Tôi Là Thầy Tướng Số - Quyển 3 - Chương 3

CHƯƠNG 3

MƯỢN DANH ĐUỔI XÁC, THỰC HIỆN ÂM MƯU

BẢN ĐỒ QUÂN SỰ TRONG KHÁCH ĐIẾM ĐUỔI XÁC

Đoàn Tổ Gia dừng chân tại một nơi tiếp giáp giữa Hồ Bắc và Hồ Nam.

Đêm xuống, Tổ Gia triệu tập toàn thể Đường hội, khen ngợi các bá đầu trong vụ lập bẫy trên đảo Chu San, đám tay chân lúc này mới được biết rốt cuộc sự việc là như thế nào.

Sau cuộc họp, Tổ Gia lặng lẽ quay về phòng. Ngồi trên chiếc ghế lạnh lẽo, lòng ông trở nên trống rỗng, bóng dáng Hoàng Pháp Dung lại bắt đầu chập chờn trước mắt, ông đã quen với những ngày tháng có cô nương ấy bên cạnh, khi thói quen trở thành điều không thể thiếu, mà cái sự không thể thiếu đó bỗng nhiên biến mất thì thật khiến người ta đau lòng.

Hoàng Pháp Dung cũng là do một tay ông dẫn dắt vào Mộc Tử Liên, bốn năm qua, đứa nha đầu ấy hết lòng phụ tá cho ông, chăm sóc cho ông. Lớn thì vạch mưu tính kế, nhỏ thì rót nước bưng trà, ánh mắt thông minh lanh lợi, ăn nói chỉn chu, dáng người uyển chuyển linh hoạt, tất cả đều in sâu vào tâm trí ông. Nay người đã ra đi, còn có ai hiểu được lòng ông đây?

Ông không biết Hoàng Pháp Dung ở Nam Dương thế nào, không biết nha đầu cô độc lẻ loi đó phải chăng vẫn còn đau khổ, vẫn đang dằn vặt hận bản thân, ông chỉ hy vọng cô nương ấy có thể đi trên con đường chân chính, sống những ngày tháng yên bình.

Những dòng suy nghĩ đang miên man miên man, bỗng ông thấy có tiếng động trên mái nhà, liền nhanh nhẹn thổi tắt nến, lắng tai nghe ngóng.

Lúc này nghe thấy tiếng quát của Tiểu Lục Tử trong sân: “Chạy đi đâu!”

Tổ Gia lao ra sân, mấy bá đầu cũng chạy lại. Trong đêm tối thấy một bóng người phi như bay trên mái nhà, chân đạp lên sống mái nhẹ nhàng như chạy trên mặt đất vậy.

Tiểu Lục Tử lập tức đuổi theo, hai chân đạp lên tường, bật mạnh lên cao, chớp mắt bay lên mái nhà, quát to một tiếng: “Đứng lại!”

Kẻ trước người sau đuổi nhau quyết liệt. Đại Bá đầu và Nhị Bá đầu cũng xách dao phay, cuốc chim vây chặn bên dưới.

Người này khinh công rất tốt, giống như một con én bay lượn trên mái nhà, Tiểu Lục Tử đuổi theo sát nút. Tới đoạn mái cong hắn bỗng trượt chân, bất đắc dĩ phải lộn mèo một cái nhảy xuống hoa viên.

Tiểu Lục Tử cũng lập tức phi thân xuống, hai người nhanh như chớp lao vào giáp lá cà.

Người này khinh công tốt nhưng võ công lại kém, Tiểu Lục Tử giở “Tông Hạc quyền” đánh cho hắn không kịp trả đòn. Sau đó Đại Bá đầu và Nhị Bá đầu cũng xáp đến bao vây, chẳng mấy chốc đã tóm gọn hắn.

Trong sân, người này bị trói cánh sẻ.

Tiểu Lục Tử lầu bầu mắng chửi: “Dám ăn trộm đồ của ông à!” Hóa ra hắn đang từ lối cửa sổ chui vào phòng ăn trộm thì bị Tiểu Lục Tử phát hiện.

Dưới ánh đèn, Tổ Gia mới thấy rõ đó là một tên tiểu tử chừng mười bảy, mười tám tuổi.

Tổ Gia lạnh lùng hỏi: “Ngươi ở đâu đến?”

Hắn quay đầu sang một bên, không nói.

“Mẹ mày chứ!” Đại Bá đầu tay lăm lăm dao phay xông lên trước, giơ con dao sáng loáng trước mặt hắn, “Ông băm chết mày!”

Hắn ta cười nhạt, chẳng hề nhúc nhích.

“Để tao! Cứng đầu à!” Nhị Bá đầu túm tóc hăm dọa.

“Khoan!” Tổ Gia quát một tiếng rồi hỏi hắn, “Người anh em, cậu ở môn phái nào vậy?”

Hắn ta mỉm cười, nói: “Ta không phải là đồng đạo với các ông.”

Tổ Gia cũng mỉm cười, rồi ra lệnh: “Lục soát xem sao!”

Nhị Bá đầu vâng lệnh tiến tới. Vừa nghe đến từ lục soát thì hắn cuống lên: “Các ngươi dám! Ngươi dám động vào người ta, cẩn thân cái mạng của ngươi!”

Tổ Gia làm bộ vui mừng, nói: “Khẩu khí to gớm, lục soát!”

Nhị Bá đầu lần mò một hồi, rồi rút dao găm rạch tan ngực áo của hắn, lấy ra một cái túi khá dày.

“Cái gì đây? Là tiền sao?” Nhị Bá đầu cười ha hả nói, “Nhiều tiền quá, trong này phải đến mấy vạn đồng!”

Thấy Nhị Bá đầu lấy chiếc túi, hắn ta cuống quýt, mồ hôi vã đầy trên mặt: “Đám điêu dân các ngươi, động vào những thứ đó là mất đầu đấy! Lúc đó đừng có mà hối hận!”

Tổ Gia nghe vậy biết là có gì đó quan trọng, liền với lấy cái túi trên tay Nhị Bá đầu, lắc qua lắc lại, nói: “Ngươi còn không nói ngươi là ai, ta sẽ đốt những thứ này!” Nói rồi liền với cây đèn, dọa đốt.

“Chớ, chớ, chớ! Mất đầu đấy! Mất đầu đấy!” Hắn ta hoảng sợ hét lên.

“Vẫn không chịu khai?” Tổ Gia lại hỏi.

Hắn ta ngẩng đầu lên, giọng hậm hực: “Được rồi, được rồi... Hôm nay kể như rơi vào tay đám thổ phỉ các ngươi, ta đây đi không thay tên, ngồi không đổi họ, người trong giang hồ gọi ta là Tái Hoạt Hầu - Phàn Nhất Phi ở Hà Nam!”

Cái tên này khiến tất cả mọi người đều kinh ngạc! “Tái Hoạt Hầu” là cao thủ trộm cắp ở Trung Nguyên, từng đột nhập vào tận phủ đệ của Đới Lạp ăn trộm 50 lạng vàng và hai chiếc đồng hồ quả quýt, trước khi đi còn để lại mẩu giấy, viết rằng: “Hà Nam Tái Hoạt Hầu đã đến đây chơi”. Vụ này khi đó gây chấn động rất lớn.

Tổ Gia vội vàng bước đến: “Thật sao?”

Phàn Nhất Phi gật đầu: “Nếu không phải ta đã chạy liên tục bốn ngày bốn đêm, thì các ngươi có thể bắt được ta sao?”

“Bên trong đựng cái gì vậy?” Tổ Gia lắc lắc cái túi.

“Ta nói rồi các người có thả ta đi không?” Phàn Nhất Phi hỏi lại.

“Nói xong ngươi có thể đi, không nói thì đừng mơ thoát khỏi đây, hãy tự quyết định đi.” Tổ Gia nói.

Phàn Nhất Phi thở dài một tiếng, không còn cách nào khác, đành nói: “Sơ đồ!”

“Sơ đồ gì?”

“Các ngươi tự xem đi.”

Tổ Gia đưa chiếc túi cho Đại Bá đầu, Đại Bá đầu dùng dao rạch, một sấp giấy dày lộ ra.

Tổ Gia giở những sơ đồ này ra, thận trọng xem xét, trên đó phác thảo núi, sông, thôn trang, mỗi địa điểm đều có tọa độ chính xác.

“Cái gì đây?” Tổ Gia hỏi.

“Bản đồ.” Phàn Nhất Phi nói.

“Ta biết là bản đồ, nhưng dùng để làm gì?”

“Ôi trời, đúng là thổ phỉ, cái gì cũng không hiểu!” Phàn Nhất Phi nhìn Tổ Gia với vẻ khinh thường.

“Ừ”, Tổ Gia lạnh lùng nhìn Phàn Nhất Phi, “gan dạ đấy!” Rồi quay sang gọi: “Lão ngũ, đến đây xem đi.”

Ngũ Bá đầu Trương Kỳ Lĩnh được mệnh danh là bản đồ sống, bất kỳ dãy núi, thành thị, sông ngòi nào anh ta cũng có thể họa lại được.

Ngũ Bá đầu đón lấy tấm bản đồ rồi xem xét cẩn thận: “Tổ Gia, đây là bản đồ Lưỡng Hồ. Hãy xem, đây là Hồ Bắc, đây là Hồ Nam, đây là Hằng Sơn, Nhạc Lộc Sơn, còn đây là Hồ Bình Sơn ở giữa Hồ Nam và Hồ Bắc...”

Phàn Nhất Phi nghe thấy vậy, mặt tái như chàm đổ.

Tổ Gia chậm rãi đến trước mặt Phàn Nhất Phi, gằn giọng nói: “Bản đồ này từ đâu mà có, dùng để làm gì?” Giọng ông tuy không to, nhưng lại đầy uy lực.

“Hừ...”

“Nói!” Tổ Gia gầm lên một tiếng, cả không gian rúng động.

“Là của Hội Tề, bản đồ này được vẽ dựa vào ảnh chụp từ máy bay của người Nhật sau khi đã thăm dò khảo sát...” Phàn Nhất Phi lập cập nói.

“Hội Tề? Ảnh chụp từ máy bay?” Tổ Gia không hiểu.

“Tại Hà Nam quê tôi, người Nhật lập ra cái gọi là Hội Tề...”

Nói chưa hết câu, thì bên ngoài vẳng lại một hồi chuông lúc rõ lúc không. Tiếp theo là mấy tiếng trống vang lên, tinh tinh tinh, tùng tùng tùng... những âm thanh u uẩn này xen lẫn cùng tiếng gió lạnh lẽo, vọng đến xóm núi này.

“Đuổi xác!” Tổ Gia thân vốn trải trăm trận, lập tức đoán biết ngay đây là âm thanh của chuông gọi hồn và trống cúng tế, “Tạm tống tên tiểu tử này vào phòng đã.”

Đại Bá đầu và Nhị Bá đầu tiến đến nhét giẻ vào miệng Phàn Nhất Phi, rồi tống vào trong phòng.

Mọi người thổi tắt đèn, ghé mắt nhìn qua khe cửa. Dưới ánh trăng tà, một đội đuổi xác đang chầm chậm đi đến, có chừng mười mấy “tử thi” nhấp nha nhấp nhô, lẩn theo đường nhỏ quanh co khúc khuỷu mà đến. Đi đầu là một tên đạo sĩ, vừa lắc chuông vừa rải tiền vàng, đi cuối là một người gõ trống. Hai người một trước một sau, kẹp mười mấy cái xác ở giữa và điều khiển bước đi của chúng. Những cái xác này đều mặc áo liệm, trên trán dán một lá bùa an hồn, miệng ngậm chu sa.

Quan sát một hồi, Nhị Bá đầu phát hiện ra điều bất thường: “Không phải chứ! Dưới lớp áo liệm trống rỗng, chỉ có hai chân nhún nhún trên mặt đất, cũng tức là... thứ cõng trên lưng đó không phải xác chết, lẽ nào bọn chúng cũng chỉ chặt lấy mỗi cái đầu?” Nhị Bá đầu nhớ lại chuyến đuổi xác trước đây của mình.

