Tôi Là Thầy Tướng Số - Quyển 3 - Chương 1

CHƯƠNG 1

PHÉP LUẬN ĐOÁN HUNG TRẠCH

THẾ NÀO LÀ “HUNG TRẠCH”*?

Từ xưa đến nay, kẻ hành nghề tướng số thường chẳng có kết cục gì tốt đẹp, người đi xem tướng số cũng vậy, bởi đem vận mệnh của con người ra mà bói đi bói lại chẳng khác nào trò chơi trẻ con, chưa cần bàn đến chuyện bói chuẩn hay không chuẩn, chỉ cần để lòng tham và lợi ích mon men đến bên bờ tội ác là đã đủ khiến cả hai đánh mất bản ngã. Người thì muốn kiếm tiền, kẻ thì muốn đổi vận, hai bên đều quên mất điều căn bản trong đạo làm người chính là ở bản thân mình. Mọi điều cát hung, họa phúc đều sinh ra từ bản tâm con người, không hỏi bản thân lại đi hỏi quỷ thần, không chịu tu thân lại đi thắp đèn nhang, những đám anh hỏi tôi đáp nhao nhao như ruồi nhặng bu quanh, những lời tâng bốc hám lợi đen lòng không khi nào là không để lộ ra lòng tham, sự yếu đuối trong bản tính con người. Họ lao tâm khổ tứ, dung tục hèn hạ, họ bấu víu vào sợi dây vận mệnh một cách vô cùng đáng thương.

Sau khi Tổ Gia chết, nhất là vào thời điểm những năm 80 của thế kỷ XX, nhiều người nghe nói trước đây tôi từng hành nghề tướng số thì lũ lượt kéo đến nhờ xem một quẻ. Thật lòng mà nói, đối với những loại người này, căn bản không cần dùng đến thủ pháp “anh diệu” gì cả, chỉ cần một chút kiến thức Chu dịch chân chính mà tôi đã lĩnh hội được là đủ để khiến họ thỏa mãn ra về, nhưng tôi không làm vậy, tôi chỉ khuyên họ một lòng hướng thiện. Một vài người nghe tôi, một vài kẻ thì không lọt tai. Tục ngữ có câu: “Phật độ kẻ có duyên”, họ không chịu nghe thì tôi cũng chẳng còn cách nào khác.

Sau này, tôi dứt khoát đóng cửa không tiếp. Tôi già rồi, chỉ muốn bình yên đi nốt quãng đời còn lại.

Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Tôi từ bỏ nghiệp ác, rút khỏi giang hồ, chôn chặt mọi ân oán trong quá khứ xuống tận đáy lòng, không nghĩ đến mà cũng chẳng muốn đề cập với người khác. Rồi cuối cùng, mọi chuyện thị phi về tôi và phái Giang Tướng sẽ theo tôi bước vào quan tài, trở về với đất mẹ bình yên. Nhưng tôi chẳng thể tưởng tượng nổi cái duyên ngộ giữa người với người lại kỳ lạ đến vậy, nó tựa như cái vỗ cánh của bươm bướm có thể gây nên chấn động cực lớn trong pháp giới hư không. Ân oán của phái Giang Tướng quay về như kéo một sợi tóc nhỏ mà khiến toàn thân bủn rủn, tôi của những năm tháng cuối đời như ngọn đèn trước gió, bất đắc dĩ phải một lần nữa đối diện với quá khứ khó có thể quên đó, với cõi giang hồ hư hư ảo ảo đó.

Vào năm 1998, đầu phố bỗng đâu xuất hiện bốn kẻ hành nghề tướng số, nghe chúng nói rằng Tổ Gia chưa chết, một cảm xúc bỗng dâng trào trong tôi. Tiếp sau đó, sự xuất hiện của một người phụ nữ chừng 40 tuổi lại càng khiến cho tôi kinh ngạc không thốt nên lời, bà ta nói rằng mình là con gái của Hoàng Pháp Dung. Con cái của “Quỷ muội” ư? Hậu duệ của phái Giang Tướng sao? Hoàng Pháp Dung - vợ của Tứ Bá đầu quả thực chưa chết? Hơn nữa còn có con gái sao? Tôi như thấy trời đất quay cuồng, ngỡ rằng mình đang nằm mơ, mấy chục năm nay những giấc mơ lạ lùng vẫn luôn bám riết lấy tôi từng đêm.

Vợ tôi nắm chặt lấy tay tôi như để níu giữ tâm tư, tôi nhìn vợ tha thiết, răng cắn chặt môi, lúc này mới nhận ra mọi thứ trước mắt đều là sự thực.

Con gái Hoàng Pháp Dung và bốn kẻ hành nghề tướng số mang đến tin Tổ Gia chưa chết, hơn nữa họ còn mang theo cờ quạt trống phách, gây sự chú ý bên bãi sông chính là nhằm dẫn dụ điều bí mật đã phủ lên lớp bụi thời gian mấy chục năm, họ muốn ép Tổ Gia xuất hiện.

Lòng tôi mênh mang mù mịt, rồi sau đó là một nỗi thê lương kéo dài vô tận: Tổ Gia ơi là Tổ Gia, rốt cuộc thầy còn sống hay đã chết? Thầy có biết mấy chục năm nay con sống như thế nào không? Sinh tử ảo diệt, tranh đấu bất tận, duyên với pháp, đúng với sai, áo cà sa của nhân nghĩa, y bát của tà ác, tất cả cứ như con thoi chạy xuyên qua giữa sự sống và cái chết của chúng ta. Tâm tư của thầy bao trọn trong một vòng huyền bí vô tận, điều con muốn chỉ là sống một cách minh bạch, còn thầy sống là một ẩn số, chết là một món nợ đời!

Tôi muốn đi tìm con đường bất tử của Tổ Gia, vì với tôi đây sẽ là nỗi day dứt khôn nguôi trong suốt quãng đời còn lại và tôi cũng muốn thử đi so sánh với Tổ Gia trước đây mà tôi đã biết - đó là những sự việc bắt đầu từ lời nói của Nhị Bá đầu. Người phụ nữ trước mặt tôi đây chính là một minh chứng tốt nhất, chúng tôi cùng chung sự cảm nhận về Tổ Gia - thiện, ác của ông, dấu tích giang hồ bất tận của ông...

• • •

Quần đảo Chu San, chiều ngày 16 tháng 8, năm Dân Quốc thứ 25 (năm 1936).

Tổ Gia xông ra ngoài hành lang, bên ngoài lửa cháy ngút trời, những thùng xăng và đạn dược bị trúng đạn pháo nổ tan tành, tiếng hò hét vang khắp tứ phía.

Mấy trăm người kêu la chạy loạn, đạn pháo vẫn giội không ngừng, nhiều người bị trúng đạn nổ tan xác, thịt xương rơi lả tả.

Tổ Gia định thần lại, phát hiện Bùi Cảnh Long đã biến mất! Trước khi lên đảo, hai người đã thống nhất phải luôn theo sát nhau, các mắt khóa của “Bát trận đồ” đều do một tay Bùi Cảnh Long dựng nên, vào thời khắc then chốt anh ta có thể giúp Tổ Gia một tay, nhưng trong lúc hỗn loạn Tổ Gia chỉ chăm chăm chú ý đến Tây Điền Mỹ Tử, không có thời gian để mắt đến anh ta.

Tổ Gia căng cặp mắt đỏ ngầu quét nhìn đám người hỗn loạn dưới ánh lửa chập chờn.

“Tổ Gia!” Tiếng Hoàng Pháp Dung từ sau vọng lại.

“Pháp Dung! Các anh em đâu?” Tổ Gia lo lắng hỏi.

“Con không biết, mọi người chạy hết rồi!” Hoàng Pháp Dung gạt mái tóc đẫm mồ hôi trước trán, nói: “Tổ Gia, chúng ta mau chạy thôi! Quân Nhật sắp đến rồi!”

Tổ Gia đành phải gật đầu đồng ý. Cuộc họp đường hội bí mật trước khi lên đảo đã giao hẹn trước: một khi khai chiến, mọi người thân ai nấy lo, càng không cần bảo vệ Đại sư bá, vì như vậy dễ bị người Nhật tiêu diệt cả đám, tất cả chạy ngược lên thượng nguồn sông, tự khắc có thuyền tiếp ứng.

Tổ Gia và Hoàng Pháp Dung chạy thục mạng đến địa điểm hẹn trước, đang chạy bỗng thấy phía trước có một người cũng đang lao như bay.

“Lão nhị!” Tổ Gia gọi to.

Nhị Bá đầu quay lại, loạng choạng suýt ngã: “Ha ha, Tổ Gia!”

Ba người cùng chạy như bay, khi đến điểm hẹn, phóng mắt tìm kiếm, bất giác thở dài ngao ngán: hai chiếc thuyền đánh cá dùng để tiếp ứng bị trúng đạn pháo nổ tan tành, dưới nước dập dềnh mấy thi thể. Tổ Gia vội vàng lao xuống nước tìm kiếm, chỉ sợ mấy thi thể dưới nước kia chính là anh em của mình.

Bỗng nhiên Tổ Gia phát hiện trong mấy thi thể nổi lềnh bềnh kia có một gương mặt rất quen, bất chấp Hoàng Pháp Dung đang cố níu lấy mình, ông vẫn cứ bổ nhào phủ phục xuống nước: “Mai sư gia! Mai sư gia!” Thi thể Mai Huyền Tử gầy gò nổi dập dềnh dưới làn nước biển đục ngầu, sóng biển dập dềnh cuốn đi bùn đất trên mặt ông ta. Vị đại sư từng siêu độ cho hàng ngàn hàng vạn vong linh bên bờ sông Hoàng Phố, giờ đây lại trở nên nhỏ bé và đáng thương đến vậy. Tổ Gia ôm lấy thi thể Mai Huyền Tử, ngửa mặt lên trời mà khóc.

“Tổ Gia, Tổ Gia!” Tiếng gọi bất chợt vang lên từ đâu đó, Tăng Kính Võ cùng mấy anh em của Tinh Võ Hội đang chèo thuyền đến.

“Tổ Gia, lên thuyền, nhanh!” Tăng Kính Võ hô to.

Tổ Gia cố sức đưa cả thi thể Mai Huyền Tử lên thuyền, tiếp theo sau là Nhị Bá đầu và Hoàng Pháp Dung.

“Mau chèo đi!” Tăng Kính Võ giục. Mấy anh em dốc sức chèo, chiếc thuyền nhỏ nhanh chóng biến mất trong màn đêm đen trên biển.

“Đã để Tổ Gia phải sợ hãi rồi. Hai chiếc thuyền phía trước đều bị trúng đạn nổ tan tành, chúng tôi không dám lại gần, phải đợi đến khi hỏa pháo của quân Nhật giảm bớt mới dám vào bờ... ” Tăng Kính Võ nói.

Tổ Gia lặng im không nói, dường như ông vẫn chưa hoàn hồn sau cuộc sinh ly tử biệt vừa rồi. Biển cả mênh mông, bốn bề tối đen như mực không biết đâu là bến bờ, càng không thấy được tia hy vọng nào.

Gần canh ba, tiếng đạn pháo giờ đã dần xa, từng làn gió biển mát rượi thổi lên mặt, Tổ Gia dường như mới hoàn hồn. Chèo thêm mấy canh giờ nữa, đoàn người tấp thuyền vào bờ biển Thiệu Hưng. Nhân lúc trời chưa sáng, nhanh chóng chạy đến nơi ẩn nấp của Tăng Kính Võ.

Vừa mở cửa, một chàng trai trẻ hớt hải chạy ra đón: “Tổ Gia, thầy không sao chứ?” - là Tiểu Lục Tử.

Tổ Gia vỗ vai anh ta nói: “Ta không sao, không sao rồi.”

