, KHAO TRƯỞNG XÓM
Tại nhiều địa-phương dân chúng tổ-chức thành từng xóm, có trưởng xóm riêng, hoặc thành từng chòm từng khóm mà người đứng đầu là các ông trùm.
Những chức-vị trưởng-xóm hoặc ông trùm không phải là những chức-vị chính-thức đối với hệ-thống cai-trị, và cũng không có ghi trong hương-uớc, chỉ là những chức vị riêng của xóm, của chòm của khóm.
Những chức-vị này thường do dân trong xóm, trong chòm, trong khóm tự cử ra để đại diện cho xóm, chòm, khóm trong mọi công việc giao-thiệp với dân làng. 11
Các đương-sự khi được dân chúng cử vào chức-vị này đều coi là một vinh-dự, và cũng kể như là đã có chút công-danh với dân xã, và cũng do đó được miễn hết phu-phen tạp-dịch.
Một khi đã có công-danh, phải có khao. Các ông khao chức trưởng-xóm, chức trùm của mình.
Lệ khao thu nhỏ hơn các lệ khao khác, chỉ mời bà con dân hàng xóm, hàng chòm. Ngoài ra đối với dân làng cũng có mâm cỗ riêng để mời các quan-viên và hội-đồng kỳ-mục.
Bà con tới dự tiệc khao cũng có đồ mừng : câu đối, đại tự, chè cau, rượu bánh, v.v…
Chức vị tuy nhỏ, nhưng cũng là đàn anh của một xóm một chòm, và nhiều vị hương-chức muốn ứng-cử những chức-vụ trong dân xã thường bắt đầu bằng những chức-vụ trong chòm xóm.
7) KHAO THƯỢNG-THỌ
Ba hạnh phúc cố hữu của ta là Phúc, Lộc, Thọ.
Phúc là công danh chức-tước, lộc là có con cháu đông-đảo, và thọ là tuổi già.
Có công-danh, sinh con cái là những dịp để người ta ăn khao, ăn mừng thì khi được hưởng tuổi già người ta lại càng cần ăn khao để tạ ơn Trời Đất Tổ-tiên đã phù-hộ cho được sống lâu.
Sống lâu cũng là điều hạnh-phúc quý-báu. Dân ta trong những dịp Tết đầu năm thường chúc nhau mạnh-khỏe sống lâu, và trong đám cưới người ta thường chúc cô dâu chú rể bách-niên giai-lão.
Đôi khi có người phàn-nàn đa thọ đa nhục, nhưng đó chỉ là những người sống trong hoàn-cảnh bệnh-hoạn hoặc thiếu-thốn, còn phần đông dân Việt-Nam ta, thọ vẫn là điều mong-ước của nhiều người.
« Kính lão đắc thọ », kính già, già đề tuổi cho. Vì mong được thọ nên kính-trọng người già để được sống bằng tuổi các người.
Sự kính trọng các người tuổi-tác thường biểu-lộ cả trong những cuộc tế-lễ, cưới-xin và hội-hè.
Trong những đám cưới, bao giờ cũng có cụ già cầm hương đi đầu, với ý nghĩa mong sau này cô dâu chú rể cũng được sống tới tuổi già đó.
Trong các cuộc hội-hè tế-lễ, các chiếu trên tại chốn đình-trung thường dành cho các vị cao-niên nhất làng.
Ta có câu : « Triều-đình thượng tước hương đảng thưởng-sỉ », nghĩa là địa-vị ở triều đình do chức tước còn chỗ ngồi ở dân xã do tuổi tác.
Tuổi già được trọng như vậy, nên ta có tục ăn khao thượng-thọ nghĩa là ăn mừng khi sống tới một tuổi nào.
Tục-lệ thay đổi từng nơi, có nơi an khao khi được 50 tuổi, rồi 60 tuổi, 70 tuổi, v.v… Cũng có nơi, 60 tuổi mới bắt đầu ăn khao gọi là khao lục-tuần, rồi 70 tuổi, 80 tuổi… lại khao.
Làng Thị-Cầu, huyện Võ-Giàng, tỉnh Bắc Ninh, có tục ăn khao khi 55 tuổi, gọi là lên sỉ, tức là lên cái tuổi đã có chiếu ngồi khi ra chốn đình-trung.
