Nếp Cũ Con Người Việt Nam - Chương 15: Tang lễ và các vị Đế vương
CHƯƠNG 15 : TANG-LỄ CÁC VỊ ĐẾ-VƯƠNG
Về hôn-lễ, đã có nói qua về việc con cái vua chúa lập gia-đình, nay nói tới tang-lễ không lẽ bỏ qua tang-lễ các vị đế-vương.
Cũng như trong việc cưới, việc tang, dù là vua chúa cũng phải theo phong-tục nước nhà, tuy-nhiên trong việc áp-dụng có nhiều điều dị-biệt cũng cần biết.
I. LỜI TRỐI-TRĂNG
Trước khi vua chết, trong lúc hấp-hối, Hoàng-Thái-tử và các vị Triều-thần, nhất là các vị được nhà vua muốn phó-thác hậu-sự, đều tụ-tập quanh giường bệnh để nhận lời trối-trăng của nhà vua.
Có một vị quan bộ Lễ ghi chép những lời cuối cùng của nhà vua để tuân-hành.
Cùng với các quan Triều-thần nói trên, có cả một số nhân-viên dự để lo tang-lễ.
II. THẮT HỒN-BẠCH
Khi nhà vua trút hơi thở cuối cùng, nhân-viên bộ Lễ dùng lụa trắng thắt hồn-bạch, gọi là Thần-bạch. Thần-bạch cũng thắt giống như hồn-bạch trong dân-gian.
III. LỄ MỘC-DỤC, LỄ PHẠN-HÀM
Mình nhà vua cũng được tắm gội bằng nước lá ngũ-vị. Sau lễ Mộc-dục là lễ Phạn-hàm. Người ta đặt vào mồm nhà vua thay vì những đồng tiền, toàn hạt trai và ngọc quý.
Lẽ tất-nhiên trong những lễ này cũng như mọi lễ về sau đều có khấn tế theo tục-lệ.
IV. LỄ KHÂM LIỆM
Có lễ Tiểu-liệm và Đại-liệm.
Trong lễ Tiểu-liệm, con cái mặc quần áo cho vua cha, dùng lụa trắng để liệm. Sau đó xác vua cha được khiêng đặt trên một chiếc giường, trải chiếu-hoa kê ở phía Tây phòng ngủ nhà vua.
Nhà vua lúc này đã mặc bộ quần áo thiết triều, với bên trong các quần áo quý khác. Một cuộc tế-lễ được tổ-chức để dâng yến-tiệc lên hương hồn nhà vua.
Sau đó là lễ Đại-liệm. Áo quan được đặt tại mé Đông ngự-phòng. Trên áo quan có trải chiếu hoa và một chiếc thảm hoa. Con cháu và các quan đại-thần lại tế một chầu thứ hai, dâng yến lễ lên nhà vua. Sau đó xác nhà vua được khiêng đặt vào áo quan.
Lễ nhập-quan đã xong, các quan từ nhị-phẩm trở xuống mới được phép vào dự lễ. Các hoàng-tử, công-chúa, hoàng-huynh, hoàng-đệ và các quan đều lễ nhà vua hai lễ rưỡi, vừa lễ vừa khóc. Lúc này các hoàng-hậu phi-tần cũng khóc-lóc lễ bái. Kế đó, nắp quan-tài được đóng lại. Lại một tuần tế theo lễ-tục.
V. LỄ PHÁT-TANG
Hoàng-Thái-tử ra chỉ dụ phát tang. Từ giờ phút này người trong hoàng-tộc, các quan triều-thần văn võ, quân lính và thần dân phải chịu tang. Lẽ tất-nhiên lễ phát-tang chỉ cử-hành sau các lễ thiết linh-sàng, linh-tọa và lập minh-tinh.
Tang đã phát ra, tại các tỉnh cũng như ở kinh-đô, các quan đều phải mặc tang phục theo chỉ-dụ ấn-định.
Cũng có cáo tiên-vương và tiên-tổ như thần-dân để xin phép đặt bài vị nhà vua vào nhà Thái-miếu.
Sau đó quan-tài được khiêng tới điện Hoàng-Nhân, mé phải sân Triều và ở đây minh-tinh được trương lên.