Năm ngoái, sau khi quy phục Tổ Gia ở chỗ Vương Á Tiểu, Tiểu Lục Tử một bước cũng không rời ông, nhưng lần lên đảo lập bẫy quyết chiến với đặc vụ Nhật Bản này, Tổ Gia dứt khoát không cho anh ta tham gia; mặc dù anh ta tìm mọi cách khẩn nài, Tổ Gia vẫn cương quyết từ chối, cho rằng anh ta là người của Cửu gia, nếu vừa mới gia nhập Đường khẩu đã mất mạng thì biết ăn nói thế nào với Cửu gia. Do đó trước khi khai chiến, tạm cho anh ta đến chỗ Tăng Kính Võ trước.

Tổ Gia quan sát thật kỹ ngôi nhà âm u này: “Tăng lão đệ, sao lại đi chọn ngôi nhà xấu thế này?”

Tăng Kính Võ ngây người ra, đoạn cười nói: “Làm sao mà Tổ Gia biết đây là hung trạch”

Tổ Gia mỉm cười nói: “Trước có hương xuân, sau trồng hồng là tượng Đảo Thọ*, bên tây cao hơn bên đông một mái nhà, đây gọi là Quỷ thám đầu. Ở trong ngôi nhà kiểu này dễ gặp việc hung họa!”

Lời luận đoán này cho thấy trình độ cao thâm của Nhất đại tông sư phái Giang Tướng. Theo tập tính của người xưa, trước nhà phải trồng cây hồng ti*, phía sau nên trồng cây hương xuân*. Hồng ti còn gọi là Quỷ mộc, trồng trước nhà để trấn giữ; hương xuân ngụ ý là tăng thọ, do đó phải là trước trồng hồng, sau trồng hương xuân, nếu làm ngược lại thì tuy phát tài nhưng đoản thọ. Ngoài ra, hai chái nhà phía đông và tây trong kiến trúc tứ hợp viện của người xưa phải cân xứng nhau, không được bên cao bên thấp, dài rộng khác nhau; nếu hai chái nhà bên cao bên thấp, vào buổi tối trông giống như một con quỷ xách một cái đầu, đây gọi là Quỷ thảm đầu, vô cùng xấu! Phái Giang Tướng tuy xuất thân thấp kém, nhưng tuyệt không phải là phường giá áo túi cơm, nhất là Đại sư bá, đều là những người có thực tài. Lý luận này của Tổ Gia được đúc kết từ tinh hoa chung nhất trong lý luận của nhiều trường phái phong thủy.

Trung Quốc sản sinh ra rất nhiều trường phái phong thủy, chỉ riêng trường phái Huyền không phi tinh đã có thể phân ra hơn 100 môn phái lớn nhỏ, mỗi môn phái đều có bộ lý luận của riêng mình, điều này nảy sinh một vấn để lớn: cùng một ngôi nhà, đại sư này nói là vượng trạch, đại sư nọ lại cho là hung trạch; phái Dương Công nói là “Hung sát gia lâm”, hình thê khắc tử*; phái Tam Hợp lại nói là “Cát tinh cao chiếu”, đa tử đa phúc*; mỗi môn phái đều rêu rao mình là chân lý, phái khác đểu là nói hươu nói vượn. Nếu là người dân bình thường lại càng khó phân biệt được thật-giả, không biết phải theo bên nào.

Tổ Gia từ khi lên nắm giữ Đường khẩu đến nay, lúc rảnh rỗi thường thích nghiên cứu sách vở về phong thủy, ông cũng thường bị những kiến giải mâu thuẫn làm cho không biết đâu mà lần. Sau này Tổ Gia nghĩ ra một phương pháp vô cùng thông minh, đó là “đúc rút điểm chung nhất để dùng”, nói trắng ra là các loại lý luận, học thuyết dù thiên biến vạn hóa, dù xung đột lẫn nhau, nhưng tựu chung lại đều có những điểm tương đồng, thứ ông đúc rút ra chính là những điểm tương đồng đó.

Bất luận là trường phái phong thủy hình thế, lý khí hay mệnh lý cũng đều có nguyên tắc chung về phương diện luận đoán cát hung, đây cũng là nguyên tắc mà các trường phái trong giới phong thủy Trung Quốc đều tuân theo.

1. Nhà trước cao, sau thấp là xấu. Thế nào là trước, thế nào là sau? “Trước” chính là hướng nhìn của cổng chính hoặc chính đường*. Trung Quốc nằm ở phía bắc đường xích đạo, từ thời thượng cổ đến nay con người xây nhà dựa theo hướng mặt trời, gọi là tọa bắc hướng nam, do đó “trước” thông thường là chỉ hướng nam, “sau” là chỉ hướng bắc.

2. Đồng nam cao, tây bắc thấp là xấu. Truyền thuyết kể rằng, Cộng Công* phạt đứt núi Côn Lôn, khiến cho trời nghiêng về phía tây bắc, đất trũng về phía đồng nam. Do đó tây bắc cao, đông nam thấp là phép tắc của tự nhiên, nếu địa thế đông nam cao, tây bắc thấp, tức không thuận với tự nhiên, tất sẽ gặp việc hung họa, hay gọi là hung trạch.

3. Kiến trúc bên phải cao, bên trái thấp là xấu. Hai điều trên là nói về địa thế, còn thứ ba đây chính là nói về kiến trúc. Nguyên lý này bắt nguồn từ thuật ngữ trong Phong thủy học: “Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ, thà để Thanh Long cao vạn trượng, chứ không được để Bạch Hổ thò đầu ra.” Nghĩa là trong một quần thể kiến trúc, hoặc có hai căn nhà liền kế hai bên thì kiến trúc bên phải không được cao hơn nhà chính, dù là một chút cũng không được, riêng bên trái có thể cao hơn tùy theo thiết kế. Bản đồ ngày nay được trình bày là trên bắc, dưới nam, trái tây, phải đông. Người xưa thường lấy hướng bắc làm chuẩn, lưng quay về phía bắc, lấy đó làm khởi điểm, trên đổ hình bát quái hướng bắc là phía sau, ngũ hành thuộc Thủy, do Huyền Vũ cai quản; hướng nam là phía trước, ngũ hành thuộc Hỏa, do Chu Tước trấn giữ; hướng đông là bên trái, ngũ hành thuộc Mộc, do Thanh Long chủ quản; hướng tây là bên phải, ngũ hành thuộc Kim, do Bạch Hổ cai quản. Do vậy mới có cách nói “Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ, thà để Thanh Long cao vạn trượng, chứ không được để Bạch Hổ thò đấu ra.”

“Thanh Long, Bạch Hổ” bắt nguồn từ thuyết “Lục thú trong Phong thủy học cổ đại. Có câu “Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ, tiên Chu Tước, hậu Huyền Vũ, Câu Trần ở chính giữa, Đằng Xà hóa rồng.” Khi khảo sát phong thủy, các thầy tướng số hoặc nhà phong thủy thường thuộc nằm lòng mấy câu này, nhưng hiểu thực sự thì không có được mấy người, nhất là sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập, nhiều vị “Đại sư” hữu danh vô thực thường mở tọa đàm luận nghĩa, thậm chí viết sách tán hươu tán vượn về phong thủy. Nhưng trên thực tế ngay đến kiến thức cơ bản về phương vị trước, sau, phải, trái cũng không hiểu.

4. Nhà mà trước mặt là núi, sau lưng có nước là xấu. Người xưa xây nhà rất coi trọng “y sơn bàng thủy” tức phải có thế tựa núi nhìn sông. Núi phải ở phía sau, làm điểm tựa; nước phải ở phía trước, biểu thị tài lộc hội tụ. Ngược lại chính là không có điểm tựa, chủ gặp họa phá tán tiền tài.

Ngoài những kiêng kỵ phong thủy mang tính chất tổng quát này, Tổ Gia còn căn cứ vào lối tư duy của người xưa mà quy nạp thành phép luận đoán cát hung trong phòng ngủ.

1. Phòng ngủ nên tĩnh, không nên động. Phòng ngủ là nơi ngủ nghỉ, khi đi vào giấc ngủ, hồn phách chúng ta được nghỉ ngơi, nếu trong phòng không yên tĩnh tất hồn phách bất an, lục thần vô chủ, dẫn đến gặp nhiều ác mộng, chất lượng giấc ngủ kém, người xưa có câu: “Hồn an tắc vô mộng*.” Do đó phòng ngủ nên tĩnh, không nên động.

2. Không để gương đồng* ở đầu giường. Thời xưa gương là pháp khí để gọi thần trừ quỷ, Lý Thời Trân* từng nói: “Gương cổ như kiếm cổ, như có thần linh, có thể tránh tà ma quấy nhiễu.” Người xưa cho rằng gương có thể khiến người khi ngủ bị bóng đè, gặp ác mộng. Hồng Lâu Mộng dưới ngòi bút của Tào Tuyết Cần đã nhiều lần nhắc đến sự linh thiêng của chiếc gương. Do đó, người xưa rất kỵ đặt gương ở đầu giường, vì cho rằng gương là vật “người soi ban ngày, quỷ soi ban đêm”. Ban đêm nếu dậy đi vệ sinh, sẽ thấy trong gương những thứ đáng sợ. Đó là lý do người xưa chưa bao giờ để gương ở đầu giường, nhất là khi trong nhà có người thân qua đời, toàn bộ gương phải được che đi. Truyền thống này được giữ gìn cho đến tận ngày nay.

3. Phòng ngủ không nên để binh khí. Thời xưa ngoài kẻ luyện võ ra, người bình thường hiếm khi để binh khí trong phòng ngủ, càng không nên đặt trên giường. Cổ nhân có câu “gối giáo chờ trời sáng”, đây là trạng thái chuẩn bị sẵn sàng liều mạng, sát khí quá nặng, dễ gặp tai họa.

4. Phòng ngủ không nên đặt bàn thờ thần Phật. Thần Phật là đối tượng để thờ cúng, nơi thờ cúng phải sạch sẽ, thanh tịnh. Phòng ngủ là nơi để ngủ nghỉ, chưa cần nói đến âm thanh phòng the của vợ chồng, mà chỉ cần xú khí thải ra của con người đã đủ quy vào tội bất kính với thần Phật.

Tăng Kính Võ nghe xong cười ha hả nói: “Tổ Gia nói rất đúng, ngôi nhà này chính là nhà cũ của Đinh Ngũ Quý, chuyên nghề ‘cai thầu’ ở Thiệu Hưng này. Năm ngoái do tranh chấp với đám thợ, ông ta bị chém chết ngay tại đây, vợ và hai con cũng bị liên lụy mà chết theo.”

Tổ Gia nghe xong gật đầu nói: “Thế nên Tăng giáo đầu mới ẩn thân ở đây, ngôi nhà này chính quyền không quản, dân không hỏi đến, người thường thì tránh xa...”

Hoàng Pháp Dung hắng giọng nói nhỏ: “Nơi này ít người lai vãng, tuy là nơi ẩn thân rất tốt, nhưng dù gì cũng là hung trạch, chúng ta ở đây lâu e rằng...”

Tăng Kính Võ lắc đầu mỉm cười nói: “Hoàng cô nương quá lo xa rồi, những thứ tướng mệnh bói toán người khác tin chứ ta và Cửu gia thì chẳng tin, bọn ta chỉ tin khẩu súng trong tay, tin anh em dưới trướng. Tổ Gia và mọi người tạm nghỉ ở đây ít ngày, đợi sự việc lắng xuống, rồi hãy đến nương nhờ Cửu gia!”

Tổ Gia cũng cười nói: “Tăng giáo đầu nói rất phải, vận mệnh chính nằm trong tay chúng ta. Lần này nhờ Tăng giáo đầu tương trợ lập bẫy đại phá căn cứ đặc vụ Nhật, lại mạo hiểm chèo thuyền đến cứu, thật vô cùng cảm kích. Ngày mai an táng Mai sư gia xong, tôi cũng sẽ rời khỏi đây.