8) LỄ KHAO THƯỢNG-THỌ
Đến tuổi khao, người ta thường lo khao cho đủ lệ làng, những người nghèo không lo được cỗ-bàn linh-đình thì cũng cố lo nộp đủ lệ làng để được dự hàng nơi đình-trung. Đó cũng là một điều bất-đắc-dĩ.
Ai cũng muốn khao to lễ lớn để đẹp mày, đẹp mặt với dân xã.
Thường thường lễ khao tổ-chức trong dịp ba tháng xuân đầu năm.
Ông Phan Kế Bính trong « Việt-Nam phong-tục » có viết về cách thức ăn mừng :
« Hôm ăn mừng, trước hết làm lễ gà xôi, hoặc tam-sinh, hoặc lợn bò đem ra đình lễ thần, gọi là bái tạ thần-hưu, nghĩa là tạ ơn thần thánh đã phù-hộ cho cha mẹ được sống lâu ».
Qua mấy dòng trên ta thấy rằng, chính con cái cụ ăn thượng-thọ phải lo sửa lễ cho cha mẹ.
Trong lễ thượng-thọ đồng-thời với đồ lễ mang ra đình, con cái cũng làm lễ cáo gia-tiên, và trong bản văn-khấn cáo này phải tỏ sự biết ơn gia-tiên đã phù-hộ cho cha mẹ được truờng-thọ.
Lễ Thượng-thọ là lễ ăn mừng của các cụ già, song chính con cái cũng phải mừng, vì mừng được cha mẹ sống lâu để cho các con được phụng-dưỡng.
Sau khi đã cáo yết gia-tiên và cũng lễ tại đình rồi, con cháu phải lễ mừng cha mẹ.
Lúc này cha mẹ ăn mặc lịch-sự ngồi trên sập đặt chính giữa nhà để con cháu lễ bái. Sập này có trải chiếu, gọi là thọ-tịch. Con cháu sẽ dưng rượu gọi là hiến-tửu, và sau đó dưng quả đào, gọi là bàn-đào chúc-thọ, theo tích bà Tây Vương-mẫu ngày xưa hiến vua Hán Vũ-đế mấy quả đào tiên nói rằng đào này ăn vào sẽ sống lâu.
Dưng rượu, dưng đào rồi, con cháu lễ-bái trước mặt hai cụ, mỗi người lạy mừng hai lạy rưỡi.
Rồi mâm tiệc dựng lên để hai cụ xơi.
Trong lúc con cháu lễ mừng có khách-khứa chứng-kiến để nhận rõ hạnh-phúc của hai cụ và sự hiếu-thảo của con cháu.
Lại có đốt pháo, và khách-khứa, nhất là họ-hàng cũng có lời chúc-mừng.
Hai bên nhà có treo những câu đối, những bức đại-tự để mừng hai cụ, và có khi có cả những bài thơ mừng thọ.
Có nhiều nhà cho mời ca-nhi tới để ngâm những bài thơ, những câu-đối.
Có khi chính cụ ông là một tay văn-tự, cũng tự soạn những bài thơ hoặc ca-trù để cho ca-nhi hát theo tiếng sênh, tiếng phách.
Bữa tiệc khao rất linh-đình, luôn luôn có pháo nổ, và các bạn bè nhiều người ngay trong bữa tiệc đã soạn những bài hát, bài thơ để mừng các đương-sự.
Buổi tối có hát chèo khi có hát tuồng để con cháu và dân làng mua vui.
Theo tục-lệ, thường chỉ các cụ ông ăn mừng thượng-thọ, còn các cụ bà chỉ mừng theo sự mừng của chồng, nhưng trong những trường-hợp các cụ ông đã chết trước, khi tới tuổi thượng-thọ của các cụ bà, con cháu cũng vẫn làm lễ mừng.
II. ĂN SINH-NHẬT
Ăn sinh-nhật ta bắt chước theo người Trung-Hoa, nhưng thường chỉ khi nào tới một tuổi đã hơi cao, có con cái đề-huề, người Việt mình ngày xưa mới ăn sinh-nhật.