Tổ Gia cũng phát hiện ra điều bất thường này: “Ừ, đó không phải xác chết, vậy chắc chắn là...”

“Tiền hoặc thuốc phiện.” Tam Bá đầu xen vào.

“Ừ.” Tổ Gia gật đầu.

“Thầy, ra tay không?” Nhị Bá đầu ngoảnh lại nhìn Tổ Gia, chờ quyết định của ông.

Tổ Gia im lặng không nói.

“Thầy, ra tay thôi!” Tam Bá đầu nói tiếp, “Tiền và thuốc phiện không phải là thứ mà người thường có thể chơi được, đây nếu không phải của bọn Quốc dân Đảng thì ắt là của bọn thổ phỉ, chúng ta đoạt lấy, chẳng có gì là không chính đáng cả!”

“Đúng đó thầy,” Ngũ Bá đầu cũng lên tiếng, “Từ khi chạy khỏi Thượng Hải... địa bàn của chúng ta chẳng còn lại bao nhiêu...”

Tổ Gia gật đầu: “Bám theo chúng, đến khách điếm đuổi xác rồi hãy động thủ.”

Từ xưa ở Hồ Nam đã rất thịnh hành tục đuổi xác, từ đây sinh ra một nghề, đó là dịch vụ khách điếm đuổi xác. Tục đuổi xác chỉ được thực hiện vào đêm tối, bởi thi thể kỵ ánh sáng, một khi gặp ánh mặt trời thì hồn phách tiêu tán, mà hồn phách bay mất rồi thì thi thể biến thành tử thi theo đúng nghĩa, không thể đứng lên được nữa. Do đó tục đuổi xác phải được thực hiện trong đêm, khi trời sáng phải nhanh chóng đưa vào khách điếm, được đặt trong phòng không có cửa sổ, niệm thần chú, rồi cho thi thể nằm xuống, đợi sau khi mặt trời lặn sẽ tiếp tục đọc thần chú, rồi lại lên đường. Khách điếm này thường ở rất xa khu dân cư, không bao giờ đón khách, mà cũng chẳng ai dám đến đó mà nghỉ trọ cả.

Sở dĩ Tổ Gia đợi đến khi vào khách điếm mới ra tay là bởi ông không muốn làm kinh động đến dân chúng quanh đó, càng không muốn để đám thổ phỉ trong núi biết.

Tổ Gia bàn bạc với các bá đầu một hồi, sau đó mọi người chia ra hành động.

Chừng nửa canh giờ sau, đoàn đuổi xác cuối cùng cũng dừng chân tại một khách điếm. Tên cầm đầu gõ cửa nhè nhẹ, ông chủ khách điếm xách “đèn ma” đi ra. Đèn ma không giống đèn lồng mọi người hay dùng, đèn lồng được đan bằng nan tre, dùng giấy đỏ hoặc giấy mỏng bồi lên; còn đèn ma được làm từ rễ loại cỏ bạch mao mọc trên những ngôi mộ, loại cỏ này có rễ chùm, có thể ăn sâu vào đất đến mấy thước, xuyên cả vào quan tài. Giấy bồi dùng cho loại đèn này cũng là loại giấy trắng dùng trong tang lễ, toàn bộ phần lồng đều là màu trắng, trong bóng tối loại đèn này phát ra thứ ánh sáng vô cùng nhức mắt.

Tên đó thì thào với ông chủ mấy câu, sau đó đưa “tử thi” vào khách điếm.

Căn phòng đặt tử thi rất rộng, nền trải đầy rơm rạ, sau khi đưa tử thi vào rồi, thì lần lượt đặt tử thi nằm xuống thành một hàng. Sau đó hai tên thầy đuổi xác khóa cửa lại, tiếp tục đi theo ông chủ.

Lúc này trăng đã vằng vặc, sao mai càng lúc càng lấp lánh. Nhị Bá đầu tranh thủ bóng đêm cuối cùng trước khi trời sáng, rón rén đến nơi đặt xác chết, bắt đầu hành động...

Trong phòng, mười mấy “thi thể” như trút được sự mệt mỏi mà ngủ rất say.

Một lúc lâu sau, đột nhiên một “thi thể” ngồi bật dậy chép chép miệng, sau đó cúi người, chụm miệng thổi liên tục vào mặt “thi thể” nằm bên cạnh.

“Thi thể” kia bị thổi mãi rồi cũng phải tỉnh dậy, mở choàng mắt, kêu to một tiếng: “Ngươi làm cái gì vậy?”

Hai “thi thể” đối mặt nhìn nhau, trên trán đều dán lá bùa, khóe miệng rỉ ra dòng chu sa đỏ tươi. “Thi thể” nằm dưới kêu lên cũng khiến “thi thể” bên trên giật mình: “Gào gì thế, gào mẹ mày à!”

“Thi thể” nằm dưới thoạt nghe khẩu âm lạ, lập tức ngồi bật dậy: “Ngươi là ai?”

“Tao là một cái xác đi rong chơi, không về được nhà nên đi theo các ngươi!”

“Thi thể” đó thấy vậy liền la lên: “Mau dậy cả đi, có kẻ trà trộn! Có kẻ trà trộn!”

Cả đám “thi thể” bật ngồi hết dậy, chớp mắt nhìn nhau: “Ở đâu? Ở đâu?”

Tất cả đều được hóa trang, nhìn vào nhất loạt giống nhau, chẳng thể nhận được ra ai là kẻ trà trộn.

“Hắn!” Tên thi thể kêu lên vừa rồi, chỉ vào một tên khác nói.

Tên “thi thể” bị chỉ điểm không biết làm sao, lắc lắc đầu, tỏ ý mình không phải là kẻ trà trộn.

“Vậy ngươi có dám nói một câu cho bọn ta nghe không?”

Tên “thi thể” đó cười khẩy: “Nói mẹ mày à!” “Chính là hắn! Chính là hắn!” Thế là cả đám “thi thể” đứng bật cả dậy, vây Nhị Bá đầu vào giữa!

Nhị Bá đầu giật lá bùa trên đầu xuống, cười ha hả: “Chúng bây là lũ đần độn, Nhị lão gia đến mà không chịu đón tiếp sao?”

“Ngươi là ai?” một tên gằn giọng hỏi.

“Kệ hắn là ai, cứ giết đi rồi nói sau!” một tên khác nói.

“Suỵt...” Nhị Bá đầu đưa ngón trỏ lên miệng, “Nói nhỏ thôi, nói nhỏ thôi,” nói đoạn liền rút súng ra, “Còn nhao nhao lên ông bắn bỏ cả lũ!”

Đám người đó thấy vậy liền cười ha hả, khiến Nhị Bá đầu chẳng hiểu gì cả.

Mười mấy tên này nhất loạt rút súng từ sau lưng ra, nhắm vào đầu Nhị Bá đầu.

Nhị Bá đầu giật thót, đây không phải là đội đuổi xác ư, sao lại đều mang theo súng thế này? Hắn hối hận vì đã không nghe lời Tổ Gia, Tổ Gia dặn rằng: thổi mê hồn hương, sau đó lấy trộm thuốc phiện hoặc tiền rồi chuồn. Nhị Bá đầu bản tính nghịch ngợm, nhìn thấy đám “tử thi” này thì phấn khích lên, tự ý lấy trộm chìa khóa chui vào để trêu chọc.

Đại Bá đầu canh ngoài cửa nghe thấy bên trong có gì đó không ổn, vội khoát tay ra sau, đám tay chân đi theo vội vàng nấp đi. Đại Bá đầu thầm chửi rủa: “Tên cẩu tặc nhà ngươi! Ông đã gàn rồi mà mày nằng nặc đòi vào, giờ thoát thế nào đây? Biết ăn nói thế nào với Tổ Gia đây? Thằng đần độn này!”

Lúc này có tiếng mở cửa kẽo kẹt, mười mấy tên “tử thi” áp giải Nhị Bá đầu đi ra.

Trong lùm cỏ, một tên tay chân hỏi nhỏ: “Đại gia, xông ra hay không?”

Đại Bá đầu trợn mắt nhìn hắn: “Xông cái cứt! Mày không thấy bọn chúng đều có súng sao? Mấy người chúng ta có thể hạ được chúng không? Bọn chúng không phải người thường đâu!”

“Vậy làm thế nào?” Một tên tay chân hỏi.

“Ngươi mau về báo tin cho Tổ Gia, tao ở đây canh cho.” Đại Bá đầu nói.

Tên tay chân đó vâng lệnh đi ngay.

Tổ Gia đang nóng ruột chờ đợi, thấy tên tay chân hớt hải chạy về thì biết ngay có chuyện không lành. “Tổ Gia, không xong rồi, không xong rồi!” Tên tay chân hổn hển, thở không ra hơi.

Nghe tên tay chân báo tin xong, Tổ Gia tức giận đập bàn quát: “Tên khốn kiếp! Lại tự ý hành động!”

Lúc này, Phàn Nhất Phi đang bị trói gô dưới sàn cố sức vùng vẫy, ra hiệu có điều muốn nói.

Tổ Gia nhìn hắn, bảo tên tay chân móc nùi giẻ trong miệng hắn ra.

Phàn Nhất Phi thở phì phò, hỏi: “Các ông đi cướp đội đuổi xác phải không?”

Tổ Gia nhìn hắn, im lặng không nói.

“Thất bại rồi đúng không?” Phàn Nhất Phi cười nhạt, “Tôi có một cách.”

Mắt Tổ Gia sáng lên.

“Nhưng có một điều kiện, tôi giúp các ông giải quyết, xong việc phải thả tôi ra.” Phàn Nhất Phi nói.

Tổ Gia suy tính một lát, rồi gật đầu: “Được rồi! Ngươi nói xem!

“Còn không mau cởi trói cho tôi?”

Tên tay chân lại cởi trói cho hắn.

“Các ông thật quá lỗ mãng, vừa rồi khi đội đuổi xác đến, tôi đã muốn báo cho các ông, kết quả chưa kịp nói câu gì đã bị nhét giẻ vào miệng. Tôi nói cho các ông biết, đây không phải là đội đuổi xác bình thường đâu, mà là người của Công quán Mai Hoa và cảnh sát đó!” Phàn Nhất Phi nói.

“Công quán Mai Hoa? Cảnh sát?” Tổ Gia nghe được một chút manh mối.

“Đúng, Công quán Mai Hoa là tổ chức đặc vụ Nhật Bản mới được thành lập ở Tề Nam, có nhiệm vụ khống chế hội đạo môn ở Sơn Đông, Hà Nam; An Thanh bang, Thần Vũ giáo và các băng đảng xã hội đen, Thần Côn đều chịu sự khống chế của tổ chức này. Cảnh sát nói trắng ra chính là cơ quan do bọn Hán gian lập nên để bảo vệ tập đoàn Hán gian được quân đội Nhật bảo trợ; Hội Tề của đám hương thân cũng thuộc sự quản lý của cảnh sát.”

“Nhiều người làm Hán gian thế sao?” Tổ Gia kinh ngạc, “Có gì hay cơ chứ?”

Phàn Nhất Phi liếc nhìn Tổ Gia, khinh khỉnh nói: “Có gì hay ư? Ông no bụng thì sao biết cái đói của kẻ thiếu thốn!?”

“Dân chúng không có lòng yêu nước sao?” Tổ Gia chợt thấy lòng nguội lạnh.

“Yêu chứ, yêu cũng cần phải ăn! Ông có biết thôn chúng tôi có bao nhiêu người chết đói không? Một ngày khiêng đi 16 người. Gia nhập Hội Tề chí ít còn có cơm ăn, người Nhật phát lương thực, trẻ con đến còn được ăn kẹo. Nay chỗ chúng tôi về cơ bản đều do Hán gian quản lý, cả huyện tổng cộng chỉ có vài người Nhật, còn lại toàn Ngụy quân và Hán gian cả!”

Tổ Gia im lặng không nói, tâm trạng rơi tận đáy sâu.