Nụ cười của Tăng Kính Võ vụt mất, ông tiến lại gần Tổ Gia, ghé đầu thì thầm mấy câu.

Tổ Gia lắc đầu: “Đa tạ Tăng giáo đầu, Cửu gia đối với tôi ân trọng như núi, nay tôi thoát được đại nạn này, không dám làm phiền Cửu gia nữa. Phái Giang Tướng đến hôm nay cũng đã được hơn ba trăm năm, có đào gốc trốc rễ cũng không hết được, dù vứt ở đâu chúng tôi cũng có thể bám rễ, mai này tôi sẽ tự đưa anh em tìm con đường ra, Tăng giáo đầu không cần lo lắng cho chúng tôi.”

Tăng Kính Võ vẫn muốn nói thêm điều gì đó, nhưng Tổ Gia lắc đầu xua tay, tỏ ý đã quyết.

Sáng sớm hôm sau, mấy người bọn Tổ Gia âm thầm chôn cất Mai Huyền Tử dưới chân núi. Ban đầu ông cũng định lập bài vị, trên để tự “Nghĩa đệ Mai Huyền Tử chi mộ”, nhưng nghĩ đến sự an toàn, thôi đành bỏ vậy.

Nhưng Tổ Gia vẫn kỳ công chọn cho Mai Huyền Tử một nơi phong thủy đắc địa, hy vọng con cháu đời sau có thể hưng vượng. Lúc đó đại sư phái Giang Tướng bỗng trở nên mê tín như vậy, thật khiến mọi người không thể hiểu nổi. Không biết có phải Tổ Gia đã lĩnh hội được thuật phong thủy sau nhiều năm bái yết cao nhân hay không, hay là vì long đong lận đận khiến ông không còn nơi nào gửi gắm cõi lòng. Tóm lại, ông chọn đất rất kỹ càng, xem long mạch, hướng gió, sa thạch * thậm chí còn nắm bùn đất đưa lên ngửi mùi vị.

Chừng giờ Ngọ* Tổ Gia nói nhỏ vào tai Tăng Kính Võ mấy câu mật ngữ, sau đó chắp tay cáo từ. Hoàng Pháp Dung, Nhị Bá đầu, Tiểu Lục Tử theo Tổ Gia âm thầm biến mất trên đường phố Thiệu Hưng...

CÁI CHẾT CỦA CAO THỦ ÁM SÁT ĐỆ NHẤT TRUNG QUỐC

Đêm trăng mờ gió rít, từng đám lá khô cuộn xao xác trên mặt đất.

Dưới ánh đèn dầu leo lét, Tổ Gia cầm cuốn Tử hồn linh bách đồ nghiền ngẫm một cách chăm chú. Đây là cuốn sách do đích thân nhà văn Lỗ Tấn chỉnh lý và viết lời tựa. Sở dĩ ông thích cuốn sách này là bởi nhân vật chính cũng là một tên lừa đảo vô cùng thông minh, hắn đầu cơ buôn đá quý, có thể đưa nhiều nhân vật từ quan chức đến dân quèn vào tròng của hắn.

Đúng lúc đang say sưa đọc, bỗng có tiếng bước chân gấp gáp đi đến, Tổ Gia nhanh nhẹn thổi tắt đèn, thủ sẵn mấy cây phi tiêu ở tay, nấp sau cánh cửa.

“Tổ Gia, là con.” Một giọng thấp trầm từ bên ngoài vọng vào.

Tổ Gia nghe xong thì biết là Nhị Bá đầu, hít sâu một hơi rồi mở cửa.

“Tổ Gia, xem ai đến này!” Nhị Bá đầu nói, giọng đầy phấn khích.

“Tổ Gia!” Bóng đen phía sau đẩy Nhị Bá đầu ra rồi quỳ mọp xuống đất, vừa khóc vừa nói: “Con tìm được thầy rồi!”

Thì ra là Đại Bá đầu, Tổ Gia đỡ anh ta dậy, hai người ôm chặt lấy nhau, Tổ Gia đấm thùm thụp vào lưng anh ta, nghẹn ngào nói không nên lời.

Tổ Gia thực sự đã trở nên mềm yếu. Từ sau cái ngày anh em thất tán, tiến đồ mù mịt, mỗi ngày ông đều cầu nguyện cho những người anh em của mình, hằng đêm những cơn ác mộng thường tìm đến khiến ông giật mình tỉnh giấc, rồi lại dần chìm vào giấc ngủ mụ mị. Rồi cũng đến một ngày không chịu được nữa, ông bèn sai Hoàng Pháp Dung đến ngôi chùa gần đó thỉnh tượng Quan Âm về, rồi nhang đèn ngày đêm, gửi gắm tâm tư.

Hoàng Pháp Dung và Nhị Bá đầu đều hiểu rằng đây là giai đoạn bi thương nhất trong cuộc đời ông, Tổ Gia cũng là con người, đã là con người thì tất sẽ có nỗi hoang mang, sự sợ hãi. Anh hùng cũng giống như một trang giấy, có thể múa bút thành bức tranh rực rỡ tươi đẹp, khí thế hào hùng, nhưng trong chớp mắt cũng có thể bị chọc thủng xé vụn, rụng rơi lả tả. Tổ Gia đi đến bước đường cùng này, cũng như biết bao anh hùng trong lịch sử, khi đắc ý “cười cười nói nói cũng có thể đốt cháy 80 vạn quân Tào thành tro bụi”, nhưng một khi đã đến hồi mạt vận, khí anh hùng cũng sẽ đứt đoạn, là vương bá cũng phải im hơi.

Thì ra sau hôm cáo biệt Tăng Kính Võ, Tổ Gia cùng Nhị Bá đầu, Hoàng Pháp Dung, Tiểu Lục Tử hóa trang, bí mật quay lại ngoại ô Thượng Hải. Đây vẫn là cách ông thường dùng, nơi nguy hiểm nhất chính là nơi an toàn nhất.

Lần lên đảo lập bẫy, phá hủy cơ quan Đặc vụ Nhật Bản là một nước cờ lớn của Tổ Gia. ở Ngụy Mãn Châu quốc*, trước tiên Tổ Gia đồng ý hợp tác với Tây Điền Mỹ Tử và người Nhật, sau còn mưu đồ tổ chức Hội thi hùng biện Dịch học nhằm quy tụ bọn Hán gian trong các hội đạo môn. Trong khoảng thời gian đó ông liên thủ với Mai Huyền Tử, Bùi Cảnh Long, Tăng Kính Võ lập bẫy trên quần đảo Chu San, mặt khác sai Hoàng Pháp Dung vượt ngàn dặm xuống Vân Nam bắt rắn độc, nên mới có thảm cảnh ngắm thủy triều lên, nước biển trào dâng, rắn độc tràn vào.

Trong cái bẫy lần này, chỉ cần một mắt xích phạm sai lầm thì tất cả sẽ xôi hỏng bỏng không, vậy thì Tổ Gia sẽ đi đời, nhưng chết không đáng sợ, điều đáng sợ là tiếng xấu “đệ nhất Hán gian trong giới Dịch học” mãi mãi không bao giờ gột sạch được, nỗi bi ai lớn nhất trong đời người chính là bị hàm oan! Tuy rằng lịch sử rất công bằng, nhưng cũng cần phải có thời gian, Tổ Gia không muốn phải đợi mãi tới trăm năm, ngàn năm sau! Ông buộc phải đánh cuộc! Cũng giống như rất nhiều A Bảo trong lịch sử, vào thời khắc then chốt thì phải dám đánh cược tất cả, thành công thì “được ăn cả”, thất bại thì “chết cũng cam lòng, không uổng tuổi xuân!”

Ông trời có mắt, không phụ lòng người. Nhưng Tổ Gia cũng phải trả cái giá không hề rẻ, trong phút chốc Đường khẩu tan tác, các bá đầu không biết sống chết nơi nào, đám tay chân cũng cho về quê ngay từ tối hôm đầu tiên lên đảo. Lần này Đường khẩu giải tán mà không hề có lý do, nên đám tay chân dù thắc mắc nhưng không dám không theo lệnh của Đại sư bá, mỗi người đều cầm ngân lượng ẩn mình thật kỹ, không có hiệu lệnh không được phép xuất hiện hay qua lại với nhau.

Trước khi lên đảo, có bá đầu hỏi rằng: “Nhỡ ra mọi người chạy tứ tán hết thì làm thế nào?” Đây thực chất là ý hỏi nơi tập hợp, ẩn thân sau khi lên bờ.

Tổ Gia không cho họ biết địa điểm cụ thể mà ra lệnh tập trung ở đầu sông trên đảo, đến được thì đến, không đến được cũng đành mặc theo mệnh trời. Tổ Gia sở dĩ không tiết lộ nơi ẩn nấp của Tăng Kính Võ ở Thiệu Hưng là vì lo nhỡ có người rơi vào tay kẻ địch, không chịu nổi tra khảo cực hình, để lộ tin tức thì tất cả cùng đi đời.

Kế hoạch càng chặt chẽ, tỉ mỉ thì càng tàn khốc. Tổ Gia hiện đã an toàn, nhưng các anh em thì sao? Ông ăn không ngon, ngủ không yên; ban ngày sai Nhị Bá đầu và Hoàng Pháp Dung cải trang vào thành phố để tìm anh em bị thất tán. Sau mấy ngày tìm kiếm khắp nơi, rốt cuộc cũng liên lạc được với Đại Bá đầu.

Tổ Gia nhắm hờ mắt, lắng nghe Đại Bá đầu kể lại chuyến thoát hiểm của mình.

• • •

Hôm đó, sau khi rắn độc tràn vào Viện Giao lưu hữu nghị Dịch học Nhật - Trung, hiện trường phút chốc hỗn loạn. Đại Bá đầu co cẳng chạy thẳng một mạch, vóc người tuy không cao nhưng rất cường tráng, một khi đã chạy thì khó ai có thể hãm lại được, bảy tám người bị anh ta đụng phải bắn sang một bên. Là người đến điểm hẹn đầu tiên, nhưng chưa kịp mừng thì Đại Bá đầu đã thất vọng, bởi anh ta chạy nhanh quá, đến nỗi thuyền tiếp ứng còn chưa kịp tới.

Đại Bá đầu tặc lưỡi chửi đổng: “Mẹ nó chứ!”

Lúc này một chiếc thuyền nhỏ từ xa bơi lại, Đại Bá đầu giang hai tay lao thẳng xuống nước, huỵch một cái leo lên thuyền. Vừa định bảo người chèo thuyền mau chèo đi, chợt nhớ Tổ Gia vẫn chưa đến, sốt ruột lại gọi loạn lên.

Thấp thoáng trên bờ có mấy người chạy đến, là bọn Mai Huyền Tử, Cái Hà, còn có Tam Bá đầu, Ngũ Bá đầu nữa.

“Nhanh! Nhanh! Mau lên đi!” Đại Bá đầu gân cổ lên giục. Lúc này bỗng một âm thanh chói tai rít trên bầu trời, Đại Bá đầu tai nghe rất thính: “Là đạn pháo! Mẹ nó chứ!” Chẳng cần biết có phải bắn về hướng này hay không, anh ta lao xuống nước lặn mất.

Ầm một tiếng, đạn pháo nổ vang, chiếc thuyền vỡ tan tành, một mảnh pháo găm thẳng vào yết hầu khiến Mai Huyền Tử chết ngay tại chỗ.

Khi Đại Bá đầu trồi lên mặt nước, trên bờ lửa cháy ngút trời. Có vẻ như quân vũ trang Nhật cũng được điều đến, một phen bắn giết hỗn loạn. Đại Bá đầu quyết định: “Thôi kệ! Không đợi nữa!” nghĩ vậy liền bám vào tấm ván thuyền còn sót lại, bơi nhanh ra biển.