Ăn sinh-nhật tức là mừng ngày sinh của mình và qua sự mừng này là sự mừng mình đã được Trời Phật ban cho sự sống lâu.
Ngày sinh-nhật con cái làm lễ cha mẹ sau khi đã cáo gia-tiên rồi cũng làm cỗ bàn khoản-đãi khách-khứa như khao mừng lễ thọ vậy.
Mừng sinh-nhật của cha mẹ cũng như mừng thọ, chính là cách con cái tỏ lòng kính-yêu cha mẹ, thật có ý-nghĩa.
Ngày nay, tại các đô-thị, những nhà giàu có thường ăn sinh-nhật không những riêng của mình mà còn của cả các con nữa. Ăn sinh-nhật để kỷ-niệm ngày sinh, để có dịp cha mẹ con cái tụ-họp cũng là điều hay.
III. YẾN LÃO
Như trên đã nói, tuổi già rất được trọng vọng tại nước ta.
Vì kính-trọng tuổi già nên tại nhiều làng, trong dịp đầu năm, có tổ-chức một bữa tiệc riêng để mời các cụ, cả cụ ông lẫn cụ bà, tuổi từ lục-tuần trở lên tới dự. Bữa tiệc này gọi là Yến-lão, nghĩa là bữa yến để thết các cụ già.
Ngày Yến-lão được ấn-định trước. Tới ngày đó, một số các dân-đinh trong làng, theo sự lần-lượt hàng năm, phải mang bánh trái đồ lễ tới đình trước là để cúng đức Thành-hoàng, sau là để các cụ dùng.
Các cụ, dân làng gọi tôn là lão-ông và lão-bà được trịnh-trọng rước tới đình. Đám rước này gọi là rước lão. Các lão-ông và lão-bà tụ-tập tại một nơi để dân làng mang âm-nhạc cờ-quạt tới rước. Đám rước sẽ đi suốt làng để các cụ nhận sự chào mừng của dân xã. Trong lúc rước, các cụ đi theo thứ-tự tuổi-tác, các cụ nhiều tuổi đi lên trên. Các cụ đều ăn mặc quần áo màu đỏ rực tượng-trưng cho sự vui-mừng và ngồi trên cáng hoặc trên võng có dân-đinh khiêng và có con cháu đi theo.
Có nhiều nơi các cụ tới họp tại đình làng, từ đó dân làng sẽ rước các cụ đi một vòng quanh xã, rồi lại trở về đình.
Về tới đình, các cụ ngồi dự yến cứ bốn người một mâm.
Trong bữa yến có ca-nhạc, và ca-nhi ngâm lên nhiều bài thơ hoặc ca-trù chúc mừng các cụ. Có đốt pháo tưng-bừng.
Yến dự xong, các cụ lại có phần mang về. Thường theo tục-lệ thì mâm yến của các cụ thật là thừa-thãi, các cụ chỉ ăn một phần, còn lại các cụ mang về chia cho con cháu để cùng hưởng lộc làng
IV. KHAO ĐI LÀM QUAN
Đã nói đến khao vọng, không lẽ không nói đến lễ khao của những người thi đỗ được bổ đi làm quan.
Đi làm quan là một vinh-dự lớn, và đây là một trong ba điều hạnh phúc chính của dân ta.
Được đi làm quan, trước khi đi nhận-chức, các đương-sự đều có làm lễ khao, lễ này tuy không long-trọng bằng lễ ăn mừng vinh-quy, nhưng cũng rất linh-đình đáng kể.
Thể thức khao cũng cáo gia-tiên, lễ thần-linh tại đình, mời họ-hàng, làng nước như khi một chức-việc trong làng khao trước khi lĩnh chức-vụ.
Giàu nghèo gì, trước khi đi làm quan ai cũng cố khao dân làng, không có tiền thì đi vay, không khao to thì khao nhỏ.
Chính nhờ bữa khao này, mà ngày xưa vị quan lên đường nhậm-chức được dân-làng tiễn-đưa với cờ kiệu thật trọng-thể.