“Hừ... Tôi đang sống trong tô giới Nhật. Các ông có muốn cứu anh em của mình nữa không?” Phàn Nhất Phi đột ngột chuyển để tài.

“Cứu thế nào?” Tổ Gia hỏi.

“Ông không cần quan tâm, tôi đảm bảo người của ông thoát hiểm một cách an toàn, sau đó chúng ta ai đi đường nấy, được không?”

Tổ Gia lạnh lùng nhìn hắn: “Được, quyết định vậy đi!”

“Nhưng có một điều, mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, còn phải xem người anh em đó của ông có giữ được mồm miệng không?” Phàn Nhất Phi nói thêm.

“Nghĩa là sao?” Tổ Gia hỏi.

“Người anh em đó không phun ra thân phận thổ phỉ của mình trước khi chúng ta đến thì có cơ cứu được, bằng không thì chịu chết.” Phàn Nhất Phi nói.

Đến tận lúc này, Phàn Nhất Phi vẫn nghĩ rằng bọn Tổ Gia là băng thổ phỉ cát cứ trong núi.

“Yên tâm đi, người anh em của ta rất kín miệng.”

“Ừ, đi theo tôi, chỉ cần tất cả nghe theo sự sắp xếp của tôi...” Phàn Nhất Phi nói nhỏ kế hoạch với Tổ Gia.

“Bọn chúng nghe theo ngươi sao?” Sau khi nghe xong, Tổ Gia nghi ngờ hỏi.

“Dùng người thì không nghi, đã nghi thì không dùng! Ông có muốn cứu người anh em của mình không?” Phàn Nhất Phi vặc lại.

Tổ Gia mỉm cười, nói: “Được rồi! Trông cậy cả vào ngươi!”

Tổ Gia quay ra gọi Tam Bá đầu và Tứ Bá đầu, thì thầm với hai người một hồi. Sau đó dẫn theo Tiểu Lục Tử cùng với Phàn Nhất Phi.

Lúc này đã tờ mờ sáng, ba người thẳng hướng khách điếm đuổi xác mà đến.

Phàn Nhất Phi đến trước cửa, gọi to một tiếng: “Tính kiên tử, niệm đoản ba! Hỏa dao ngoại khả hữu ưng trảo tôn thang quá lai!”

Tổ Gia thầm đoán tiếng lóng này nghĩa là: Các anh em đừng lên tiếng, bên ngoài có nhân vật lớn đến!

Hai tên thầy đuổi xác nghe vậy, liền nhìn quanh một lượt rồi đi ra, vừa thấy Phàn Nhất Phi, vội hỏi: “Sao ngươi lại đến đây?” Nói rồi thấy có một người nữa ở phía sau, liền hốt hoảng lùi lại một bước, “Ông ta là ai?”

“Hợp ngô, khai sơn lập cự ưng trảo tôn!” Câu này của Phàn Nhất Phi ý nói: đây là người mở mang khai phá vùng này và là lão thổ phỉ nữa.

“Bạn hữu của Hợp tử, hãy vào nhà rồi nói.” Phàn Nhất Phi vẫn dùng tiếng lóng.

Hai tên này đưa mắt nhìn nhau, lớn tiếng nói: “Mời vào!”

Sau khi vào phòng ngồi xuống, Phàn Nhất Phi tươi cười vừa nói vừa chỉ vào Tổ Gia: “Nước lũ phạm vào miếu Long Vương, người một nhà không nhận ra nhau, vị này là Hồng Bá Thiên thủ lĩnh của mấy ngọn núi quanh đây, giang hồ gọi là Hồng Ngũ gia, Hồng lão hổ.”

Tổ Gia chắp tay nói: “Các vị, lão hủ dạy dỗ không nghiêm, một tên đệ tử không giữ phép tắc đến quấy rối hai vị, có chỗ nào mạo phạm, xin thứ lỗi cho!”

Hai người này vội đáp lễ: “Hồng Ngũ gia uy chấn Lưỡng Hồ, nay được gặp mặt, thật may mắn cho chúng tôi!”

Phàn Nhất Phi cười nói: “Đều là người một nhà cả. Chúng tôi sống nhờ nghề đuổi xác, hành tẩu giang hồ, âu cũng là đi nhờ trên địa bàn của Hồng Ngũ gia, có gì đắc tội, xin ngài giơ cao đánh khẽ!”

“Đâu có, đâu có, là thuộc hạ của tôi không giữ phép tắc. Nếu các vị đây có tổn thất gì, tôi xin đền bù gấp đôi!” Tổ Gia nói.

“Không có gì! Không có gì!”

Một người vội nói, “Người đâu!”

Một “tử thi” từ phòng trong đi ra.

“Thả người.” tên thầy đuổi xác nói.

“Gì cơ?” tên “tử thi” đó trề cặp môi đỏ tươi hỏi.

“Tao nói là thả người!” Tên thầy đuổi xác này đột ngột gằn giọng.

“Vâng...”

Nhị Bá đầu bị hai tên “tử thi” đẩy ra ngoài.

“Tổ Gia!” Nhị Bá đầu kinh ngạc kêu lên.

Tổ Gia quắc mắt nhìn hắn, Nhị Bá đầu lập tức hiểu ý, không nói gì nữa.

Tên thầy đuổi xác đó tiếp lời: “Hồng Ngũ gia, ngài dẫn người về đi, chúng tôi mượn địa bàn của ngài để nghỉ chân, trời tối sẽ đi ngay.”

Tổ Gia gật đầu nói: “Không quấy nhiễu dân chúng, không ức hiếp đàn bà con gái thì các vị có thể tự do hoạt động, bằng không Hồng lão hổ ta không bỏ qua đâu!”

Tên thầy đuổi xác gật đầu: “Hồng Ngũ gia yên tâm!”

Tổ Gia cởi trói cho Nhị Bá đầu, hai người ngầm đưa mắt ra hiệu với nhau, Nhị Bá đầu hiểu ngay ý của Tổ Gia.

Bất ngờ Tổ Gia phất tay áo, một chiếc phi tiêu nhằm đầu một tên “tử thi” phóng đến. Tên này không chút phòng bị, bị đinh xuyên thẳng vào đầu, bịch một tiếng, cả người ghim chặt vào cột, vậy là biến thành “tử thi” đích thực.

Nhị Bá đầu nhanh như chớp, quay người thộp cổ một tên “tử thi”. Tên này ra sức vùng vẫy, Nhị Bá đầu lên gối một phát vào hạ bộ của hắn, bụp một tiếng, cặp ngọc hành nát như trứng gà vỡ, Nhị Bá đầu vận lực bàn tay, rắc một tiếng, bẻ gẫy cổ hắn ta.

Cùng lúc đó Tiểu Lục Tử hai tay phóng phi tiêu, trúng mắt hai tên phía sau, đinh sắt xuyên qua mắt cắm thẳng vào não, hai tên “tử thi” lập tức gục xuống.

Hai tên thầy đuổi xác thấy vậy cuống cuồng rút súng ra, Tổ Gia nhanh tay phóng ra hai mũi phi đinh, trúng cổ tay khiến súng rơi xuống đất. Tổ Gia và Nhị Bá đầu lập tức chộp lấy súng, dí vào đầu hai tên thầy đuổi xác.

Mười mấy tên “tử thi” ở phòng trong nghe thấy tiếng động đều xông ra, tên nào tên nấy đều rút súng ra, chĩa vào bọn Tổ Gia.

“Bảo chúng bỏ súng xuống!” Tổ Gia ép một tên thầy đuổi xác nói, “Bảo chúng hạ súng xuống!” tiếng quát của ông như muốn cuộn tung cả khách điếm.

Tên thầy đuổi xác ôm bàn tay đầy máu, lẩy bẩy nói: “Bỏ xuống, bỏ hết cả súng xuống!”

Cả bọn đưa mắt nhìn nhau, một tên nói: “Bỏ súng xuống thì chúng ta chết chắc!”

“Khốn kiếp, hạ súng xuống!” tên thầy đuổi xác nổi nóng, “Đây là Hồng ngũ gia, là người trọng nghĩa khí giang hồ! Sẽ không giết hại chúng ta đâu!”

Phàn Nhất Phi ngây người ra, lập cập nói với Tổ Gia: “Ông là gì vậy? Tôi... tôi... tôi mặc kệ ông, không có việc gì nữa... tôi... tôi đi đây!” Nói rồi, nhanh chân đạp cửa lao ra.

Đại Bá đầu, Tam Bá đầu chực sẵn bên ngoài, Phàn Nhất Phi còn chưa đứng vững đã bị Đại Bá đầu nấp sau cánh cửa đấm một quả trúng huyệt thái dương, Phàn Nhất Phi hai mắt tối sầm, bất tỉnh nhân sự.

Tiếp sau đó, mười mấy anh em theo Đại Bá đầu từ ngoài xông vào.

“Bỏ súng xuống! Bỏ súng xuống” Đại Bá đầu và các anh em phía sau ai nấy tay lăm lăm con dao sáng loáng.

Đám “tử thi” thấy vậy, không biết bên ngoài còn bao nhiêu người nữa, trong bụng than rằng hôm nay kể như chọc vào ổ thổ phỉ.

Cuối cùng, đám “tử thi” buộc phải quăng súng xuống đất.

Đây là mẻ súng ống đầu tiên Tổ Gia thu được. Trước đây trong Đường khẩu, ông không muốn để các anh em dùng súng, một là khó quản lý, hai là sợ gây rắc rối, do đó cả Đường khẩu chỉ có mấy khẩu để phòng thân. Nay gặp buổi loạn lạc, lưu vong khắp chốn, ông sớm đã nhận ra rằng cần phải vũ trang cho mọi người, nếu ở những nơi xa lạ chẳng may gặp bọn thổ phỉ, hắc bang, cướp giật, thậm chí là tàn quân của Quốc dân Đảng thì khó mà cự đương. Lần này tốt rồi, bỗng chốc thu được mười mấy khẩu súng.

Hơn nữa, không cần phải nổ phát súng nào mà vẫn tước được vũ khí của đội đuổi xác này chính là kế sách của Tổ Gia trước khi xuất phát. Ông bảo Tam Bá đầu dẫn người âm thầm theo sau, sau đó tìm Đại Bá đầu, trong ngoài phối hợp, một trận tóm gọn cả đám, không phải bất đắc dĩ thì quyết không được nổ súng để tránh kinh động đến thổ phỉ ở gần đây.

Tổ Gia không biết rằng, ông không chỉ đoạt được mười mấy khẩu súng, thứ mà đội ngụy trang đuổi xác này vận chuyển không phải thuốc phiện cũng chẳng phải tiền, mà là trong cái cái gùi trên lưng bọn chúng chứa đựng một âm mưu khủng khiếp của quân Nhật.

Năm 1928, Trung Quốc xuất bản cuốn Luận bàn về Napoleon do Phó hội trưởng Hội Giáo dục Trung Quốc Ngũ Quang Kiến dịch, đây là lần đầu tiên người dân được tiếp xúc với tác phẩm viết về vị hoàng đế lục chiến châu Âu dưới hình thức tiểu thuyết truyện ký. Về Napoleon, Người Nhật nghiên cứu sớm hơn người Trung Quốc, từ thời duy tân Minh Trị, quân đội Nhật đã bắt đầu thu thập rộng rãi tài liệu về Napoleon và những cuộc chiến kinh điển của ông.

Quân đội Nhật Bản ngạc nhiên phát hiện ra rằng, sở dĩ Napoleon có thể bách chiến bách thắng, đánh đâu dẹp đó là vì một nguyên nhân quan trọng, đó là ông ta rất chú trọng tiểu tiết. Trên đất châu Âu, Napoleon có thể ghi nhớ vị trí, độ rộng, dòng chảy, lưu lượng của hàng ngàn con sông; có thể nói một cách chính xác độ cao, độ rộng, hướng gió của hàng trăm ngọn núi và trong mỗi ngọn núi có bao nhiêu khe sâu và có độ rộng độ sâu thế nào, thậm chí đến những chi tiết như ở một cánh đồng chỗ nào có gò đồi, chỗ nào có hố vũng, trong hố vũng đó có thể mai phục bao nhiêu quân lính, ông ta đều nắm rõ như lòng bàn tay.