Đại Bá đầu luôn tự tin vào sức vóc của mình, từ nhỏ anh ta sống ở ven sông nên bơi lội rất giỏi. Nhưng lần này bơi một mạch hai canh giờ, mãi rồi cũng thấm mệt, sau mặc kệ trôi nổi trên mặt biển tối đen, vừa lạnh vừa đói, nhìn quanh biển cả mênh mông không biết đâu là bờ, anh ta luôn miệng than vãn: “Mẹ kiếp! Hôm nay chắc làm mồi cho cá rồi!”

Trong lúc tuyệt vọng, bỗng thấy có ánh đèn thấp thoáng trên mặt biển, hình như là thuyền chài đi đánh cá đêm. Đại Bá đầu dồn hết sức lực còn lại, bơi về phía ánh đèn.

Vậy là Đại Bá đầu được cứu sống. Đôi vợ chồng ngư dân vớt được anh ta khi đã thoi thóp. Sau khi nghỉ ngơi lấy lại sức, húp cạn nồi canh, ăn hết bảy con cá đối, anh ta chẳng khác nào quỷ đói thoát chết vậy.

Ăn uống xong, Đại Bá đầu móc trong túi ra tờ Pháp tệ* ướt nhẹp trả cho vợ chồng ngư dân. Đồng Pháp tệ khi đó mới được chính phủ Quốc dân Đảng phát hành, rất có giá trị, 100 đồng có thể mua được hai con trâu to. Vợ chồng ngư dân chưa nhìn thấy nhiều tiền như vậy bao giờ, sợ hãi không dám nhận. Đại Bá đầu cáu tiết: “Cầm lấy đi! Mạng sống của ta không đáng chút tiền này ư!”

Đại Bá đầu lên bờ, tìm không thấy Tổ Gia và các anh em đâu, đành phải hóa trang lê la đầu đường xó chợ chờ gọi tập hợp.

“Phương thuốc gia truyền, chuyên trị ngoại thương đây, đậu nhi nha nhi xuất, lão không lão khoan vô...” Hôm đó, Nhị Bá đầu cải trang thành thầy lang đi triệu tập anh em đang ẩn náu.

Đại Bá đầu quan sát tên thầy lang đó rất lâu, nhưng thuật cải trang của Nhị Bá đầu quá lợi hại, lại dùng thủ pháp châm cứu khiến ngũ quan lệch lạc. Đại Bá đầu sợ đó là người Nhật giả trang, nên theo dõi mấy ngày liền mới dám ra mặt hỏi thử.

“Ngươi là tên lừa đảo!” Đại Bá đầu đột nhiên từ phía sau vỗ vai Nhị Bá đầu một cái.

Nhị Bá đầu sợ đến thóp cả bụng lại, suýt chút nữa tè ra quần, quay lại nhìn: “Ngươi...” Đại Bá đầu cũng đang cải trang, mặt mũi trát nhọ nồi đen thui. Anh ta vốn định hóa trang mặt đầy mụn cơm, nhưng giờ trông chẳng khác gì cứt trâu dính trên mặt vậy, Nhị Bá đầu cũng không nhận ra.

Hai người nhìn nhau một hồi, đoạn reo lên: “Là anh à!” rồi cùng bật cười với nhau.

• • •

Tổ Gia nghe xong cũng bật cười, nhưng ngay lập tức nghiêm mặt lại hỏi: “Còn những anh em khác đâu?”

Đêm xuống, Tổ Gia vẫn không ngủ được, mãi đến canh tư mới thiếp đi...

Trong lúc mơ màng, Tổ Gia nghe thấy tiếng bước chân dồn dập đi lại, ông muốn mở mắt ra nhìn mà không sao mở nổi, khó khăn lắm mới mở được mắt thì thấy xung quanh mờ mờ ảo ảo, nhìn không rõ vật. Lúc này thấy có tiếng kẽo kẹt mở cửa, Tổ Gia thất kinh: ông đã tự tay cài cửa, sao lại mở ra được vậy?

Một bóng người tiến lại gần, Tổ Gia cố sức mở mắt ra, phút chốc mọi thứ trở nên rõ nét, là Cửu gia (Vương Á Tiều)!

“Cửu gia!” Tổ Gia bật dậy.

Vương Á Tiều lặng lẽ nhìn Tổ Gia, dường như có điều muốn nói nhưng lại không nói nên lời.

“Cửu gia...”

Vương Á Tiểu vẫn lặng thinh không đáp, đoạn quay người đi mất.

“Cửu gia! Cửu gia!” Tổ Gia bước nhanh theo, bên ngoài tối đen như mực, không nhìn thấy gì cả. “Cửu gia! Cửu gia!” Tổ Gia gọi to.

Tổ Gia giật mình tỉnh dậy, đầu vã mồ hôi lạnh: “Ồ... thì ra là nằm mơ.” Hoàng Pháp Dung ở phòng bên nghe thấy tiếng la hét liền vội vàng chạy sang hỏi: “Sao vậy, Tổ Gia!”

Tổ Gia lau mồ hôi trên trán: “Không sao... không sao... Mấy ngày nay bên Tăng giáo đầu không có tin tức gì mới ư?”

“Không có,” Hoàng Pháp Dung rót cho Tổ Gia một cốc nước ấm, “Tổ Gia, thầy..

“Không sao, không sao, ngươi lui ra đi.”

Ba ngày sau, lan truyền một tin tức gây chấn động trong ngoài: Vương Á Tiều một đời kiêu hùng bị tên đặc vụ đầu sỏ của Quốc dân Đảng là Đới Lạp ám sát, chết ở Ngô Châu, Quảng Tây!

Đọc được tin trên báo, Tổ Gia run rẩy, tờ báo trên tay rơi xuống đất, một cảm giác đau đớn như chính người thân của mình bị hại chết vậy, đến nỗi ông lảo đảo đứng không vững nữa. Hoàng Pháp Dung mấy lần hắng giọng nhắc nhở, ông quên mất rằng bản thân như vậy trước mặt anh em là vô cùng thất thố. Tay gạt nước mắt đang tuôn xuống như mưa, ông nức nở thốt lên một tiếng “Cửu gia..hai chân quỵ xuống đất. Đại Bá đầu, Nhị Bá đầu, Tiểu Lục Tử cùng nhau quỳ xuống ôm lấy Tổ Gia, nước mắt cũng tuôn rơi.

Hôm sau, Tăng Kính Võ đến, người mặc áo tang, đầu quấn khăn trắng. Tổ Gia và Tăng Kinh Võ ôm lấy nhau, chụm đầu mà khóc, khóc đến cạn nước mắt.

Đêm xuống, Tổ Gia và Tăng Kính Võ chong đèn nói chuyện thâu đêm. Và rồi Tăng Kinh Võ đem phương hướng hành động gần đây của Vương Á Tiểu cho Tổ Gia biết.

Thì ra mấy năm gần đây, Vương A Tiều bị chính quyền Quốc dân Đảng đưa vào mục tiêu sào diệt hàng đầu, nhất là từ khi ông nhiều lần lên kế hoạch hành thích Tưởng, Tống và Uông*, điều này khiến Tưởng Giới Thạch mất ăn mất ngủ. Năm ngoái, sau khi Vương Á Tiều ám sát thành công Uông Tinh Vệ, đặc vụ Quốc dân Đảng dưới sự cầm đầu của Đới Lạp điên cuồng điều tra tung tích ông.

Ban đầu Vương Á Tiểu hoạt động rất khó khăn, sau ông dần ý thức được rằng: chỉ đơn thuần dựa vào ám sát thì không ổn, hơn nữa tranh đấu với cả một đất nước được trang bị đầy đủ thì một hiệp sĩ đơn độc dù tài giỏi đến đâu rốt cuộc cũng sẽ thất bại, không có tổ chức lãnh đạo thì cuối cùng chỉ có con đường chết mà thôi. Cân nhắc thế lực các phe cánh khi đó, Vương A Tiều quyết định đầu quân về Cộng sản Đảng, chỉ có tổ chức này mới thực sự lo lắng cho nhân dân cần lao, cũng chỉ có tổ chức này mới cứu được Trung Quốc.

Nhưng thật trớ trêu, nhân lúc Trung Cộng đang muốn kết nạp Vương Á Tiểu vào đảng, Đới Lạp ra tay lập bẫy mỹ nhân, bắn chết ông, sau đó chúng còn lột da mặt ông, thủ đoạn tàn độc khiến người ta không khỏi kinh hãi.

Sau khi Vương Á Tiều chết, Mao Trạch Đông vô cùng thương tiếc. Anh hùng khóc thương anh hùng, Mao Trạch Đông không tiếc lời bình phẩm về Vương Á Tiều: “Giết địch không có tội, kháng Nhật là lập công. Tiểu tiết không đủ kiểm điểm, đại sự không hồ đồ.” Đây là lời bình cuối cùng của người lãnh đạo cao nhất phe Trung Cộng dành cho Vương Á Tiều một đời kiêu hùng.

“Tổ Gia, hãy cùng tôi gia nhập Cộng sản Đảng!” Tăng Kính Võ nói.

Tổ Gia ngây người, vào đảng? Cộng sản Đảng? Ông chưa từng nghĩ đến điều này.

Thấy Tổ Gia im lặng không nói, Tăng Kính Võ liền nói tiếp: “Đây là nguyện vọng lúc sinh thời của Cửu gia, nay ông đã chết, các anh em đều tôn trọng di nguyện của ông. Mấy năm nay tôi cũng nhận thấy rằng chỉ dựa vào một người thì chẳng có tác dụng gì, Mao Trạch Đông từng nói: ‘Quyền lực chính trị lớn lên từ nòng súng’, chỉ có gia nhập tổ chức, sức mạnh của mọi người mới trở nên to lớn, có đội ngũ mới có thể làm đại sự!”

Tổ Gia vẫn im lặng không nói.

Tăng Kính Võ ngây người ra rồi nói tiếp: “Tổ Gia không muốn bỏ chỗ tối ra chỗ sáng ư?”

Tổ Gia thở dài nói: “Tăng giáo đầu, không phải ta không muốn, tình cảnh của chúng ta không giống cậu. Cậu và Cửu gia là anh hùng dân tộc, ta là cái thá gì chứ, chỉ là tên giang hồ lừa đảo; kẻ mà các cậu giết là bọn người xấu, kẻ ác, bọn Nhật; còn bọn ta là những kẻ đi lừa người, những người giàu có đó, dù có là người tốt, bọn ta cũng lừa...”

Tăng giáo đấu khẽ lắc đầu: “Tổ Gia, khuyết điểm chẳng thể che lấp ưu điểm, ông phá hủy cơ quan đặc vụ Nhật Bản, nhân cơ hội đó trừ khử biết bao nhiêu ‘hội đạo môn’, rõ ràng đó cũng là hành động vì đại nghĩa! Mao ủy viên nói: ‘Không có quan điểm chính trị lệch lạc, trung thực, có tinh thần hy sinh, tích cực công tác, không có tư tưởng phát tài, không hút thuốc phiện, không đánh bạc thì đều có thể vào đảng!’ Nếu quả thực không thể, thì tôi vào đảng trước, sau đó sẽ viết thư giới thiệu Tổ Gia.”

Tổ Gia cười khổ: “Tôi làm tướng* qua nhiều nơi trên thế gian này, dù sấm thét lửa thiêu cũng không tẩu phong*, sống chết với nghề tướng số. Là chủ của Đường khẩu, dưới trướng có bao nhiêu anh em như vậy, nếu tôi gia nhập Cộng sản Đảng thì họ biết làm thế nào? Nếu tôi bỏ mặc không quản, tất họ sẽ gây họa cho dân chúng, nếu ép họ gia nhập đảng cũng không biết bên đó có tiếp nhận hay không, hơn nữa Đường khẩu bốn đời, truyền thừa đã mấy trăm năm, đó không phải là việc một mình tôi có thể quyết được...”