VI. LỄ ĐĂNG-QUANG CỦA VUA KẾ VỊ
Quan tài đã đặt tại điện Hoàng-Nhân.
Hoàng-Thái-tử tới lễ-yết để nhận tờ di-chiếu, kế đó làm lễ đăng-quang tại điện Thái-Hòa để triều-thần tôn lên làm vua kế vị. Trong nước không thể một ngày không vua được. Hoàng-Thái-tử phải cần nối ngôi đã, việc tang-lễ sẽ tính sau. Kể từ ngày đăng-quang tân quân lưu tại điện Quang-Minh trong suốt thời-kỳ tang-chế. Hàng ngày có buổi chầu, tân quân phải sang nhà Tả-phương, có đi tàn lọng cờ quạt, nhưng tàn lọng cờ quạt này chỉ được dùng màu vàng mà không có thêu-thùa gì. Trong những buổi chầu tân quân mặc áo trắng, đội khăn trắng vải to, còn các quan mặc áo vải to đen, khăn trắng cũng bằng vải to.
VII. CHIÊU-TỊCH-DIỆN
Nhà vua cũng hàng ngày làm lễ chiêu-tịch-diện dâng cơm rượu cho hương hồn vua cha, nhà vua phải đích thân cử lấy lễ này, và chỉ trong trường-hợp bất-khả-kháng mới ủy cho một vị hoàng-tử trực đồng-huyết-thống. Nếu xác vua cha quàn tại điện lâu ngày thì trong những ngày sóc vong, vua và triều-thần phải có lễ-tế chiêu-tịch-diện dâng cơm rượu cho hương-hồn vua khuất.
Các hoàng-tử phải thay phiên nhau trong công việc này, và bất cứ ai, nếu không có phận-sự đều không được lui tới điện Hoàng-Nhân.
VIII. LỄ ĐẶT TÊN « THỤY »
Một quyển sổ vàng gọi là kim-sách được thiết-lập. Sổ này có 9 tờ giấy vàng y 6 tấc, cao 3 phân 4 ly và rộng 5 phân 1 ly. Các quan triều thân phải cáo Trời, Đất tại đài Nam-giao và đồng-thời cũng cáo với các vị tiên-vương, tiên-hậu. Lại phải cáo cả với Thần Nông, vì thần coi về Nông-nghiệp tại Đông-phương. Hai quan đại-thần mang dâng kim-sách và ngự-ấn tới bàn thờ ; hai vị quan phụ-tá đọc tên Hiệu và tên Thụy nhà vua đã được ghi trong kim-sách. Đoạn tân quân tới trước giường vua cha làm lễ dâng tên Hiệu và tên Thụy, sau đó các tên này được ghi vào Minh-tinh.
Lễ nghi xong, tân-quân ra sắc dụ để kể công trạng của cha và tuyên-bố đặt tên Hiệu và tên Thụy.
IX. CỬ-HÀNH ĐÁM TANG
Tên Hiệu và tên Thụy của vua cha đã đặt xong, bộ Lễ có nhiệm-vụ kén ngày để cử-hành đám táng. Ngày đã được kén chọn, các quan trong triều, văn-từ Thiêm-sự, võ từ Thống-chế trở lên đều phải để tâm lo-liệu đám táng.
Bộ Lễ thông sức cho dân làng các xã đám táng sẽ đi qua để hương-chức đặt hương-án làm lễ, đồng thời trước đấy cũng có lễ cáo trời đất tại đài Nam-giao, cũng như cáo các vị Tiên-vương và Thần-Nông.
Trong đám-táng vua Gia-long cử-hành ngày rằm tháng tư năm Canh-tý, vào ngày Kỷ-hợi (6-5-1920), vua Minh-Mệnh đã thân tới đền Minh-Thành để tế sơ Ngu và làm lễ yên-vị cho vua cha.
Sau đó lại có lễ cáo trời đất, các vị Tiên-vương và Thần-Nông.
Rồi các cuộc tế Ngu tiếp-tục như tục-lệ đã ấn-định.
Xét ra, về phương-diện phong-tục, tang lễ một vị đế-vương cũng không khác tang-lễ một người dân bao nhiêu. Tất cả những điều ghi trong sách-lễ đều áp-dụng, chỉ khác ở chỗ có thêm những lễ-nghi liên-quan tới Triều-đình.