Do đó mỗi khi gặp chiến sự, Napoleon đều có thể dụng binh như thần. Đến cả quân địch cũng tình nguyện gia nhập quân đội của ông mà đánh trận, điều này đã giúp ông tung hoành hơn mười năm ở châu Âu, không ai địch nổi.

Người Nhật với tư tưởng phát xít, rất sùng bái vị hoàng đế chiến tranh này. Trước khi xâm lược toàn diện Trung Quốc, cơ quan đặc vụ Nhật Bản đã bắt tay vào việc vẽ bản đồ Trung Quốc. Những tấm bản đồ do họ vẽ ra không biết là chi tiết hơn bản đồ do người Trung Quốc vẽ gấp bao nhiêu lần. Trước sự biến “18 tháng 9” năm 1931 (còn gọi Sự kiện Phụng Thiên), một giáo viên ở đông bắc ngẫu nhiên có được một tấm bản đồ Trung Quốc do người Nhật vẽ. Sau khi xem xong, ngay hôm sau ông ta đã đem già trẻ lớn bé cả nhà chuyển xuống phía Nam. Một quốc gia nghiên cứu vẽ ra bản đồ của quốc gia khác một cách tỉ mỉ, chính xác như vậy, đương nhiên là có mưu đồ ghê gớm. Là một giáo viên, ông ta không đủ sức cứu nước, chỉ có thể tránh cho gia đình mình khỏi loạn chiến tranh.

Sau khi phát động cuộc chiến xâm lược Trung Quốc, quân Nhật đặc biệt chú trọng đến công tác hiệu đính bản đồ tác chiến, ở đâu sông ngòi đổi dòng, núi rừng bị hủy diệt, chỉ cần trên mặt đất có chút thay đổi, họ sẽ mau chóng sửa chữa tương ứng trên bản đồ.

“Thành thật đi!” Tổ Gia lạnh lùng nói với Phàn Nhất Phi, kỳ thực ông đã phát hiện tên tiểu tử này có vấn đề, dường như còn che giấu rất nhiều điều mờ ám.

Phàn Nhất Phi vừa tỉnh lại, không biết làm sao, thở dài nói: “Được thôi... tôi cùng một hội với đội đuổi xác đó.”

“Ừ, nói tiếp đi.”

“Chúng tôi chẳng phải hành nghề đuổi xác gì cả, mà chỉ là đóng giả đuổi xác để hoàn thiện bản đồ dựa theo ảnh chụp máy bay của người Nhật. Nếu ngang nhiên đi đi lại lại trong địa bàn của Quân thống sẽ rất dễ bị lộ, không bị Quốc quân phát hiện thì cũng gây sự nghi ngờ cho thổ phỉ. Đóng giả đội đuổi xác thì không vấn đề gì, chúng tôi vượt qua mỗi ngọn núi, đi qua mỗi thôn trang, đều ghi chép lại tỉ mỉ địa thế và tọa độ từng nơi, sau đó đem sơ đồ phác thảo về cho người Nhật vẽ bản đồ tác chiến. Ở vùng giáp giới Hồ Nam, Hồ Bắc này có năm đội đuổi xác giống như chúng tôi, người Nhật thấy tôi khinh công tốt, bèn giao cho tôi phụ trách chuyển bản phác thảo. Tập bản vẽ các ông lục soát được vừa rồi chính là thành quả gần một tháng của cả năm đội. Nếu chẳng phải do tôi ngứa nghề, lấy trộm đồ của các ông thì lúc này tôi đã đến Vũ Hán rồi.” Phàn Nhất Phi nói.

“Các nơi trên cả nước đều có đội quân này?” Tổ Gia hỏi.

“Ừm. Hà Nam, An Huy, Giang Tô còn nhiều hơn. Người Nhật đặt ra yêu cầu rất nghiêm ngặt đối với bản đồ. Bản đồ tác chiến yêu cầu phải là mới nhất. Thời gian trước, lão Tưởng phá hủy đê Hoàng Hà, khiến cho sông Hoàng Hà đổi dòng, phân thành hai dòng nước lũ, chảy qua ba địa phận Hà Nam, An Huy, Giang Tô rồi đổ vào Hoài Hà, gây nên vùng lụt lội rộng 80km, dài 400km. Địa hình địa mạo của những khu vực này bị nước lũ làm thay đổi hoàn toàn, thôn trang, trấn huyện, gò đồi, rừng cây không còn như trước nữa... nhưng nó đã đảo lộn kế hoạch tấn công thần tốc Vũ Hán, chinh phục Lưỡng Hồ của người Nhật. Kế hoạch tiếp theo chính là xâm nhập vào nội địa Trung Hoa, muốn đi sâu vào tác chiến Lưỡng Hồ, người Nhật không thể vòng qua Hà Nam, An Huy, Giang Tô được, mà cũng chẳng thể vượt qua được những vùng lụt lội này, thậm chí càng cần đặc biệt chú ý đến những nơi này. Mà đánh trận thì dựa vào cái gì? Chính là dựa vào bản đổ tác chiến! Nay địa hình địa mạo của gần 30 ngàn km2 bị thay đổi, nếu là người Nhật, liệu ông có cần vẽ lại bản đồ tác chiến không?”

Tổ Gia suy nghĩ một lát, rồi gật đầu.

“Tổng hành dinh yêu cầu bản vẽ bản đồ không được có chút sai sót! Bản đồ tác chiến vừa có tọa độ chính xác như bản đồ phổ thông, vừa có ký hiệu tiến binh, lui binh, có thể bộc lộ đầy đủ ý đồ tác chiến của một bên! Mà dựa vào cái gì để vẽ bản đồ tác chiến? Một là dựa vào bản đồ quân sự cũ, hai là dựa vào ảnh chụp từ máy bay. Mà ảnh chụp này chuẩn xác hơn bản đồ cũ, có thể cập nhật chân thực hơn, kịp thời hơn địa hình địa mạo của một vùng nào đó. Nhưng ảnh chụp máy bay chỉ là tấm ảnh, muốn dùng được vào thực tế, cần phải chuyển thành bản đồ có tọa độ chính xác, do đó, chúng tôi được cử đi làm công việc này. Mỗi ngọn núi có độ cao bao nhiêu, có bao nhiêu con đường, rộng hẹp ra sao, trên núi có bao nhiêu hang động, mỗi hang động có thể gài được bao nhiêu quân, những điều này đều phải có thông số chi tiết.”

Tổ Gia càng nghe càng sửng sốt, để xâm lược Trung Hoa quân Nhật đã không tiếc tâm cơ! Chúng ta thua không chỉ về vũ khí và trang bị, mà còn là sự tính toán từ những chi tiết nhỏ nhất.

“Mỗi đội đuổi xác đều có một đặc vụ Nhật Bản. Trong hai thầy đuổi xác các ông bắt được, người gõ trống chính là đặc vụ!” Phàn Nhất Phi nói thêm.

“Sao?” Mắt Tổ Gia sáng lên, “Lập tức giải hắn lên đây cho ta!”

“Vâng!” Đại Bá đầu tuân lệnh.

“Muộn rồi?” Phàn Nhất Phi lắc đầu nói.

“Sao cơ?” Tổ Gia không hiểu.

Đúng lúc đó, Nhị Bá đầu đang canh giữ đám người đó hớt ha hớt hải chạy lên, khẽ nói: “Tổ Gia, không xong rồi, một tên đã đập đầu tự sát!”

“Sao cơ?”

“Hắn lao đầu vào tường tự sát, mạnh đến nỗi vỡ cả sọ.” Nhị Bá đầu nói:

“Người Nhật thà chết chứ không chịu đầu hàng, lỡ chẳng may bị bắt, ắt sẽ tìm cơ hội để tự sát.” Phàn Nhất Phi nói.

Tổ Gia bất giác bùi ngùi, chẳng trách quân Nhật lợi hại, một tên lính quèn còn không sợ chết như vậy, đổi lại anh em của ta, nếu bị người Nhật bắt, liệu họ có làm được như thế không?

Đêm đã khuya, Tổ Gia chần chừ do dự.

“Thầy, có giết hay không?” Đại Bá đầu hỏi.

Mười ba sinh mạng tuy là Hán gian, nhưng dù gì đều là người Trung Quốc, Tổ Gia chưa từng một lần giết nhiều người như vậy. Gió lạnh thốc vào cổ áo, ông không biết phải làm sao, lúc này chợt nhớ đến Hoàng Pháp Dung, ông muốn được nghe ý kiến của cô nương ấy, bất giác buột miệng: “Pháp...”

“Pháp gì cơ? Sung quân ạ?” Đại Bá đầu hỏi dồn.

Tổ Gia nhìn anh ta, tự biết mình có chút mềm yếu, cố ghìm nửa câu sau lại, đoạn thở dài mà nói: “Ra tay thật nhanh, đừng để chúng phải đau đớn.”

“Vâng!”

Tổ Gia giữ Phàn Nhất Phi lại, để hắn tận mắt nhìn những kẻ đó bị chặt đầu, ánh đao lóe lên, đầu lăn lông lốc.

Phàn Nhất Phi sợ đến nỗi tim muốn rụng ra.

“Có biết vì sao ta giữ lại ngươi không?” Tổ Gia hỏi.

“Không... không... không biết.” Phàn Nhất Phi lắp bắp nói.

“Vì ta thấy ngươi vẫn còn là người.”

Phàn Nhất Phi nghe xong, nước mắt lã chã rơi. Hôm sau, Tổ Gia triệu tập Đường hội.

“Ta đề nghị cải cách Đường khẩu.” Tổ Gia nói.

Mọi người đưa mắt nhìn nhau: “Xin thầy nói rõ hơn.”

“Trương sư gia trước lúc lâm chung để lại khẩu dụ rằng lập ra 5 bá đầu, ông nói: 5 là con số trung nghĩa, hy vọng huynh đệ Đường khẩu trung can nghĩa đảm, đồng tâm hiệp lực vượt qua khó khăn. Như nay Đường khẩu bao lần vào sinh ra tử, các anh em trải qua thử thách đã nhiều, trung can nghĩa đảm bộc lộ một cách đầy đủ. Mà giờ đây chúng ta trôi dạt bên ngoài, ở nơi xa lạ, hiểm nguy rình rập, không có lợi cho sự an toàn của Đường khẩu, càng không có lợi cho việc lập bẫy. Vì vậy ta muốn tăng thêm số lượng bá đầu, lập ra chức bá đầu thứ 6. Bá đầu này quản suất một đội, chuyên phụ trách nghiên cứu địa hình lập bẫy và sự an toàn của cả Đường khẩu. Mọi người nghĩ thế nào?”

Các bá đầu và anh em nghe kỹ từng lời của Tổ Gia, thấy ông suy tính thấu đáo, lời nói khúc triết, bèn đồng thanh nói: “Tổ Gia anh minh!”

“Người gánh vác vị trí Lục Bá đầu phải có võ công cao cường, các anh em thấy ai là xứng đáng nhất?” Tổ Gia hỏi.

“Tiểu Lục Tử!” Tam Bá đầu là người đầu tiên hiểu ý tứ của Tổ Gia.

“Đúng, đúng! Tiểu Lục Tử!” mọi người đồng thanh nói.

Để Tiểu Lục Tử tham gia đánh bại đội đuổi xác chính là thử thách cuối cùng của Tổ Gia đối với anh ta, năng lực lĩnh hội, khả năng phản ứng đều được Tổ Gia đánh giá rất cao.

Thế là trong tiếng reo hò rộn rã, Tiểu Lục Tử 17 tuổi chính thức trở thành Lục gia. Phàn Nhất Phi hơn một tuổi bị xếp vào làm thuộc hạ của Tiểu Lục Tử. Hắn cuối cùng cũng hiểu tổ chức của Tổ Gia là như thế nào, lòng bỗng trào dâng cảm xúc tiếc nuối vì gặp nhau quá muộn, hắn liên tục khấu đầu và thề nguyện theo ông thay trời hành đạo, lấy của người giàu chia cho người nghèo, một đời tận trung với ông.