Tăng Kính Võ lắc đầu, chẳng biết làm sao: “Sao mà người phái Giang Tướng các ông đều như nhau thế! Từ Hoài Cận cũng nói như vậy! Truyền thừa mấy trăm năm thì sao chứ? Xã hội phong kiến kéo dài có đến mấy ngàn năm, vậy mà khi cách mạng Tân Hợi nổ ra, chẳng phải đã bị hủy diệt đó sao? Nay là thời đại của cách mạng! Bỏ cũ thay mới, Tổ Gia suy nghĩ kỹ đi!”

Tổ Gia vẫn im lặng không nói.

Thấy ý Tổ Gia đã quyết, Tăng Kính Võ đành phải bỏ cuộc: “Tổ Gia, tôi sắp đi Thiểm Bắc, ngày sau... ngày sau... e rằng khó có cơ hội gặp lại, khối liên minh đã tan rã, từ nay không còn ‘Bang Búa rìu’ nữa, Tổ Gia hãy bảo trọng, bảo trọng!”

“Con muốn báo thù! Báo thù! Tổ Gia, con muốn báo thù!” Tiếng gào thét của Tiểu Lục Tử từ bên ngoài vọng vào.

Tăng Kính Võ không kìm được nước mắt, nói: “Tổ Gia, Tiểu Lục Tử... xin giao lại cho ông, tên tiểu tử này tính cách quật cường, ông hãy dạy dỗ nó...”

Tăng Kính Võ đi rồi. Tổ Gia vả cho Tiểu Lục Tử hai cái mới khiến anh ta bình tĩnh trở lại, sau đó mạo hiểm cùng với Trương Ân Thụy, Hoa Nguyệt Dung đi Nam Kinh lập bẫy mỹ nhân, sinh ly tử biệt...

Cũng trong thời gian này, Đại Bá đầu, Nhị Bá đầu và Hoàng Pháp Dung hóa trang rồi ngày ngày đi tập hợp anh em tản mát trên bến Thượng Hải.

Mấy tháng sau, các tay chân ẩn nấp ở các xó xỉnh đều đã tụ họp đông đủ, đây chính là “phái Giang Tướng”! Chính là nguồn lực của tổ chức! Một hiệu lệnh của Sư bá, núi non rung chuyển! Lan tỏa theo gió bay, bén cội rễ vào đất; hội tụ như trăm chim triều phụng, khi cần chỉ trong chốc lát có thể tề tựu đồng đủ.

Vẫn còn Tam Bá đầu, Tứ Bá đầu và Ngũ Bá đầu chưa xuất hiện. Đây đều là những thành phần cốt cán của “Mộc Tử Liên”, việc này khiến Tổ Gia thấp thỏm không yên, ba người này đã chết hay bị người Nhật bắt đi?

Lúc sẩm tối, Tổ Gia gọi Hoàng Pháp Dung đến hỏi: “Pháp Dung, con có hối hận không?”

Hoàng Pháp Dung gượng cười đáp: “Không.”

Tổ Gia thở dài một tiếng: “Có lẽ Tổ Gia ta đã sai rồi, ta không nên để con và Tự Triêm... như ngày hôm nay, Tự Triêm giờ vẫn không rõ tung tích...”

Hoàng Pháp Dung cúi đầu, khẽ nói: “Sống chết có số, phú quý tại trời.”

Một cơn gió lạnh thốc vào, cửa sổ bật mở, Hoàng Pháp Dung vội lấy áo dài khoác lên cho Tổ Gia.

“Hôm nay là ngày mấy rồi?” Tổ Gia hỏi.

Hoàng Pháp Dung bấm đốt ngón tay rồi đáp: “Vừa qua lập đông.”

Tổ Gia gật đầu: “Ở Sơn Đông quê con vào tiết lập đông thường ăn gì?”

Sủi cảo.

“Ừm,” Tổ Gia gật gù, “sủi cảo, đến giờ Tý. Truyền lệnh các anh em, tối nay chúng ta sẽ ăn sủi cảo vào giờ Tý.”

“Hả?” Hoàng Pháp Dung reo lên mừng rỡ.

“Sao vậy?” Tổ Gia hỏi.

“Bao nhiêu người như vậy, ai làm bánh ạ?” Hoàng Pháp Dung cười nói.

“Tất cả cùng làm!”

Các anh em được một phen ngạc nhiên, thường ngày họ chỉ là những kẻ giết người phóng hỏa, đào mồ quật mả, giờ bảo họ làm sủi cảo, thật khó ngang với lên trời. Nhưng lệnh của Đại sư bá, không thể không nghe theo!

Mấy chục con người vui vẻ vây quanh cái bàn bát tiên*, người nhào bột, kẻ băm nhân, hào hứng gói bánh. Tổ Gia nhìn một lượt, suýt chút nữa bật cười thành tiếng, những chiếc bánh này thật khiến cho người ta không hiểu nó là hình gì, cái thì đứng, cái thì nằm, cái thì to như tai voi, cái thì nhỏ như phân dê, thôi thì đủ thứ hình thù kỳ dị. Quan sát kỹ một hồi, Tổ Gia ngạc nhiên phát hiện ra chiếc bánh đẹp nhất không phải được gói bởi Hoàng Pháp Dung, mà lại là của Đại Bá đầu - người thường ngày chỉ chuyên mổ lợn giết chó, cũng bởi anh ta từng làm việc ở lò mổ, hằng ngày pha thịt, băm nhân, lọc mỡ cạo bì, lâu dần luyện được tay nghề khéo léo.

Nhìn những chiếc bánh đẹp đẽ được gói bởi đôi bàn tay chai sần của Đại Bá đầu, trong lòng Tổ Gia chợt dâng lên một nỗi xót xa: được làm người bình thường thật tốt biết bao, cuộc sống, cuộc sống... Đây mới là cuộc sống!

Mấy trăm chiếc bánh phải luộc đến bốn năm nồi mới xong. Mẻ đầu tiên ra lò, Hoàng Pháp Dung mời Tổ Gia nếm trước, sợ chờ lâu nguội ăn không ngon. Tổ Gia nhất quyết từ chối, ông muốn đợi luộc xong hết rồi cùng ăn với các anh em.

Sau đó, Tổ Gia sai Nhị Bá đầu bê ra mấy vò rượu Thiệu Hưng. Anh em vừa ăn vừa uống vô cùng vui vẻ, tạm quên đi nỗi niềm lưu lạc quẫn bách.

Hoàng Pháp Dung cuối cùng cũng hiểu ra dụng ý của Tổ Gia, ông đang cố gắn kết sĩ khí, đêm đông tuy lạnh, nhưng không thể để lòng người hoang lạnh, sợ hãi. Từ khi Mai Huyền Tử gây thanh thế đến cuộc đánh bại đặc vụ Nhật Bản, trải qua mấy hồi sinh tử, lang bạt kỳ hổ, hàng ngũ lay lắt chỉ chực tan vỡ. Có Tổ Gia, mọi người có thể tập hợp lại, một khi ông chết đi, “Mộc Tử Liên” chắc chắn tan đàn xẻ nghé. Trong lòng Tổ Gia hiểu rõ, các anh em tuy miệng không nói ra nhưng thâm tâm vô cùng chán nản, những ngày tháng huy hoàng ở bến Thượng Hải nay đã qua rồi, giờ chỉ có thể nhẫn nhịn chờ thời, lay lắt qua ngày ở nơi ngoại ô giá lạnh tồi tàn này mà thôi.

Giữa chừng, có tên tay chân đề nghị tái xuất giang hồ, hành nghề trở lại. Tổ Gia gật gật đầu nói: “Để hết năm này xem sao đã.”

TỔ GIA TRỪ KHỬ HOÀNG PHÁP DUNG

Sau một trận tuyết lớn, năm 1937 đã sang.

Đầu xuân tiết trời càng lạnh, một buổi sáng nọ, chú chim hỉ tước đậu trên đầu nhành cất tiếng líu lo rộn ràng. Hoàng Pháp Dung tươi cười nói với Tổ Gia: “Thầy! Hôm nay sẽ có tin vui, thầy coi chú hỉ tước này hót thật khoái biết bao!

Tổ Gia cũng rất vui, một nụ cười hiếm hoi nở trên gương mặt ông.

Đến giờ Tỵ, quản gia vào báo: “Đại sư bá Nam phái đến! Tam gia, Tứ gia, Ngũ gia cũng trở về rồi ạ!”

Giang Phi Yến đột nhiên đến thăm, còn cả Tam Bá đầu, Tứ Bá đầu, Ngũ Bá đầu cùng về một lượt, điều này khiến Tổ Gia vô cùng sửng sốt, vội bước ra ngoài nghênh đón.

Vừa vào cửa, Tam Bá đầu, Tứ Bá đầu, Ngũ Bá đầu nhao nhao quỳ xuống khấu đầu trước Tổ Gia, rồi khóc rống lên: “Tổ Gia, chúng con rốt cuộc cũng tìm được thầy rồi!” Tổ Gia liền vội vàng đỡ ba người dậy.

Giang Phi Yến thấy Tổ Gia gầy đi nhiều, xót xa hỏi: “Tổ Gia vẫn ổn chứ?”

“Đều ổn, đều ổn cả. Yến tỷ mau vào nhà đi.

Sau khi vào nhà, Tổ Gia và Giang Phi Yên hàn huyên một hồi, sau đó Tam Bá đầu bắt đầu kể lại quá trình họ và Tổ Gia lạc nhau, Hoàng Pháp Dung cứ ôm riết lấy tay Giang Phi Yến, tựa đầu lên vai bà im lặng lắng nghe.

• • •

Hôm trên đảo, Tam Bá đầu, Tứ Bá đầu, Ngũ Bá đầu cũng chạy rất nhanh, nhưng vừa chạy tới điểm hẹn thì bị pháo bắn tới tấp, tận mắt thấy thuyền tiếp ứng trúng đạn nổ tan tành, ba người cũng bị sức ép làm cho bất tỉnh. Nhất là Ngũ Bá đầu bị một mảnh gỗ văng trúng đầu, lảo đảo mấy cái rồi ngã vật ra.

Liền sau đó, bọn Nhật đuổi theo. Hai bá đầu đang không biết phải làm sao, lại tiếp mấy quả đạn pháo giội đến, ba người nằm bò sát nhau, tránh được đợt công kích đó. Cách đó không xa, mấy tên lính Nhật không kịp nằm xuống, trong nháy mắt bị chính đạn pháo của phe mình hất tung lên.

Tình thế ngàn cân treo sợi tóc, Tam Bá đầu nhanh trí bảo Tứ Bá đầu mau cởi bỏ quần áo, sau đó lột quần áo từ xác mấy tên lính Nhật gần đó, nói: “Mau! Mau mặc vào!” Đoạn vừa mặc quần áo, vừa quăng bộ quân phục cho Tứ Bá đầu. Tiếp sau đó, thay quần áo cho Ngũ Bá đầu vẫn đang hôn mê, vừa mặc vừa vỗ nhẹ vào mặt Ngũ Bá đầu: Lão Ngũ, tỉnh lại mau, tỉnh lại mau!”

Thật may Ngũ Bá đầu chỉ bị mảnh gỗ văng trúng ngất đi, một lúc sau đã tỉnh lại, Tam Bá đầu, Tứ Bá đầu dìu anh ta quay ngược trở lại.

Chừng 15 phút sau, tàu Nhật đến. Đám lính Nhật và “hội đạo môn” còn sót lại lần lượt lên tàu.

Vừa lên được tàu, quân Nhật tách người của mình và “hội đạo môn” ra; người của “hội đạo môn” bị dồn xuống phía đuôi tàu, không cho quần áo và cũng chẳng cho ăn uống gì hết. Người Nhật biết rằng tai vạ lần này chắc chắn do người của “hội đạo môn” giở trò, dù vẫn chưa điều tra ra kẻ nào, nhưng cũng đừng ai nghĩ đến việc chạy thoát.