V. SẮC VUA BAN
Những người làm quan từ tứ-phẩm trở lên, xưa được nhà vua ban sắc phong-tặng cho cha mẹ, ông bà cụ kỵ tùy theo phẩm-tước của mình : nhất-phẩm được triều-đình truy-phong đến cao-tổ, tức là các cụ, nhị-phẩm được truy-phong đến ông bà, tam tứ phẩm được truy-phong đến cha mẹ.
Trong sắc phong nhà vua kể lại công-trạng chức-tước của người làm quan, rồi suy ân truy-phong đến cha mẹ, ông bà hay các cụ.
Sắc phong báo về dân làng, dân làng phải tổ-chức đi rước sắc về nhà chủ.
Nếu các người được phong, cha mẹ vị quan, còn sống, sẽ có lễ khao dân làng, cùng với việc cáo gia-tiên và lễ thần-linh tại đình.
VI. LỄ PHẦN-HOÀNG
Thường các vị tam, tứ-đại được phong-tặng vì con cháu đều đã qua đời nên con cháu phải làm lễ phần-hoàng nghĩa là lễ đốt sắc để cáo với cụ được truy-phong.
Trước hết bản sắc của vua phong được sao ra một tờ giấy vàng, màu giấy của sắc chính. Hai bản sắc chính và sao đều đặt lên mâm rồi đệ lên bàn thờ. Trên bàn thờ đã có bày đủ đồ tế-tự.
Người chủ tức là vị quan đã làm hiển thanh-danh phụ-mẫu, đốt hương vào khấn lễ, đọc một bài văn nói rõ duyên-do sự phong-tặng của Triều-đình cho cha mẹ, ông bà và các cụ, đồng-thời cũng đọc cả chức-tước vua phong cho các vị này. Sau đó, một người đọc bản sắc nhà vua.
Lễ xong, bản sao tờ sắc được đem đốt, còn bản chính được giữ lại thờ.
Lễ đốt sắc này gọi là lễ Phần-hoàng, nghĩa là đốt tờ sắc màu vàng. Làm lễ ở nhà xong, chủ-nhân lại sửa lễ ra đình cáo-yết thần-linh.
Sau mọi cuộc tế-lễ, chủ-nhân khoản-đãi dân làng khách-khứa cũng như các việc khao mừng khác.
Việc con làm nên, phong-tặng đến cha mẹ cũng là một điều hay, khuyến-khích cha mẹ trong việc dạy-dỗ nuôi con, và cũng lại có ý khuyên người làm con phải cố gắng để làm rạng-rỡ cho tổ-tiên để tổ tiên cũng được hưởng sự vinh-quang thấm-nhuần ơn mưa-móc của Triều-đình.
VII. VIỆC KHAO-VỌNG NGÀY NAY
Thời-thế đổi-thay, ngày nay lệ khao-vọng hầu như không còn nữa.
Có việc vui mừng, cũng có người làm tiệc đãi bạn-bè, hoặc các cụ già sống được sáu bảy chục tuổi cũng bày một tiệc nhỏ để ăn mừng, bằng không có cũng không sao.
Trong nhiều gia-đình theo cổ, khi con cái đỗ đạt hoặc chính mình được ân-thưởng một huy-chương của quốc-gia, thường sửa lễ cáo-yết gia-tiên, về sau đó gia-đình quây-quần ăn uống. Đấy phải chăng cũng là một cách khao, nhưng lễ khao đã được giản-dị hóa đến mức tối-thiểu !
VIII. TÀI-LIỆU ĐỌC THÊM
1) MỪNG THỌ BẢY MƯƠI
Đây là bài thơ của ông Nghè Nguyễn-Quý-Tân mừng thọ cụ Nguyễn-Công-Trứ :
« Bẩy mươi tuổi-tác vẫn dường di 12
Mới biết xưa kia buổi thiếu-thì ?
Rượu tỉnh, thơ say, hồn Lý-Bạch, 13
Cúc cười, hoa cợt, thú Vương-Hi 14
Giang-sơn nắm lại, đôi tay khấu, 15
Văn-võ 16 buông ra, một ngón tỳ. 17
Cũng kiếp phù-sinh hay dở-sạch,
Dầu ai tiếng thị với lời phi ».