Mới đầu, Phàn Nhất Phi có chút không phục, nhất là cuộc rượt đuổi trên mái nhà tối hôm đó, hắn cho rằng do mình đói bụng, mấy hôm trước lại phải đi liên tục không nghỉ nên mới thua Tiểu Lục Tử. Sau này Tiểu Lục Tử tìm được cơ hội, hai người so tài trong một khu rừng, đây là do Tổ Gia sắp xếp, mục đích là để Phàn Nhất Phi tâm phục khẩu phục.

Trong rừng có hai cây đại thụ cao vút, mỗi cây có treo một chiếc đèn lồng, ai trèo lên lấy được đèn xuống trước, người đó thắng. Hai cây đại thụ này cao hơn 20m, thẳng tắp, nhìn đã thấy hoa mắt. Tổ Gia phát lệnh, hai người chạy lấy đà nhảy phắt lên cây như hai con khỉ, vận lực vun vút trèo lên.

Khi Tiểu Lục Tử lấy được đèn lồng, Phàn Nhất Phi vẫn còn cách chiếc đèn một tầm với. Lúc này bỗng xảy ra một cảnh tượng khiến mọi người kinh ngạc: Tiểu Lục Tử ngậm chiếc đèn vào miệng, ra sức nhảy vọt sang cây bên kia cách chừng hơn 6m, giật lấy chiếc đèn rồi lộn ngược mấy cái lướt xuống mặt đất. Mọi người ngạc nhiên đến nỗi ngây người ra.

Phàn Nhất Phi leo xuống, chẳng nói câu gì, quỳ thụp xuống trước Tiểu Lục Tử: “Lục gia!”

Tổ Gia mỉm cười gật gù.

Tổ Gia chỉnh đốn Đường khẩu là lúc tạm thời sóng yên gió lặng, nhưng lại không ngờ tai vạ lớn hơn đang dần dần chụp xuống. Những tấm ảnh chụp và bản đồ đó không hề đơn giản như Phàn Nhất Phi nghĩ...

NHẬT PHÁO KÍCH MIẾU THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN

Công quán Mai Hoa ở Sơn Đông, Kodama Yoshio sắc mặt u ám.

“Mười ba phát đạn pháo đều không nổ?” Kodama Yoshio giận dữ hỏi.

“Vâng.” Một đặc vụ rụt rè trả lời.

“Ý ngươi là Thái Thượng Lão Quân hiển linh?” “Ừm...” tên đặc vụ không dám nói gì.

Không chỉ Kodama Yoshio không tin, mà ngay cả dân Trung Quốc cũng không dám tin việc này. Tháng 6 năm 1938, quân Nhật đánh huyện thành Lộc Ấp. Cơ quan Cung giáo Nhật Bản am hiểu phong thủy cung cấp cho quân đội tin tình báo rằng: “Huyện Lộc Ấp có một ngôi miếu thờ Lão Tử, thủy tổ của Đạo Giáo, chỉ cần phá hủy ngôi miếu này, cội rễ văn hóa Trung Hoa sẽ đứt.”

Miếu Lão Tử còn gọi là miếu Lão Quân, tương truyền Lão Tử sau khi đắc đạo lên trời, chức vị đứng vào hàng thần tiên, tức Thái Thượng Lão Quân. Đời sau dựng một ngôi miếu thờ tại nơi ngài lên trời để tưởng nhớ, nơi này gọi là “Lão Quân đài”. Lão Quân đài tổng cộng có 33 tầng, tương ứng với thuyết bay lên 33 tầng trời của ngài.

Lúc này, Kodama Yoshio còn nhận được một tin tình báo đáng tin cậy: cách Lão Quân đài không xa có một kho vũ khí của quân Trung Quốc, nếu oanh tạc Lão Quân đài, tất có thể phá hủy kho vũ khí đó, vậy thì huyện Lộc Ấp sẽ biến thành bình địa, quân đội Thiên Hoàng có thể đánh thẳng một mạch.

Đặc vụ Nhật Bản nhanh chóng trình tin tình báo này lên Tổng hành dinh. Tổng hành dinh hạ lệnh: Pháo kích Lão Quân đài!

Năm 1938, ngày mùng 4 tháng 5 âm lịch, quân Nhật giương pháo cối lên, một binh sĩ tên là Umekawa nhận lệnh bắn pháo. Nhìn Lão Quân đài nguy nga sừng sững, tim Umekawa đập thình thịch, một nỗi sợ hãi không tên và sự kính nể dâng tràn trong tâm trí, hắn lập cập nạp đạn vào nòng pháo. Ầm một tiếng, đạn bay vút đi, bọn Nhật im lặng chờ đợi, không một tiếng động. Một lát sau cũng không thấy có tiếng nổ.

“Có chuyện gì vậy?” Umekawa thấp thỏm tự hỏi.

“Rốt cuộc vừa rồi anh bắn chưa vậy?” đám lính xung quanh cũng ngỡ đây là ảo giác.

“Bắn rồi!” Umekawa mơ hồ trả lời, đoạn lại lấy một quả đạn pháo, nhét vào nòng. Ầm một tiếng, đạn pháo bay đi, vẽ lên không trung một hình vòng cung rồi rơi xuống Lão Quân đài. Bọn Nhật chờ đợi tiếng nổ vang lên, một cảnh tượng kỳ lạ xuất hiện: đạn pháo không nổ, mà lộc cộc lộc cộc theo bậc thang lăn xuống.

“Không phải nằm mơ chứ!” Umekawa kinh ngạc nhìn mọi người, rồi lại nhìn lên Lão Quân đài.

“Để tao!” Một tên lính khác đẩy Umekawa ra, một mạch nhét vào nòng pháo 11 quả. Từng quả đạn pháo được bắn đi, cảnh tượng kỳ lạ lại tiếp tục xuất hiện: tất cả đạn pháo đều biến thành đạn xịt, không hề có lấy một tiếng nổ.

Tất cả quân Nhật ở hiện trường đều sợ đến ngây người ra, chẳng dám bắn nữa. Sau này dân tình đồn đại rằng, 13 quả đạn pháo đó đều bị con trâu đá trước cửa miếu ăn mất. (Đến nay những quả đạn pháo xịt đó vẫn được trưng bày trong miếu Lão Quân ở Lộc Ấp. Năm 1980, Umekawa trở lại mảnh đất Lộc Ấp thần kỳ này, nhiều lần khấu đầu tạ tội trước Lão Quân đài. Mấy năm sau đó, Umekawa trở thành khách quen của huyện Lộc Ấp, thường xuyên đến thắp hương Lão Tử, cúi đầu tạ tội.)

Kodama Yoshio đang đau đầu vì việc này thì một đặc vụ vào báo rằng: “Đội đuổi xác ở Hồ Nam bị kẻ nào đó tiêu diệt rồi, một phần bản vẽ cũng bị lấy đi mất.”

Kodama Yoshio gầm lên: “Kẻ nào dám làm vậy?!”

“Thưa, không biết...”

Kodama Yoshio vô cùng tức tối, chợt liên tưởng đến vụ “Thiên nhân” bị thiêu chết ở Vũ Hán, lại nhớ đến phái Giang Tướng và những âm mưu to lớn ẩn chứa trong những bản vẽ đó, toàn thân toát mồ hôi lạnh.

“Yoshikazu!” Kodama Yoshio gọi to.

“Vâng!” Đặc vụ tên Yoshikazu đáp lời.

“Nội trong một tháng, phải tìm ra tung tích của phái Giang Tướng, nếu không ngươi đừng quay về Đại đế quốc Nhật Bản nữa.” Nói rồi, Kodama Yoshio lấy thanh kiếm võ sĩ đạo dùng để rạch bụng đưa cho Yoshikazu.

“Tuân lệnh!”

Yoshikazu về nhà, thận trọng sắp xếp những tin tình báo do thủ lĩnh các hội đạo môn trên cả nước gửi về trong thời gian gần đây, xem xét nửa ngày mà vẫn không tìm ra chút manh mối nào, tức giận vung tay lật đổ cả cái bàn.

Sau khi Tây Điền Mỹ Tử chết, Yoshikazu lên thay, phụ trách thống lĩnh tất cả các đội Hán gian của hội đạo môn Trung Quốc. Trong sự kiện Chu San, Trịnh Bán Tiên của Ngọc Xích Đạo ở Giao Đông, Lưu Hạt Tử của Thiên Thánh Đạo ở Bắc Bình, Long Ngọc Phụng của Giao Tri Đạo ở Thiên Tân, Đinh Tử Hà của Tử Hà Đường ở Mãn Châu, Mai Huyền Tử của Mai Hoa Hội ở Thượng Hải, Bùi Cảnh Long của Hoàng Cực Đạo ở Bảo Định đều đã bỏ mạng. Sự kiện này khiến hội đạo môn chịu sự thao túng của người Nhật bị tổn thất nghiêm trọng, thành viên của những hội đạo môn khác cùng lên đảo cũng chết mất quá nửa, duy có người của phái Giang Tướng chạy thoát được, đây là một trong những dẫn chứng thuyết phục mà Kodama Yoshio suy đoán rằng đó chắc chắn là do phái Giang Tướng thực hiện.

Nhưng Kodama Yoshio lại há miệng mắc quai, có nỗi khổ không thể nói ra được. Thao túng hội đạo môn, biến nó trở thành một trong những công cụ hữu hiệu giúp quân Nhật xâm lược Trung Hoa là một chiến tích, là một niềm kiêu hãnh của ông ta trong quân đội, rất được Tổng hành dinh và Thiên Hoàng khen ngợi, nhưng sự cố này đã khiến ông ta mất cả chì lẫn chài, chỉ còn cách giải trình với thượng cấp rằng khi xây dựng Viện Giao lưu hữu nghị Dịch học Nhật - Trung, công tác khảo sát tình trạng địa lý, hải triều, rắn độc phân bố trên đảo chưa thực sự chu đáo. Nhưng tận đáy lòng ông ta hận phái Giang Tướng đến cực độ, nhất là Tổ Gia, chỉ hận không thể lột da, rút gân Tổ Gia.

Yoshikazu biết rõ thủ đoạn tàn độc của Kodama, nếu lần này không hoàn thành nhiệm vụ, e rằng bản thân phải vào đền Yasukuni chứ chẳng chơi. Đang đau đầu buốt não, một đặc vụ vào báo: có Tưởng Thiên Thừa của Thuận Thiên Giáo ở Mãn Châu xin gặp.

Lão cáo già này trong cuộc thi hùng biện Dịch học lần trước bị Tổ Gia mắng cho đến nỗi bệnh suyễn bộc phát, suýt chút nữa toi mạng, sau này lại bị đám rắn độc đuổi theo đến vãi cả ra quần, liền hùng hổ thề rằng: thù này không trả, uổng đời trượng phu!

“Thái quân,” Tưởng Thiên Thừa mặt mũi hớn hở bước vào, “Tôi có một kế, có thể ép phái Giang Tướng ra mặt!”

“Nói mau.” Yoshikazu nhìn ông ta một cái.

“Thái quân...” Tưởng Thiên Thừa cười bí hiểm, đoạn ghé sát tai Yoshikazu thì thầm.

Sau khi nghe xong, Yoshikazu cười vang: “Kế này thật tuyệt! Nếu việc này thành công, Tưởng sư gia lập được công lớn, đợi khi Khối Thịnh Vượng Chung Đại Đông Á được thiết lập, Tưởng sư gia sẽ là Đệ nhất Quốc sư của Mãn Châu Quốc.”

Tưởng Thiên Thừa ngoác miệng cười ha hả: “Lão hủ đã hơn lục tuần, Thái Công 80 tuổi mới gặp được Văn Vương*, so với ông ấy ta gặp được minh công sớm hơn 20 năm, đó là vinh dự của lão hủ!”