Sau khi điểm lại số người, những kẻ cầm đầu “hội đạo môn” bị dồn về phía cuối tàu chờ lên bờ thẩm vấn.

Tam Bá đầu, Tứ Bá đầu, Ngũ Bá đầu mặc quân phục, mạo hiểm trà trộn trong đám lính Nhật, rồi theo hàng ngũ vào trong khoang tàu uống rượu, ăn gỏi cá.

Canh ba nửa đêm, thuyền sắp cập bờ. Thấy đám lính Nhật xung quanh đang say ngủ, Tam Bá đầu khẽ ra hiệu, ba người lặng lẽ lẻn lên boong tàu, nhân lúc không có ai lần lượt nhảy xuống nước.

Do căng thẳng nên khi nhảy, Tam Bá đầu đập thẳng xuống nước theo phương ngang, phần bụng và hạ bộ bị áp lực nước vỗ mạnh suýt chút nữa thì ngất đi, nhưng cũng cố chịu đau bơi vào bờ.

Sau khi lên bờ, Tứ Bá đầu, Ngũ Bá đầu dìu anh ta rồi nhanh chóng biến mất vào màn đêm. Ba người thất thểu đi chừng bốn năm chục dặm thì trời hừng sáng. Phía trước có một thôn trang, đầu thôn có một cái sân phơi lúa, xung quanh có rất nhiều rơm rạ. Ba người tìm một đống rơm to khuất gió, chui vào đó ngồi co cụm cạnh nhau để giữ ấm.

Tam Bá đầu nới đai lưng quần, ngó thấy cả phần hạ bộ sưng tướng lên.

Ngũ Bá đầu thấy vậy hỏi: “Tam ca, đau không?”

Tam Bá đầu hỏi lại: “Thế cậu nghĩ có đau không?”

“Đau...”

“Mẹ kiếp nhà ngươi! Nếu không phải ông đây ra tay cứu thì ngươi đã bị đạn pháo nổ banh xác trên đảo từ lâu rồi! Đâu còn ngồi đầy mà châm với chọc!” Tam Bá đầu mắng.

Tứ Bá đầu cũng không nhịn được cười: “Tam ca bớt giận, Đông y nói: âm nang thông với tam tiêu*, lúc này chớ nên tức giận, kẻo sẽ càng sưng to đấy!”

“Ồ, thật thế sao...” Tam Bá đầu lập tức hạ hỏa.

“Hí...” Tứ Bá đầu cuối cùng cũng không nhịn được, bật cười thành tiếng.

“Mẹ kiếp, nhà ngươi cũng trêu ông à!” Tam Bá đầu chưng hửng, ngoác miệng ra chửi.

“Tam ca bớt giận... Chúng ta phải làm gì tiếp bây giờ?” Tứ Bá đầu lo lắng hỏi.

Tam Bá đầu ngước mắt nhìn ra xa, ngoài kia là một màn sương mờ mờ ảo ảo: “Ôi... Tình cảnh thế này không biết khi nào mới ngóc đầu lên được, cứ tạm tìm nơi lánh nạn đi đã.”

“Chi bằng quay lại Thượng Hải, tìm một nơi kín đáo ẩn nấp, đợi Tổ Gia gọi tập hợp?” Tứ Bá đầu nói với giọng đầy thương cảm.

“Hầy... còn không biết Tổ Gia...” Nói đến đây, Tam Bá đầu kịp kìm lại nửa vế sau có ý bất kính.

“Đúng vậy,” Ngũ Bá đầu trầm giọng, “khi đó rắn độc có ở khắp nơi, đạn pháo bay vèo vèo trên đầu, nếu không nhanh chân thì anh em ta đã thành thịt băm từ lâu rồi! Cũng không biết Tổ Gia và các anh em khác thế nào.

“Hoàng Pháp Dung cũng không biết ra sao...” Tứ Bá đầu bỗng dấy lên một niềm thương cảm. Lúc này đây anh ta mới cảm thấy hổ thẹn, cưới Hoàng Pháp Dung đã mấy năm rồi, nhưng chưa bao giờ thực sự yêu thương cô, chưa bao giờ hoàn thành trách nhiệm của người làm chồng, nay chỉ e... đã quá muộn rồi.

“Tam ca, chúng ta quay vào thành đi, có lẽ mấy hôm nữa Tổ Gia sẽ phát ám hiệu...” Tứ Bá đầu miệng thì nói vậy, nhưng trong lòng đang nghĩ đến Hoàng Pháp Dung nhiều hơn.

Tam Bá đầu khẽ thở dài, nói: “Lão Tứ, cậu hiểu đại ca ta mà, ta vốn là tên lưu manh lừa đảo trên phố, may Tổ Gia không ghét bỏ, kết nạp vào phái Giang Tướng, khi đó mới có được cơ hội thi triển quyền cước. Không ai nhớ Tổ Gia bằng ta, nhưng... với tình cảnh của ta hiện nay, đi không được, chạy cũng không xong. Bọn Nhật ăn một vố lớn như vậy, chắc chắn sẽ sục sạo truy lùng gắt gao trong thành, ngộ nhỡ bị bọn chúng phát hiện thì có chạy cũng chẳng thoát! Đến lúc đó sẽ liên lụy đến hai người!”

Ngũ Bá đầu hiểu ẩn ý trong lời Tam Bá đầu, hắng giọng nói: “Tam ca nói chí phải. Chúng ta hãy cứ cách xa Thượng Hải một chút, mà càng xa càng tốt, đợi Tam ca khỏe lại thì quay về tìm Tổ Gia và các anh em.”

Tứ Bá đầu thông minh là vậy, nhưng lúc này trong đầu chỉ có mỗi Hoàng Pháp Dung, hoàn toàn không ý thức đến vấn đề “tẩu phong”.

“Thôi được, nghe theo Tam ca vậy.” Tứ Bá đầu gật đầu nói.

Khi trời sáng, ba người vào trong thôn thuê một chiếc xe bò, đi xuống phía nam, xuôi thẳng Phúc Kiến.

Sau này, ba người tìm được một vị thầy lang, khám cho Tam Bá đầu. Thầy lang kê đơn bôi ngoài, Tam Bá đầu hằng ngày dùng khăn nóng chườm hạ bộ, sau đó bôi thuốc cao lên. Chừng một tuần sau, vết thương đã bớt sưng, cũng không còn đau nữa, nhưng thay vào đó là ngứa ngáy khó chịu. Mà ngứa còn khổ hơn cả đau, Tam Bá đầu chỉ biết nắm chặt tay, nghiến răng chịu đựng.

Một tháng sau, Tứ Bá đầu sốt ruột hỏi: “Tam ca khỏi rồi chứ, vậy chúng ta trở lại Thượng Hải thôi?”

“Ừ, để ta thử xem.” Nói rồi, Tam Bá đầu bước đi bước lại vài bước, “vẫn chưa ổn, còn hơi đau một chút...”

Tam Bá đầu đang đợi, đợi âm mưu của hắn trở thành hiện thực. Nếu thêm mấy tháng nữa mà không có động tĩnh gì thì có lẽ Tổ Gia đã đi đời, mọi việc tiếp theo sẽ dễ xử lý rồi. Vì việc này hắn ta cũng phải trả một cái giá không nhỏ: phải giả vờ đau, đau thì không thể chơi gái, nếu không sẽ bị lòi đuôi. Thế nên mỗi khi đêm xuống hắn đều tưởng tượng ra cảnh chơi gái trước đây, sau đó một mình chìm đắm trong cõi thần tiên. Hôm sau, vẫn hỉ hả đi lại, miệng thì rên rỉ kêu đau.

Tứ Bá đầu rốt cuộc không thể kiên nhẫn được nữa: “Nếu không... nếu không thì tôi quay về Thượng Hải trước xem tình hình thế nào, các anh hãy đợi tin của tôi.”

Ngũ Bá đầu vội nói: “Tứ ca, ‘trích biểu bất phách kiên’, đây là luật giang hồ. Nay Tam ca bị thương, là anh em sao có thể bỏ mặc mà đi như vậy?” Trong lúc cuống Ngũ Bá đầu dùng cả tiếng lóng trong giới: “Biểu” nghĩa là cái đầu; “Trích biểu” tức là mất đầu, ý nói kẻ trong giang hồ phải trọng nghĩa khí, dù rơi đầu (chết) cũng không phản bội anh em.

Tứ Bá đầu nhìn hai người họ, lặng im không nói. Trong thoáng chốc, Tứ Bá đầu cuối cùng cũng hiểu ra, hai người họ một tung một hứng, dường như muốn “tẩu phong”, nếu cứ tranh cãi, e rằng sẽ xảy ra chuyện. Trước mặt Tổ Gia không kẻ nào dám to gan làm càn, nay Tổ Gia không có ở đây, có khác nào quần long vô thủ, như quân không tướng, mặt khác đám bá đầu còn lại đều là những kẻ bụng dạ nham hiểm, Tứ Bá đầu không dám nghĩ tiếp nữa, đành gật đầu nói: “Ngũ đệ nói rất đúng, ta nghĩ thông rồi, Tổ Gia hiện không có ở đây, Tam ca chính là... đại ca, ta nghe theo Tam ca.

“Chà!... Như vậy mới đúng chứ! Tổ Gia luôn dạy chúng ta phải có phép tắc. Tứ đệ, ta quý đệ nhất đó! Nếu như... ta nói ví dụ thôi nhé, nếu em dâu có mệnh hệ gì... đệ yên tâm, Tam ca ta hứa sẽ tìm cho đệ một cô nương tốt hơn!” Tam Bá đầu vênh váo nói.

Tứ Bá đầu vô cùng buồn bã, anh ta bỗng cảm thấy cô độc và sợ hãi, anh em đang thân thiết nay bỗng trở nên xa lạ, lời nói ý tứ nghe vô cùng chói tai, nhưng miệng lại nói: “Cảm ơn Tam ca.”

“Nay, địa bàn của chúng ta còn lại không nhiều. Anh em dù sao vẫn phải tiếp tục sống. Vì Tổ Gia, vì phái Giang Tướng, ta thấy...”, nói đến đây, Tam Bá đầu ngước lên nhìn Ngũ Bá đầu một cái, “ta thấy chi bằng ngày mai chúng ta hành nghề trở lại...” Nói đến đó, Tam Bá đầu lại nhìn Tứ Bá đầu, “nhưng... như vậy có bị coi là ‘tẩu phong’ không nhỉ?”

Tứ Bá đầu nhịn đến đỗi mặt đỏ lựng lên, không nói gì. Ngũ Bá đầu hỏi anh ta: “Tứ ca, anh nói gì đi chứ!”

Tứ Bá đầu vẫn lặng im không nói.

Ngũ Bá đầu ngẩng lên nói: “Lão ngũ ta vào nghề muộn, nếu nói câu gì thất thố, xin hai vị đại ca hãy cứ mắng mỏ chỉ bảo nhé. Cái gọi là ‘tẩu phong’ là khi Đại sư bá vẫn còn mà vẫn cố tình hành nghề ở nơi khác, cố ý phá hoại tông pháp của phái Giang Tướng, đó là đại nghịch bất đạo, tội đáng phải chết, nhưng... tình hình hiện nay không như vậy, chúng ta dù sao cũng phải sống, sống để mà đi tìm Tổ Gia, vì thế đây không được coi là ‘tẩu phong’! Sau này Tổ Gia có biết, chắc cũng sẽ thông cảm cho chúng ta!”

“Ừ, Ngũ đệ nói rất phải. Ý lão Tứ thế nào?” Tam Bá đầu chuyển để tài, chằm chằm nhìn Tứ Bá đầu.

Tứ Bá đầu lòng đau như cắt, mãi sau mới rụt rè lên tiếng: “Ta... thấy... rất có lý.”