2) HỌC TRÒ MỪNG THẦY THỌ TÁM MƯƠI
« Trộm nghĩ : Đạo-đức thừa công tu-dưỡng 18 chẳng Doanh-Bồng 19 thì cũng địa-tiên 20 ; Thánh-hiền sẵn thú hi-di 21, dầu vương-bá chẳng bằng thiên-tước 22. Lòng ái-đái 23 theo bên trượng-lũ 24. Lời tụng-dương 25 dâng dưới môn tường.
« Kính duy tiên-sinh trướng-hạ : Bẩm khí Tản Lô ; Noi dòng Thù Tứ 26. Vượt bể học sang nhà đạt-nhược 27, giang-hồ bốn mặt triều-tôn. Mở rừng văn lên đỉnh cô-phong 28, cương phụ 29 muôn đầu cúng-bái. Nợ đăng-hỏa phải theo khoa-cử. Chí quân-dân không ở bão-an 30. Anh-hùng sự tả thời quai 31, Gia-Cát khôn nâng vạc Hán ; Thế-đạo buổi phong đồi tục-mỵ 32, Sương-Lê nên lắng chuông Đường 33. Mở giáng-trướng 34 thay phép minh-đường 35 ; Dựng chiên-đàn 36 vun nên sĩ khí. Vầng trăng sáng soi làn thu-thủy, giang-hồ riêng một tinh-thanh 37 ; Trận gió thơm thổi lớp du-trần 38, mai-vi 39 sạch không ô-cấu 40. Khí-tiết ra tay bồi-thực 41 ; Trụ-duy 42 nhờ sức phù-trì. Trơ kiên-tú 43 phó mặc tuyết-sương ; Đúc chính-khí, hóa làm cương-thiết 44. Trời không cho lấy vị, song đã phú lấy đức, hẳn phải thêm lấy tuổi, để dần dần đức hóa ngoan-minh 45. Thầy chẳng thiết vì mình, nhưng vẫn lo vì đời, nên phải sống vì người, để mãi mãi đời nhờ giáo-hối.
« Nay tiên-sinh : Tinh-thần quắc-thước, Đức vọng tôn-sùng ; Đèn cỏ-lê 46 đốt đến trăm lần, Lịch hoa-giáp 47 vừa thêm hai chục. Ba cành văn-chi tươi-tốt. Một cây đức-thụ rườm-rà. Trên nối chí tiên-công, bất-di bất-khuất. Dưới vui vầy quần-quý 48, tương-kính tương-thân. Lạc-sự kể đã hoàn-toàn, Tiên-sinh vẫn chưa man-túc. Có lẽ lo hậu-tiến mà lòng bất lão, gió cho người ngồi, tuyết cho người đứng, còn trơ thạc-quả 49 với kiền-khôn 50. Cho nên mượn tiên-ưu làm thuốc trường-sinh, bể bao giờ lặng, sông bao giờ trong, muốn đúc hồng-lô nung khối-lôi 51. Học tính-mệnh chẳng nhờ đan-bổng 52, quang minh sẵn có linh đài ; Tiết thu-đông mới biết bách-tùng, ủy-mỵ, sá gì chúng hủy 53. Há chẳng biết hình-hài là mộc thạch, sống mà ngu mà dại, dẫu Tùy, Bành 54 muôn tuổi, kể gì tuổi cỏ tuổi cây. Song muốn phù hóa-dục của kiền-khôn, thọ có đức có danh thì Khổng, Mạnh một đời cũng đáng đời hiền đời thánh.
« Chúng con : Nâng vầng nhật nguyệt, Mừng vẻ tuyết-tì. Tụng-huyền thay chén Hà-bôi, rắp hàng Bắc-diện 55 ; Su-bái dâng lòng hương-biện 56, kinh chúc Nam phong. Mong triết-nhân còn trường-thọ với Thái-sơn. Để ngô-đạo vẫn sinh-tồn cùng tư-thế. Dấu vương-giả khói tan mây nát, nào ngũ-canh, nào tam-lão 57 dẫu hồng trần không có mắt xanh. Chốn sư-môn mõ dục chuông khua, cũng hiền đức, cũng khất-ngôn 58, mừng hắc-thể hãy còn mặt trắng 59. Há dám quá tình thanh-dự 60. Gọi là biểu khúc truân thành 61 ».
Phó bảng
BÙI-KỶ