Lập tức sau đó, Tưởng Thiên Thừa dẫn theo mấy tên đồ đệ, bí mật xuất phát từ Sơn Đông thẳng đến Thượng Hải.

Tại Tổng đà Thiên Thánh Đạo Thượng Hải, Tả Vịnh Thiện chống nạng ra tận cửa nghênh đón Tưởng Thiên Thừa. Trên đảo Chu San hôm đó, Tả Chưởng môn bị rắn cắn vào chân trái, nếu không nhờ Cổ sư Nhật Bản kịp thời cấp cứu thì đã đi đời nhà ma rồi, để ngừa nọc rắn chạy vào tim, bất đắc dĩ phải cưa bỏ chân trái. Từ đó, Tả Chưởng môn chỉ có thể ngồi “hoằng pháp”, đám đệ tử Kim Cang của ông ta đành phải giải thích với mấy trăm tín đồ “Thanh y” bên dưới rằng: “Tả Chưởng môn chặt chân cầu pháp, dùng pháp thân vô hình tìm hiểu thuật của Đại đạo vô tướng, đây là nghĩa cử của bậc thánh nhân! Chưởng môn nhân đã đại ngộ huyền cơ của trời đất, từ nay về sau không còn hiện thân thuyết pháp nữa, mà tọa thiền nhập định, vân du tứ hải, quảng giao với tinh tú trên trời, cầu phúc cho muôn dân.”

Sau khi Tưởng Thiên Thừa và Tả Vịnh Thiện gặp nhau, liền bảo hộ pháp tả hữu lui xuống, để hai người nói chuyện riêng.

“Tả Chưởng môn, gần đây vẫn ổn chứ?” Tưởng Thiên Thừa nhìn cái chân cụt của Tả Vịnh Thiện mà hỏi.

Tả Vịnh Thiện có chút phật ý với câu “hỏi đều” của Tưởng Thiên Thừa, chỉ cười nhạt: “Bì sao được với Tưởng sư gia, dựa gốc cây to thật mát mẻ.”

Tưởng Thiên Thừa vân vê chòm râu dê, mỉm cười: “Oan có đầu, nợ có chủ, có trách thì trách Tổ Gia của phái Giang Tướng. Chịu khó làm việc cho quân đội Thiên Hoàng, có ăn có uống, có danh tiếng, có địa vị, chẳng phải là việc tốt hay sao, còn cứ đối chọi một sống một chết, sao có thể bàn việc lớn với nhau được đây! Nay quân đội Thiên Hoàng đã chiếm một phần ba Trung Quốc, đánh chừng năm rưỡi nữa là quét sạch đám tàn binh bại tướng của Tưởng Giới Thạch, đến lúc đó cả Trung Quốc là của người Nhật, ta với ông đều là hộ quốc công thần, đại sư Cung giáo.”

Tả Vịnh Thiện chẳng buồn để ý, mỉm cười nói: “Chớ nói những thứ nhìn chẳng được, sờ chẳng thấy làm gì. Tưởng sư gia lần này hạ cố hàn xá, có điều chi chỉ giáo?”

Tưởng Thiên Thừa gật đầu nói: “Có chỉ thị của Yoshikazu, ông xem đi.” Nói rồi, đưa một bức thư cho Tả Vịnh Thiện.

Tả Vịnh Thiện ngờ vực đón lấy bức thư, chầm chậm mở ra. Sau khi xem xong thì ngửa mặt lên trời cười vang: “Ha ha ha! Yoshikazu quả thực là thông minh...”

Nhìn bộ dạng vênh vang đắc ý của Tả Vịnh Thiện, Tưởng Thiên Thừa cười thầm: tên đần độn nhà ngươi, đó là chủ ý của ông đây đấy. Nhưng ông không nói cho ngươi biết đâu, nếu không kẻ óc bã đậu như ngươi càng đố kỵ với ông! Người trí lớn tất thành đại sự. Hãy đợi đấy, xem ông đây trở thành Đệ nhất Hộ quốc sư của Mãn Châu Quốc như thế nào!

Nghĩ đến đây, Tưởng Thiên Thừa nói: “Tả Chưởng môn, việc này nếu không có ông thì không thể thành công được. Năm xưa khi thiên hạ chia ba ở Giang Hoài, Tứ Bá đầu Tề Xuân Phúc thủ hạ của Tổ Gia từng nhận hối lộ mà làm nội gián cho Tả Chưởng môn, giờ tên đó chết rồi nhưng âm hồn chưa tan, đây là dịp để Tả Chưởng môn trổ tài!”

Tả Vịnh Thiện cười lớn: “Tề Xuân Phúc cũng có thể coi là kẻ thông minh, năm xưa để giết Tổ Gia, hắn làm phản Mai Huyền Tử, lại lợi dụng mâu thuẫn giữa ta và Mai Huyền Tử, tiết lộ cho ta vài thông tin thật thật giả giả, lừa tiền của ta. Loại người bất trung bất nghĩa đó chết không đáng tiếc, nên sau đó ta liền tiết lộ thông tin của hắn cho phái Giang Tướng, Tổ Gia nhờ đó mới lần được manh mối mà xử được hắn. Nhưng khi làm người đưa tin cho ta, dường như hắn chưa hề cung cấp thông tin về Tổ Gia.”

Tưởng Thiên Thừa cười nhạt một tiếng: “Tả Chương môn, Yoshikazu đặt tất cả hy vọng vào ông đấy.”

Tả Vịnh Thiện bộ dạng mệt mỏi, ngáp dài một cái rồi nói: “Để tối suy nghĩ kỹ đã. Tưởng sư gia đường xa vất vả, nghỉ ngơi chút đi, chúng ta bàn tiếp sau nhé.”

Nói rồi gọi đệ tử lại dìu, khập khà khập khiễng về phòng.

Nhìn theo cái bóng bước thấp bước cao của Tả Vịnh Thiện, Tưởng Thiên Thừa nở một nụ cười nham hiểm...

LIỄU PHÀM TỨ HUẤN

Mấy hôm nay không hiểu vì sao Tổ Gia luôn cảm thấy bất an, Đại Bá đầu và các anh em lên kế hoạch cho việc tái xuất giang hồ, Tổ Gia lại không nói một lời.

Rêu rao danh hiệu “Đệ nhất tướng số Giang Hoài” tại nơi Quốc-Cộng phân chia, thổ phỉ hoành hành, quân Nhật lăm le như vùng giáp giới Hồ Nam và Hồ Bắc này liệu sẽ mang đến hậu quả ra sao, Tổ Gia trong lòng mờ mịt. Cửu gia Vương Á Tiều đã chết, Tăng Kính Võ gia nhập Cộng sản Đảng, Giang Phi Yến ở mãi tận Quảng Tây... Tổ Gia lòng đầy mông lung, ông lại nhớ đến Hoàng Pháp Dung.

Nếu Hoàng Pháp Dung ở đây, cô nương ấy có thể giúp Tổ Gia bày mưu tính kế, dù đúng hay sai cũng khiến ông cảm thấy nguôi lòng. Cô ấy tính cách ngổ ngáo, tuy luôn làm ông không vui nhưng lại dám nói lời chân thực, có thể khiến ông suy xét một vấn đề từ nhiều góc độ. Chính lúc này đây, Tổ Gia cần sự ngổ ngáo đó để mang lại sự tươi mới trong tư duy của ông. Còn những Bá đầu khác ai nấy đều kính cẩn, khép nép, ông nói một là một, hai là hai, không ai dám khuyên can hay tranh luận, khiến ông cảm thấy thật mỏi mệt.

Lúc này, cảm giác nhà tan cửa nát năm xưa lại ùa về, một nỗi cô đơn không tên tràn ngập cõi lòng, không ai có thể giúp đỡ, ông chỉ có thể dựa vào bản thân gắng sức tiến về phía trước. Tổ Gia đột nhiên nhớ lại lúc 8 tuổi, mẹ ông có mời một vị đạo nhân đến xem tướng cho ông, vị đạo nhân đó kết luận mấy câu: “Mệnh phạm Thiên sát cô tinh, số cô độc, cô độc đến nỗi xơ xác tiêu điều, trong vòng 10 dặm không nảy mầm, 8 dặm không thấy cỏ mọc. Một đời không có quý nhân phù trợ, dựa núi núi đổ, dựa sông sông cạn. Mệnh chủ trí dũng kiệt xuất, vận như rồng bị vây hãm, thọ chung 50, không con nối dõi. Lục thân nên ở xa.”

Những lời này đã khiến mẹ ông vô cùng lo lắng, vội hỏi: “Đại sư, có cách nào phá giải không?”

Vị đạo nhân đó lắc đầu.

Mẹ ông lại càng sợ hãi: “Nếu mệnh có thể bói được, lại không thể giải, Thánh nhân tạo ra Dịch có tác dụng gì cơ chứ?” Mẹ ông là nữ cử nhân cuối đời Thanh, từ nhỏ say mê đọc sách, có nghiên cứu về Kinh Dịch, do đó mới nêu câu hỏi lạ thường như vậy.

Đây cũng chính là câu hỏi của người đời, thậm chí là của lớp lớp người học Dịch không ngừng nêu ra trong suốt chiều dài của lịch sử: rốt cuộc con người có số mệnh hay không? Số mệnh có thể bói được không? Bói được rồi liệu có thể xoay chuyển không? Nếu không thể thì xưa kia thánh nhân sáng tạo ra Kinh Dịch để làm gì? Chỉ là để cho con cháu đời sau thêm buồn rầu, thêm phiền não thôi ư?

Vị đạo nhân đó thở dài, nói: “Cách phá giải, nói có thì không phải, nói không có cũng không đúng.”

Mẹ ông không hiểu: “Lời đại sư phải hiểu thế nào đây?”

Vị đạo nhân này hỏi lại: “Vậy cách phá giải mà phu nhân nói là chỉ cái gì?”

Mẹ ông suy nghĩ một lát, nói: “Ví dụ điều chỉnh phong thủy, vẽ bùa niệm chú, thay tên đổi họ, nhận cha mẹ nuôi, hoặc giao vận, cải vận, hoặc mời thầy làm phép, còn có thể mang đồ trang sức như ngọc bội, phật châu, bùa bình an, v.v..”

Đạo nhân nghe xong ngửa mặt lên trời cười vang, chẳng nói đúng hay sai, chỉ hỏi lại bà: “Xin hỏi, phu nhân cho rằng những cách này có hiệu nghiệm không?”

“Tôi không biết, nhưng người ta thường làm như vậy.” mẹ Tổ Gia đáp lời.

Đạo nhân gật đầu, nói: “Đón cát tránh hung là bản tính của con người, ai chẳng muốn trường thọ, giàu sang phú quý, ai chẳng muốn tránh được tai họa, ai chẳng muốn lấy được chồng tốt, vợ hiền, ai chẳng muốn con cháu đầy đàn, trai gái hiếu thuận. Nhưng phu nhân thử nhìn thế gian này xem, vận mệnh của mỗi con người trước sau là không giống nhau, dù thừa nhận hay không, con người là có số mệnh. Do đó, thánh nhân sáng tạo ra Dịch, hy vọng người đời sau hiểu được vận mệnh của chính mình.”

“Đại sư nói rất đúng.” Mẹ Tổ Gia nói.

Vị đạo sĩ nói tiếp: “Sau khi hiểu được số mệnh của mình, con người luôn muốn thay đổi nó, xấu muốn biến thành tốt, tốt muốn biến tốt hơn, đây là lẽ thường tình của con người, không có gì đáng trách. Nhưng con người lại gửi gắm hy vọng vào phương pháp cải mệnh bàng môn tả đạo, phu nhân nghĩ kỹ xem...” Nói đến đây, vị đạo nhân bỗng cao giọng, “Nếu những cách làm như vẽ bùa niệm chú, điều chỉnh phong thủy, thay tên đổi họ... có thể khiến số mệnh thay đổi, vậy ăn mày trên phố, chúng ta thay tên đổi họ cho họ, liệu họ có thể trở nên giàu có không? Chắc chắn là không thể! Những người mắc bệnh nan y, chúng ta vẽ bùa làm phép, lập đạo tràng, có thể khiến họ không chết không? Tuyệt đối không thể! Chết vẫn cứ hoàn chết! Những thầy tướng số cả ngày rêu rao rằng đặt cái tên này để cải mệnh, dùng cách này để phát tài trường thọ, nếu thực sự làm được, họ đâu cần lê la trên phố bói toán kiếm tiền cực khổ như vậy, sao không chui vào góc, biến ra một đống tiền, sau đó sống vài trăm tuổi, ngồi hưởng vinh hoa phú quý?”