Tam Bá đầu tươi cười: “Ây dà, đành theo ý hai người anh em vậy! Làm đại ca thật khó, chao ôi!...” Nói gần nói xa, cứ như mình là chưởng môn nhân vậy.

Và thế là ba người đánh trống phất cờ, hành nghề ở Phúc Kiến.

Sau tết âm lịch, Tứ Bá đầu vẫn ngày ngày nhớ đến Hoàng Pháp Dung và Tổ Gia, muốn tìm cơ hội để bỏ trốn. Nhưng Ngũ Bá đầu để mắt đến anh ta rất kỹ, một bước không rời.

Thế nhưng ông trời có mắt, vào thời khắc quan trọng thì Giang Phi Yến xuất hiện. Sau khi Tổ Gia ngụ lại ngoại ô Thượng Hải, tết đến, ông gửi cho Giang Phi Yến một bức thư. Lúc này Giang Phi Yến mới biết tung tích của Tổ Gia. Giang Phi Yến - vị Đại sư bá một lòng tương tư, vừa yêu, vừa thương, vừa hận Tổ Gia liền vội vàng ăn tết, sắp xếp xong xuôi công việc của Đường khẩu rồi lập tức đi Thượng Hải.

Trên đường qua Phúc Kiến, bà bỗng gặp bọn Tam Bá đầu đang mở sạp hành nghề trên phố. Giang Phi Yến ngỡ mình bị hoa mắt, nếu không có Tứ Bá đầu vội chạy lại gọi một tiếng “mẹ nuôi , bà vẫn không dám tin vào mắt mình.

Sau tiếng “mẹ nuôi”, Tứ Bá đầu nước mắt như mưa, bao nhiêu tức tưởi trào dâng trong lòng. Và cũng chính tiếng gọi “mẹ nuôi” đã phá tan giấc mộng xuân thu của Tam Bá đầu và Ngũ Bá đầu.

Nay gặp được Tổ Gia rồi, Tam Bá đầu dù cố che giấu toan tính của mình trước đó, tìm nhiều lời hay ho mà báo cáo với Tổ Gia, nhưng Tổ Gia là người thông minh, kể từ giờ khắc đó ông luôn đề phòng Tam Bá đầu.

Nhưng bên ngoài, Tổ Gia vẫn ung dung như thường. Đây mới chính là Tổ Gia, ông luôn thận trọng tỉ mỉ, tuyệt đối không vì tiểu tiết mà ảnh hưởng đến đại cục, khi ai đó vẫn còn hữu dụng, ông sẽ không đả động đến. Đó cũng chính là lý do vì sao sau khi Tứ Bá đầu đem toàn bộ chân tướng sự việc nói cho Tổ Gia biết, Tổ Gia lại nói: Tự Triêm, hai đảng Quốc - Cộng vẫn có thể hợp tác kháng Nhật, lời của ta ngươi có hiểu không?” Tứ Bá đầu dằn lòng, gật gật đầu.

Đêm về, Tứ Bá đầu nghẹn ngào ôm chặt lấy Hoàng Pháp Dung: “Pháp Dung, ta không thể không có nàng, ta không thể sống thiếu nàng được...”, rồi nước mắt cứ thế dâng tràn trên khoé mắt.

“Ta sai rồi, ta sai rồi, mấy năm nay đã để nàng phải chịu ấm ức thiệt thòi...” Tứ Bá đầu vừa khóc vừa nói.

Nỗi bi ai lớn nhất trong đời người chính là khi một người đã tỉnh ngộ, nhưng người kia thì đã thay lòng.

Nước mắt Hoàng Pháp Dung cũng lặng lẽ tuôn rơi, hồi lâu sau mới khẽ khàng nói: Tự Triêm... có lẽ, chúng ta quả thật không hợp...

Nghe câu nói này, Tứ Bá đầu càng khóc to hơn: “Pháp Dung, ta sai rồi, ta sai rồi! Nàng đánh ta đi, mắng ta đi!”

Lúc này ở một căn phòng khác, có một người phụ nữ cũng đang khóc.

“Tổ Gia, mọi việc cũng xong xuôi rồi, điều cần làm chúng ta đều đã làm rồi. Ông có biết mấy tháng nay Phi Yến sống thế nào không? Mỗi ngày tôi đều đợi tin tức của ông, mỗi sáng việc đầu tiên tôi làm là đọc báo, hằng ngày đều cầu nguyện Bồ Tát. Tổ Gia, ông thấy mệt chưa? Tôi thì quá mệt mỏi rồi, chúng ta bỏ đi thôi...” Giang Phi Yến nghẹn ngào nói.

Tổ Gia cúi đầu: “Yến tỷ, bà biết không? Không phải là ta không muốn đi, ta e rằng người Nhật sắp có động thái lớn.”

“Ôi! Tổ Gia ơi, việc của Trung Quốc ông chẳng thể quản nổi đâu. Chúng ta chỉ là phái Giang Tướng nhỏ bé, là muôn vạn sinh linh trên thế gian này, cuộc sống ngắn ngủi lắm, đến tính mạng của bản thân còn không thể tự quyết được, còn nói gì đến quốc gia đại sự đây?”

“Yến tỷ, Mai sư bá nói rất đúng, từ xưa đến nay phái Giang Tướng luôn hành động theo tôn chỉ phản Thanh phục Minh, nay Đại Thanh không còn nữa, chúng ta phản ai đây? Tổ sư gia Phương Chiếu Dư sáng lập phái Giang Tướng là để thay trời hành đạo, cướp của người giàu chia cho người nghèo, thời thế thay đổi nhưng tôn chỉ này không hề thay đổi. Nay quân Nhật tiến sát từng bước, Quốc dân Đảng sa vào nội chiến, bách tính khổ sở, nhân dân lầm than, liệu chúng ta có nhẫn tâm bỏ đi được không? Huống hồ các anh em đây tốt có xấu có, chưa biết chừng lại có kẻ nối giáo cho giặc? Chúng ta giống như con trâu già, đã đeo ách lên thì cả đời không thoát thân được...”

Câu nói vừa dứt cũng là lúc Giang Phi Yến nước mắt tuôn rơi, quả thực từ khi tiếp nhận Đường khẩu từ tay Kiều Ngũ Muội, nỗi khổ cực và mệt mỏi chỉ có mình bà biết. Mặc áo lông thú, ăn tổ yến, đeo vàng bạc, mặt hoa da phấn, những thứ đó không thể khỏa lấp được nỗi đau tự sâu trong lòng. Ngồi vào vị trí đó khác gì trâu đeo ách, đeo đến lúc chết cũng chẳng thể thoát ra nổi.

Tổ Gia lau nước mắt cho Giang Phi Yến, thở dài một tiếng, nói: “Yến tỷ, ta còn muốn làm một việc sẽ khiến bà đau lòng hơn...

Giang Phi Yến chớp chớp mắt: “Việc gì cơ?”

Tổ Gia trầm tư giây lát, chầm chậm nói: “Ta muốn trừ khử Pháp Dung!

“Hả?” Giang Phi Yến đứng bật dậy, kinh hãi nhìn Tổ Gia.

“Pháp Dung là một cô gái thông minh, hơn nữa còn thông minh thái quá, mà thông minh lại đi kèm với độc ác. Nếu cứ để như vậy, ta e rằng sắp có chuyện lớn xảy ra.”

“Căn cứ vào đâu mà Tổ Gia nói như vậy?” Giang Phi Yến thắc mắc.

Tổ Gia nhìn Giang Phi Yến, trầm giọng nói: “Cô nương ấy đã hại chết Bùi Cảnh Long.”

“Sao cơ? Ai nói vậy?” Giang Phi Yến không thể tin vào tai mình.

“Yến tỷ, việc sử dụng cổ trùng trên đảo Chu San, bà biết ta biết, các bá đầu đều biết. Chúng ta biết chắc người Nhật sẽ kiểm tra đồ dùng mang theo lên đảo, mà đại sư cổ độc Nhật cũng có mặt, chúng ta đâu thể theo cách thông thường mà đem bình lớn bình nhỏ cổ trùng lên đảo được, cuối cùng bất đắc dĩ phải mạo hiểm đưa vào người cổ trùng cái. Mỗi người trong chúng ta đều ngâm thuốc giải trong miệng, đợi thủy triều dâng lên, lúc rắn độc tràn vào thì cắn vỡ thuốc giải, như vậy rắn độc mang cổ trùng đực trong người sẽ không tấn công chúng ta. Nhưng Tam Bá đầu nói với ta rằng: anh ta tận mắt trông thấy Bùi Cảnh Long bị mấy chục con rắn tấn công, cuối cùng cũng đành bất lực không cứu được, tuyệt vọng nhảy xuống biển trốn đi. Cổ trùng và thuốc giải đều do một tay Pháp Dung lo liệu, khả năng duy nhất chính là... là Pháp Dung giở trò trong thuốc giải của Bùi Cảnh Long, nên anh ta mới không thoát ra được. Một đời anh tài... vậy mà lại chết một cách không rõ ràng như vậy.”

“Hả? Tại sao Pháp Dung lại làm như vậy?” Tròng mắt Giang Phi Yến như muốn lộn ra ngoài.

“Pháp Dung từ nhỏ phải chịu khổ, bị ức hiếp nên tâm đề phòng và lòng đố kỵ rất mạnh. Ta đồ rằng cô nương ấy sợ sau này ta thu nạp Bùi Cảnh Long sẽ trực tiếp đe dọa đến vị trí của cô ta và Tự Triêm. Yến tỷ, bà thử nghĩ mà xem, người bản lĩnh nhất Đông phái và Nam phái còn ai khác ngoài Pháp Dung? Cô ta có dã tâm rất lớn, sau này tuyệt đối không được thu nạp người có tài năng như vậy vào Đường khẩu, đó gọi là một núi không thể có hai hổ. Xưa quần hùng tam quốc tranh đoạt thiên hạ, Ngọa Long, Phượng Sồ* còn đố kỵ nhau, huống chi đời này? Do đó, cô ta mới bị quỷ ám đi tới bước đó...”

“Không phải vậy chứ?” Giang Phi Yến toát mồ hôi lạnh.

“Không đâu! Mấy tháng nay mỗi khi ta nhắc đến Bùi Cảnh Long, tinh thần của Pháp Dung có gì đó không ổn, đều cố lảng tránh chuyển đề tài. Còn nữa...”

“Còn điều gì nữa?”

Tổ Gia khẽ ngập ngừng: “Còn nữa, cô nương ấy và Tự Triêm không hàn gắn được nữa rồi, nếu cứ tiếp tục như vậy, e... e rằng gây hại đến thanh danh phái Giang Tướng.”

Giang Phi Yến lập tức hiểu ngầm trong bụng: “Trước đây Pháp Dung từng nói với mình, cô ấy đối với Tổ Gia..nghĩ vậy nhưng lại nói: “Ôi! Cái con bé này, thông minh quá hóa ra hại người, hại cả mình! Tổ Gia... xin ông giơ cao đánh khẽ, tha cho Pháp Dung được không?” Giang Phi Yến đã ý thức được tính nghiêm trọng của sự việc.

Tổ Gia than thở: “Ây dà! Chẳng phải ta không cho cô ấy cơ hội, đã năm lần bảy lượt ta nhắc cô ta rằng làm người đừng quá thông minh, nhưng rốt cuộc cô ta không nghe. Yến tỷ không phải không biết phép tắc của phái Giang Tướng: kẻ bàn nghị ngông cuồng sau lưng người kế tục Đường khẩu, kẻ làm loạn Đường khẩu đều phải tội chết, nay cô ta còn giết hại Bùi Cảnh Long. Bùi Cảnh Long trên còn mẹ già 60 tuổi, dưới có vợ dại con thơ, một đời quang minh lỗi lạc, hơn nữa còn là kỳ tài Dịch học. Vì đại nghĩa dân tộc nên mới kiên quyết cùng ta lên đảo. Có lẽ anh ta đã biết lần này lên đảo lành ít dữ nhiều, nên trước khi đi từng nói với ta rằng nếu có gặp bất trắc, mẹ già xin nhờ cả vào ta. Mạng của ai chẳng là mạng? Chẳng ai muốn chết cả, mạng của Pháp Dung là mạng, mạng của Bùi Cảnh Long cũng là mạng. Pháp Dung tất phải chết để an ủi vong linh Bùi lão đệ trên trời.”

“Tổ Gia!” Giang Phi Yến cuống cuồng, “Tổ Gia!”

“Yến tỷ không cần cầu xin cho cô ta nữa!” Nói rồi, Tổ Gia phẩy tay quay lưng đi vào phòng.

“Tổ Gia! Cô ấy là con gái tôi!” Giang Phi Yến gào lên, rồi đột nhiên buông một tiếng cười gằn.

“Ha ha, Tổ Gia thật rất biết suy tính, thì ra từ lâu ông đã muốn trừ khử Pháp Dung, nhưng lại án binh bất động, đợi sau vụ lập bẫy Chu San mới ra tay hành động, như vậy vừa có thể ổn định lòng người, lại có thể khiến Pháp Dung dốc sức mà không hề oán hận, nay vừa khéo Bùi Cảnh Long chết, Tổ Gia cuối cùng cũng tìm được cái cớ hoàn hảo!”

Tổ Gia sững người, muốn nói gì đó nhưng lại kịp nuốt xuống, cuối cùng lắc đầu cảm khái: “Nếu Yến tỷ nghĩ như vậy, ta cũng không còn gì để giải thích.”

Đêm đến, Giang Phi Yến càng nghĩ càng dằn vặt: “Không được, tuyệt đối không thể để Tổ Gia giết Pháp Dung được! Ba mươi sáu kế, chuồn là thượng sách!”

Bà lén gọi Ngọc Linh, a hoàn luôn theo sát bà, thì thầm dặn dò mấy câu, cô a hoàn đó lĩnh mệnh đi ngay.

Canh năm, Giang Phi Yến sốt ruột đứng đợi ở bến thuyền, trong đêm tối có hai bóng người vội vã chạy đến.

Từ xa, Hoàng Pháp Dung thấy Giang Phi Yến thì nhanh chân chạy lại, nhoẻn miệng cười, nói: “Mẹ nuôi, sao vậy? Chị Ngọc Linh nói rằng mẹ có chuyện muốn tâm sự, mà sao lại đến đây vậy?”

Giang Phi Yến chẳng nói chẳng rằng, vung tay giáng cho Pháp Dung một cái tát, nói: “Ngươi gây đại họa rồi!” Đoạn nước mắt tuôn rơi.

Hoàng Pháp Dung tóc tai lòa xòa trước trán, ngỡ ngàng hỏi: “Mẹ nuôi, có chuyện gì vậy?”

Giang Phi Yến trầm giọng nói: “Ta hỏi con, Bùi Cảnh Long có phải do con giết không?”

Hoàng Pháp Dung cắn môi, hồi lâu sau mới khẽ gật đầu.

“Con gái à, con thật ngu ngốc! Con đã phạm phải tội tày trời rồi đó biết không! Tổ Gia... muốn giết con!” Giang Phi Yến quệt nước mắt, quay lại nói với cô a hoàn, “Mau, đưa Pháp Dung lên thuyền! Trước tiên đến Quảng Châu, về Đường khẩu lấy ít ngân lượng rồi đưa cô ấy đi Nam Dương!”*

“Mẹ nuôi!” Hoàng Pháp Dung hoảng loạn thốt lên một tiếng rồi quỳ thụp xuống, nước mắt như mưa, “Mẹ nuôi!”

“Con gái của ta,” Giang Phi Yến ôm Pháp Dung vào lòng, “nghe ta nói đây, đời này con chớ nên quay về! Tuyệt đối không được quay về, Tổ Gia là người đã nói là làm! Hãy quên Trương Tự Triêm đi, và quên cả Tổ Gia đi!

“Mẹ,” Hoàng Pháp Dung vùi đầu vào lòng Giang Phi Yến, nước mắt ướt đẫm cả áo bà, “mẹ, con sợ, con không muốn đi...”

“Con gái ngoan, đi được là việc tốt, đi được là việc tốt! Hãy nghe lời mẹ, trước đây Ngũ bà bà* còn sống ta không để con đi, nay rốt cuộc có cơ hội rồi, mẹ nuôi không bỏ rơi con đâu, đến đó sẽ có người đón con. Nhớ kỹ, từ nay về sau con không còn là Hoàng Pháp Dung nữa, hãy thay tên đổi họ, cố gắng làm người, cố gắng làm người tốt con nhé!”

“Mẹ...” Hoàng Pháp Dung nước mắt giàn giụa, cố sức gào khóc, “con sai rồi, con đã sai rồi!”

“Đi mau! Bằng không sẽ không kịp đâu! Ngọc Linh, mau đưa cô ấy đi...”

Giang Phi Yến đột nhiên im bặt, bà phát hiện có bóng người đang lẩn khuất trong bóng tối, mang theo vẻ uy nghiêm và sát khí bừng bừng.

Giang Phi Yến bất giác toàn thân run bần bật, Hoàng Pháp Dung cũng ngưng khóc, cô cũng đã thấy Tổ Gia đang chầm chậm bước đến.

“Dừng lại!” Giang Phi Yến đột nhiên lớn tiếng, “Ông đứng lại!” Bà rút súng chĩa vào Tổ Gia.

Tổ Gia vẫn bước tới.

“Ông đứng lại cho tôi!” Giang Phi Yến gào thét trong bất lực, rồi lập tức dí súng lên đầu mình.

Tổ Gia sững lại.

Hoàng Pháp Dung hai chân mềm nhũn, quỳ mọp xuống đất, thì thào nức nở: “Tổ Gia, con sai rồi...”

Tổ Gia chầm chậm đưa súng lên, chĩa vào đầu Hoàng Pháp Dung. Không gian như đặc quánh lại, chỉ còn thấy tiếng nước chảy và tiếng tim đập thình thịch.

Ngón trỏ của Tổ Gia chầm chậm đặt lên cò súng, chỉ cần đoàng một tiếng, Hoàng Pháp Dung sẽ đi đời.

Giang Phi Yến tuyệt vọng nhìn Tổ Gia, nước mắt không ngừng tuôn rơi.

“Không đúng! Không đúng!” Vào thời khắc định mệnh, a hoàn Ngọc Linh nói, “Pháp Dung là con gái của Yến nương, cho dù có dụng gia pháp cũng phải do Đại sư bá của Việt Hải Đường thực thi mới phải, Tổ sư gia Phương Chiếu Dư đã có di huấn, Tứ đại Đường khẩu không được can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Tổ Gia ngài sai rồi, ngài đã sai rồi!”

Tổ Gia lại sững người.

Giang Phi Yến như vớ được cọc, nhanh chóng lấy lại tinh thần, lập tức trở lại phong thái uy nghi và minh mẫn của một vị Đại sư bá, bà đưa súng chĩa vào Hoàng Pháp Dung: “Được, ta thi hành gia pháp! Ta thi hành gia pháp đây!

Nói rồi lạnh lùng bóp cò súng, đoàng đoàng hai tiếng, Hoàng Pháp Dung đổ vật xuống.

Tổ Gia sững sờ không thốt nên lời, Ngọc Linh sợ hãi đến đỗi đưa hai tay lên bưng miệng, không dám thở mạnh.

“Tổ Gia, ông vừa ý rồi chứ?” vẻ phẫn uất ánh lên trong mắt Giang Phi Yến.

Tổ Gia im lặng không nói, quay người đi khuất vào trong bóng tối.

Một cơn gió lạnh ùa đến, Giang Phi Yến rùng mình một cái, bà đang rơi xuống tận cùng vực thẳm của tâm tư.

“Đưa nó lên thuyền, nếu mạng lớn phúc lớn thì có thể qua được đêm nay, sau khi lên bờ lập tức đưa đến bác sĩ, nếu nó chết, âu cũng là do số... Giang Phi Yến điềm tĩnh nói với Ngọc Linh.

Ngọc Linh thất thần kéo Hoàng Pháp Dung mình mẩy đầy máu lên thuyền. Người phu thuyền đã nhận mấy trăm pháp tệ liền ra sức chèo đi.

Giang Phi Yến trấn tĩnh trong giây lát, giơ khẩu súng lên, chĩa vào cánh tay nghiến răng bóp cò, máu rỉ thấm rồi tuôn ra xối xả, sau đó chĩa súng lên trời bắn hết số đạn. Tiếng súng xé toang màn đêm tĩnh mịch, tiếng chó sủa gà kêu râm ran cả một vùng.

Giang Phi Yến chạy thục mạng về chỗ ở của Tổ Gia, vào đến cửa liền kêu to: “Hỏng rồi, không xong rồi, người Nhật đang đuổi đến đây!” Tiếng kêu khiến mọi người choàng tỉnh, vội vàng mặc quần áo rồi chạy túa ra sân.

Tổ Gia nhìn Giang Phi Yến rồi nói với mọi người: “Mau tản đi!”

Ai nấy đều vội vã tản theo các ngõ hẻm, chạy một mạch không ngoảnh lại.

Trời tờ mờ sáng, trước mặt hiện ra một thôn trang, Tổ Gia bèn dừng lại.

“Pháp Dung đâu?” Tứ Bá đầu đột nhiên hỏi.

Giang Phi Yến thở dốc nói: “Pháp Dung và Ngọc Linh chặn hậu, ta chạy về báo tin. Đợi một chút, đoán chừng họ cũng sắp tới rồi...”

Một canh giờ, hai canh giờ qua đi...

Một tháng, rồi hai tháng trôi đi... xuân qua hạ tới.

“Pháp Dung đâu?” Tứ Bá đầu vẫn ngẩn ngơ trong lòng, “Pháp Dung đâu rồi?”

Sống không thấy người, chết không thấy xác, Hoàng Pháp Dung và Ngọc Linh “mất tích” theo cách như vậy.

Nửa năm sau, Giang Phi Yến cuối cùng cũng hiểu ra. Một đêm, bà lặng lẽ đến gặp Tổ Gia, nói: “Việc của Pháp Dung, xin cảm ơn ông.”

Tổ Gia mặt không chút biểu cảm: “Người chết thì đã chết rồi, đừng nhắc đến nữa.”

Đêm đó Tổ Gia biết Giang Phi Yến có lẽ không bắn trúng chỗ hiểm của Hoàng Pháp Dung, ông không kiểm tra thi thể, cũng không bồi thêm phát nào nữa. Kỳ thực, lúc đó ông cũng do dự, ông chỉ là không còn cách nào khác để an ủi vong linh Bùi Cảnh Long trên trời. Ông nhận thấy tội ác không chỉ là Hoàng Pháp Dung, mà còn là bản thân ông, và cả phái Giang Tướng nữa. Dưới lá cờ thay trời hành đạo, là điều gì đã khiến mỗi người đều trở nên độc ác như vậy? Nếu một phường giá áo túi cơm mất hết nhân tính cùng nhau thay trời hành đạo, “đạo” của họ chính là quỷ đạo, sau khi hút hết máu thịt của nhân gian, tất sẽ quay sang ăn thịt lẫn nhau. Lòng Tổ Gia mênh mang mờ mịt, ông không dám nghĩ tiếp nữa.

Hoàng Pháp Dung “mất tích”, người đau khổ nhất chính là Tứ Bá đầu, anh ta vừa mới tỉnh ngộ và thề nguyện yêu thương Hoàng Pháp Dung trọn đời, giờ đã trở thành dở ngây dở dại.

Ngày 7 tháng 7 năm 1937, Nhật Bản phát động cuộc xâm lược toàn diện Trung Quốc.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3