Mẹ ông nghe xong không thốt nên lời, cảm thấy như được giác ngộ.

Vị đạo nhân tiếp tục nói: “Phu nhân ham thích thi thư, tất phải biết việc thâm cung bí sử của thánh nhân. Tần Thủy Hoàng lôi kéo thuật sĩ trong thiên hạ, dùng mọi pháp thuật, ăn tất cả các loại tiên đơn cũng không thể kéo dài tuổi thọ nổi một ngày! Kinh Phòng đời Hán là người am hiểu Lục hào, bói trời bói đất, bói người bói việc vô cùng chính xác nhưng lại không thể tự mình thoát khỏi cái chết! Gia Cát Khổng Minh thời Tam Quốc đắc thuật thiên địa tạo hóa, hô phong hoán vũ, đạt đến cảnh giới đỉnh cao nhưng cũng chẳng cứu vãn nổi nhà Hán khỏi cơ lụn bại! Thiệu Khang Tiết đời Tống, Hoàng cực kinh thế quán thông cổ kim, Mai hoa dịch số truyền thiên hạ, trước lúc lâm chung lại nói rằng không tin vào số mệnh! Lưu Bá Ôn đời Minh bói được năm trăm năm về trước, năm trăm năm về sau, biết rõ bản thân sẽ chết lại không có cách nào tránh được, ôm nỗi uất hận uống thuốc độc của Hổ Duy Dung, nếu ông ta có thể giải hạn, nên tự giải cho mình mới đúng!”

Mẹ Tổ Gia nghe đến nỗi rúng động tinh thần, suy nghĩ hồi lâu mới hỏi: “Nói như vậy, Kinh Dịch chỉ có thể bói được, lại không thể giải được ư?”

Vị đạo nhân thở dài một tiếng nói: “Đương nhiên có thể giải! Chỉ là thế nhân đa số bỏ gốc lấy ngọn, làm sai đi sự kỳ vọng ban đầu khi sáng tạo ra Dịch của bậc thánh hiền! Phu nhân hãy xem, 64 quẻ trong Kinh Dịch, quẻ nào cũng giảng về đạo lý làm người, tựu chung mang nghĩa Tích thiện tất dư niềm vui, tích bất thiện tất thừa tai họa. Phân tích chi tiết hơn, dưới tiền đề của ‘thiện’ lại giảng giải về phương pháp và đạo lý làm người cụ thể, ví dụ: quẻ Càn - quẻ thứ nhất trong 64 quẻ, đặt ra đạo lý làm người là phải ‘Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức’, khuyên răn làm người phải giống như trời, tự lực tự cường, liên tục không ngừng, chớ nên cam chịu, lười biếng; xem tiếp đến quẻ thứ hai là quẻ Khôn, quẻ này yêu cầu con người phải ‘Địa thế khôn, quân tử dĩ hậu đức tải vật’, làm người phải giống như đất, có lòng bao dung, chớ nên đố kỵ, chớ nên dụng mánh khóe, nếu không sẽ gặt lấy quả ác; có người còn nói ‘Vật cực tắc phản, bĩ cực thái lai’, ‘Bĩ’ và ‘Thái’ lần lượt là hai quẻ trong 64 quẻ, chúng khuyên răn rằng làm người khi rơi xuống đáy vực, chớ nên nản trí ngã lòng, đánh mất lương tri, điên rồ cuồng dại, chỉ cần kiên trì nẻo thiện, mọi thứ rồi sẽ tốt lên…”

Mẹ Tổ Gia say sưa nghe, cảm thấy vị lão tiên sinh này nói rất có đạo lý! Bỗng nhiên lại thấy không đúng, vội hỏi: “Đại sư, theo kiến giải của ngài, chúng ta chỉ còn cách ngồi đợi sự an bài của số phận thôi sao, để rồi gặp tai họa, chỉ có thể nhẫn nhịn chịu đựng, thúc thủ vô sách ư?”

Vị đạo nhân lắc đầu, nói: “Kinh Dịch đã cho chúng ta đáp án rồi. Đây chính là sự ngu muội và nông cạn của thế nhân, ta nói bao nhiêu như vậy mà phu nhân vẫn chưa lĩnh ngộ...”

Mẹ Tổ Gia đỏ mặt: “Xin đại sư chỉ giáo rõ hơn!”

“Hành thiện, hành thiện, hành thiện!” vị đạo nhân nói liền ba tiếng.

Mẹ Tổ Gia giật mình: “Ồ, tôi hiểu rồi!”

Vị đạo nhân mỉm cười: “Nói hiểu thì hiểu, nói không hiểu thì không hiểu. Tôi tặng phu nhân một cuốn sách, phu nhân hãy nghiên cứu thật kỹ, phương pháp cứu con ở tất trong này!” Nói xong liền lấy ra một cuốn sách cũ đã ố vàng, tặng cho mẹ Tổ Gia.

Mẹ Tổ Gia đón lấy xem, cuốn sách có tên Liễu Phàm tứ huấn. Khi bà ngẩng đầu lên thì không thấy vị đạo nhân đó đâu nữa, bà thẫn thờ đi vào trong phòng, đọc và nghiên cứu cuốn sách một cách tỉ mỉ. Sau này, bà thường kể cho Tổ Gia nghe những nhân vật, câu chuyện trong cuốn sách này, nói đây là bảo bối thay đổi số mệnh.

Trong sách có câu chuyện như sau: Gia Khánh năm thứ 12, ở trấn Ngụy Đường, huyện Gia Thiện có một người tên là Viên Liễu Phàm, sau này ông trở thành nhà tư tưởng quan trọng của triều nhà Minh, hơn nữa còn là người chống lại số mệnh, một người hành thiện để thay đổi số phận. Cuộc đời ông minh chứng một cách thấu triệt chân đế “Tích thiện tất dư niềm vui, tích bất thiện tất thừa tai họa” trong Kinh Dịch.

Liễu Phàm mồ côi cha từ nhỏ, mẹ ông khuyên ông không nên theo đòi công danh làm gì mà cho học y thuật, và nói rằng học y thuật có thể kiếm tiền nuôi sống bản thân, cũng có thể cứu giúp người đời, hơn nữa y thuật đạt đến độ cao minh còn có thể trở thành danh y, đây cũng là tâm nguyện của cha ông khi trước.

Thế là Liễu Phàm bắt đầu học y thuật. Sau này, ông gặp một đại sư thuật số họ Khổng ở chùa Từ Vân, Khổng đại sư là truyền nhân của Thiệu Khang Tiết, đại sư dự trắc thời Tống. Khổng đại sư bói cho Liễu Phàm một quẻ và nói rằng ông không nên học y thuật, nên thi làm quan, chắc chắn sẽ thi đỗ, đồng thời bói cả thứ bậc của mỗi kỳ thi, hơn nữa còn xem cả đường sĩ hoạn, khi nào thì thăng chức, khi nào làm huyện trưởng, nhưng chỉ có thế sống đến năm 53 tuổi, qua đời tại nhà vào giờ Sửu ngày 14 tháng 8 năm đó, đồng thời mệnh không có con trai.

Sau này Liễu Phàm đi thi, quả đúng như lời Khổng đại sư từng nói, mỗi lời đều ứng nghiệm tuyệt đối. Thế là Liễu Phàm mất đi ý chí phấn đấu trong cuộc sống, ông cảm thấy cuộc đời mình đã được định trước, lo lắng nghĩ ngợi cũng chẳng có tác dụng gì, chẳng thà để trôi theo dòng nước, được chăng hay chớ, dù gì thì việc cần đến đều sẽ đến, khi phải chết vẫn là chết, số không con là không có con, lo nghĩ nhiều chẳng có tác dụng.

Sau này, khi Viên Liễu Phàm đến Nam Kinh học, đến Thê Hà Sơn bái kiến thiền sư Vân Cốc, ông đàm đạo với thiền sư về sự trói buộc của số mệnh con người, ông bi quan nói: “Số mệnh của con được Khổng đại sư đoán định rồi, khi nào sinh, khi nào tử, khi nào thành, khi nào bại đều đã định sẵn, chẳng thể thay đổi được. Vậy thì lo lắng nghĩ ngợi phỏng có ích gì chứ?”

Thiền sư Vân Cốc nghe xong liền khai hóa cho Liễu Phàm: “Nếu một người trái tim lúc nào cũng đầy ắp vọng tưởng, tà tâm, tất sẽ bị khí số âm dương trói buộc; đã bị khí số âm dương trói buộc rồi, sao có thể nói không có số mệnh đây? Tuy nói rằng số mệnh là chắc chắn có, nhưng chỉ có người bình thường mới để bị số mệnh trói buộc. Còn là người có thiện tâm, chẳng gì có thể trói buộc được họ.” Tóm lại, đã là con người thì đều phải chịu sự chế ước của khí âm dương ngũ hành, nhưng nếu một người làm nhiều việc thiện, tất có thể vượt ra ngoài sự trói buộc của số mệnh.

Liễu Phàm như ngộ ra ít nhiều: “Thưa, thật vậy sao?”

“Hãy cứ làm đi!” thiền sư Vân Cốc nói.

Thế là Viên Liễu Phàm lập đại nguyện thực hiện ba ngàn việc thiện. Nói là làm, mỗi khi làm được một việc thiện, ông đều ghi chép lại. Vợ ông không biết chữ thì khoanh một khoanh tròn lên cuốn Hoàng lịch. Cùng với tâm nguyện hành thiện, Liễu Phàm dần dần thoát khỏi sự ràng buộc của số mệnh, sau này bắt đầu xảy ra nhiều việc không còn khớp với lời tiên đoán của Khổng đại sư nữa: Khổng đại sư bói ông thi đỗ thứ ba, nhưng ông lại đỗ thủ khoa; bói ông không đỗ Cử nhân, nhưng kết quả thì ngược lại. Thế là Viên Liễu Phàm đã bắt đầu nắm trong tay số mệnh của mình.

Hoàn thành xong ba ngàn việc thiện, Liễu Phàm tiếp tục lập ba ngàn nữa. Thực hiện xong rồi, lại tiếp đến mười ngàn. Năm Kỷ Tỵ, vợ chồng Liễu Phàm sinh được một người con trai, ông vui mừng khôn xiết, đặt tên con là “Thiên Khởi”, sau này con ông lại thi đỗ Tiến sĩ. Nhờ hành thiện tích phúc, Viên Liễu Phàm vượt qua ải 53 tuổi một cách nhẹ nhàng.

Về già, ông đem kinh nghiệm hành thiện thay đổi số mệnh truyền cho con rằng: “Khổng tiên sinh bói mệnh của cha đến năm 53 tuổi sẽ gặp tai họa. Cha tuy không khấn trời cầu trường thọ, nhưng đến năm 53 tuổi lại chẳng hề bị bệnh tật gì. Nay cha đã 69 tuổi, thọ hơn 16 năm rồi.”

Liễu Phàm dùng chính những việc mình trải qua để minh chứng cho chân đế nhân sinh trên trong Kinh Dịch, đồng thời đưa ra luận thuyết, khuyên răn thế nhân chớ nên để số mệnh trói buộc tay chân, phải tự lực tự cường, phải nắm giữ số mệnh của bản thân.

Cuốn sách này được người đời sau chỉnh lý đặt tên là Liễu Phàm tứ huấn, răn dạy thế nhân rằng: số mệnh có thể nỗ lực thay đổi được. Cuốn sách mang nội hàm văn hóa và trí tuệ phương Đông sâu sắc, được mệnh danh là “Đông phương đệ nhất lịch chí kỳ thư”, từ khi ra đời nó rất được sùng bái, lưu truyền đến tận ngày nay.

Do đó, từ nhỏ mẹ Tổ Gia đã căn dặn ông rằng: “Nhất định phải làm người lương thiện!” Sau này, ông gia nhập phái Giang Tướng cũng là để thưởng thiện phạt ác, thay trời hành đạo. Nhưng bao nhiêu năm qua, Tổ Gia bỗng trở nên mông muội, ông không còn biết mình đang làm việc thiện hay việc ác nữa.

MỘ TỔ NHÀ TỔ GIA BỊ ĐÀO BỚI

“Tổ Gia, không hay rồi! Không hay rồi!” Tổ Gia đang muộn phiền, bỗng Nhị Bá đầu hốt hoảng chạy vào, Tiểu Lục Tử theo sát phía sau.

Tổ Gia giật thót một cái: “Chuyện gì vậy?”

“Thầy xem.” Nhị Bá đầu chìa một tờ báo cho ông.

“Ở đâu ra vậy?” Tổ Gia nghi ngờ hỏi.

“Là Tiểu Lục Tử đi thăm dò trong thành đem về.” Nhị Bá đầu nói.

Tổ Gia cúi xuống xem, toàn thân rúng động, tay nắm chặt tờ báo, cơn thịnh nộ chực trào trong lồng ngực.

“Tổ Gia?” Nhị Bá đầu, Tiểu Lục Tử sợ hãi gọi một tiếng.

Tổ Gia thần sắc sa sầm, đập bàn bật dậy, nghiến răng nói: “Quật mộ tổ nhà ta! Thủ đoạn độc ác nham hiểm như vậy mà cũng dám làm!”

“Tổ Gia...” Nhị Bá đầu chờ đợi quyết định của Tổ Gia, “trở lại Giang Hoài?”

Tổ Gia im lặng không nói, mắt ánh lên niềm bi phẫn.

Nhị Bá đầu và Tiểu Lục Tử nhất tề quỳ xuống: “Chúng con thề chết đi theo thầy!”

Đào mồ quật xác, phá hoại âm trạch, từ xưa thù này không đội trời chung! Già trẻ lớn bé cả nhà ông đã chết rất thảm khốc, sau đó được hàng xóm láng giềng giúp đỡ an táng. Sau khi gia nhập phái Giang Tướng, Tổ Gia từng trở về quê tế lễ, mỗi lần nhớ đến cảnh tượng cả nhà chết thảm, ông lại nước mắt giàn giụa. Nay Tả Vịnh Thiện lại quật mồ nhà ông ở Giang Hoài, đem xương cốt ra mà đánh rồi đốt trụi, hơn nữa còn cố ý phát tán tin tức, rêu rao trên báo là phải làm cho tên yêu nghiệt Tổ Gia tuyệt tử tuyệt tôn!

“Thiết Bản tiên sinh”, đệ nhất tướng số Giang Hoài bỗng chốc biến thành yêu nghiệt, khiến dân chúng Giang Hoài vốn nhận nhiều ân trạch của ông rất đỗi ngạc nhiên. Trên báo, Tả Vịnh Thiện, Tưởng Thiên Thừa bịa đặt đủ điều vu cho Tổ Gia: tội ác chồng chất, không bút nào tả xiết, như thể “Thiết Bản tiên sinh” chính là sói đội lốt người. Cùng lúc đó, “thiện tâm” của Tả Vịnh Thiện thừa dịp phát lên, khi đó Thượng Hải dịch tả hoành hành, người có tiền cấp cứu kịp thời thì sống, dân nghèo không tiền thì chết hàng loạt. Số người chết mỗi ngày ở Áp Bắc nhiều không kể xiết, Tả Vịnh Thiện đích thân lập đạo tràng cầu phúc trừ tai cho dân chúng, đồng thời phát thuốc cứu tế miễn phí. Bách tính khốn khổ phút chốc quên đi Tổ Gia, “Tả đại thiện nhân” nghiễm nhiên trở thành cha cả, thành Bồ Tát sống.

Tổ Gia đỡ Nhị Bá đầu và Tiểu Lục Tử dậy, bảo hai người lui ra trước rồi tự nhốt mình trong phòng, cầm tờ báo lặng lẽ suy ngẫm: kẻ nào tiết lộ thông tin mộ phần nhà ta? Nhập đạo bao nhiêu năm nay, chưa từng có ai đi qua quê gốc của ta, sao bỗng nhiên có thể tìm được mộ phần chính xác như vậy? Tế Xuân Phúc! Chỉ có hắn! Tên Bá đầu phản bội này! Đào mộ tổ chính là nhằm chọc giận ta, sau đó dụ ta xuất hiện, cái bẫy lớn như vậy chắc chắn một mình Tả Vịnh Thiện không thể sắp đặt được, tất phải có bàn tay người Nhật đứng sau giật dây, lúc này trở về Giang Hoài ắt lành ít dữ nhiều, các anh em cũng sẽ uổng mạng. Ông chợt tưởng tượng ra cảnh xương cốt già trẻ lớn bé thất tán, trong lòng không nén nổi nỗi phiền muộn vô hạn.

Tổ Gia cố gắng kiềm chế nỗi đau, chậm rãi sắp xếp, vạch kế hoạch... Đến nửa đêm, cuối cùng cũng có sách lược đối phó, ông cấp tốc triệu tập Đường hội!

“Tổ Gia, mau trở về Giang Hoài, băm thấy tên Tả Vịnh Thiện này đi chứ?” Đại Bá đầu hùng hổ nói.

Tổ Gia lắc đầu nói: “Đã muốn chơi thì phải chơi cho tưng bừng một chút. Mới có chút sóng gió chúng ta đã ngồi không vững rồi, đây có là gì chứ?”

“Ý của thầy là khuấy đục nước lên?” Tam Bá đầu nói.

Tổ Gia gật đầu: “Nước đục dễ bắt cá.”

“Còn bắt cá gì nữa, mộ của lão thái công, lão tổ mẫu đều bị quật lên rồi, tôi cùng với Tiểu Lục Tử quay về Thượng Hải, băm vằm tên khốn Tả Vịnh Thiện!” Đại Bá đầu hùng hổ nói.

“Tả Vịnh Thiện chỉ là con rối nhảy nhót trên sân khấu, xử hắn quá dễ, quan trọng là bọn Nhật, chúng ta đã phá hỏng đại sự của chúng trên đảo Chu San, lại thiêu chết bọn pháp sư ở Vũ Hán, chúng không chịu để yên đâu...” Tổ Gia nói.

“Tổ Gia, sự việc có lẽ không đơn giản như vậy.” Tiểu Lục Tử mới được thăng chức Lục Bá đầu không lâu bỗng lên tiếng, “Tổ Gia thử nghĩ xem, biến cố Chu San xảy ra đã hai năm, quân Nhật mải chinh chiến, căn bản không để ý đến hành động của phái chúng ta, lần này đột nhiên nổi lên ở Thượng Hải, phải chăng... phải chăng liên quan đến vụ chúng ta cướp đội đuổi xác của chúng?”

“Không đến mức đó chứ, bất quá chỉ là mấy trang phác thảo thôi mà?” Ngũ Bá đầu nói xen vào.

Tổ Gia trầm tư giây lát, bỗng nói: “Đem những bản phác thảo đó lên xem lại xem!”

Tổ Gia và các bá đầu xem xét lại đống bản phác thảo: núi xuyên sông ngòi rõ ràng, huyện thị thành quách đan xen mạch lạc, hồi lâu sau vẫn không phát hiện ra điểm gì đặc biệt.

Tổ Gia nói: “Hừm, chúng ta hãy tương kế tựu kế... bọn Nhật muốn chọi chết chúng ta, vậy chúng ta sẽ chơi với chúng đến cùng! Trước hết, cần...” các bá đầu lắng nghe, liên tục gật đầu.

Đêm hôm đó, dưới ánh trăng sáng vằng vặc, Đại Bá đầu, Lục Bá đầu, Phàn Nhất Phi nhằm thẳng Thượng Hải chạy tới; cùng lúc, Nhị Bá đầu, Tam Bá đầu, Ngũ Bá đầu dẫn anh em giắt súng ống mới cướp được lên đường tìm những đội đuổi xác khác theo sự chỉ dẫn của Phàn Nhất Phi.

Vài hôm sau, đường phố Thượng Hải bắt đầu xuất hiện một lượng lớn truyền đơn được rải, trên đó nói rằng Tả Vịnh Thiện làm Hán gian, là chó săn cho người Nhật, ông ta giết hại sư phụ mình là Trương Kế Nghiêu, trưởng môn nhân đời trước của Thiên Thánh Đạo, lại bôi nhọ Tổ Gia, tất sẽ bị trời phạt. Ông trời có mắt khiến cho ông ta què chân chính là điềm báo trước, hơn nữa còn sai Thiên Lôi đánh tung mộ phần nhà ông ta! Đây chính là “trời làm ra nghiệp chướng còn có thể hiểu được, người gây ra nghiệp chướng khó có thể sống”, nội trong một tháng, tên Tả Vịnh Thiện tất bị Ngũ lôi cùng lúc giáng xuống, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ nhất tề tập kích: đầu lão tặc trúng phải Hỏa lôi, phát hỏa bốc cháy; ngực trúng Mộc lôi, phủ tạng vỡ nát; lưng trúng Kim lôi, bả vai nổ tung; bụng trúng Thủy lôi, vỡ bụng lòi ruột; chân trúng Thổ lôi, lún đất 5 thước!

Tả Vịnh Thiện đọc được tờ truyền đơn này, tức đến nỗi râu tóc dựng ngược: “Giỏi, giỏi lắm! Để xem rốt cuộc ai chết nhanh hơn!”

Tuy miệng nói vậy, nhưng trong lòng vẫn đầy ngờ vực.

“Người đâu!” Tả Vịnh Thiện gọi một tên hộ pháp, hạ giọng thì thầm, “Lập tức dẫn người về quê ta xem mồ mả đúng là bị phá hủy hay không.”

“Tuân mệnh!”

Tên hộ pháp dẫn theo mấy tên Thanh y gấp rút ngày đêm đến An Huy.

Mấy hôm sau, dưới chân núi Hoàng Sơn ở An Huy, tên hộ pháp và đám Thanh y đến khu mộ của nhà Tả Vịnh Thiện, nhìn quanh thấy mổ mả vẫn yên tĩnh thanh vắng, vài con quạ nhảy đi nhảy lại trong đám cỏ dại, cả khu mộ không có bất kỳ sự phá hoại nào.

“Ha ha ha!” tên hộ pháp cười lớn, “tà thuyết kia không đánh mà tan!”

“Ha ha ha!” trong núi vọng tiếng cười lạnh lẽo, “Lũ đần độn các ngươi trúng kế rồi!”

“Ai?” Tên hộ pháp lập tức thấy sự chẳng lành.

“Còn nhận ra Đại gia ta không?” Đại Bá đầu từ trong thung lũng chậm rãi bước ra.

“Mẹ kiếp! Đúng lúc ông tìm mày! Mày lại tự tìm đến!” tên hộ pháp nói xong toan rút súng.

Đoàng đoàng đoàng, mấy tiếng súng vang lên, Lục Bá đầu và Phàn Nhất Phi tay lăm lăm súng xông ra từ phía sau tên hộ pháp: “Đứng im!” Mất tên Thanh y trúng đạn chết tại chỗ, tên hộ pháp cũng bị bắn xuyên qua tay, máu không ngừng rỏ xuống.

Đại Bá đầu tiến đến gần, dí súng vào đấu tên hộ pháp, nói: “Để ngươi chết khỏi thắc mắc! Bọn ta hoàn toàn không biết mộ phần của nhà Tả Đại Chưởng môn ở đâu nên cố ý tung tin giả, Tổ Gia tiên liệu rằng lũ đần độn các ngươi chắc chắn sẽ sai người đi xem xét mộ tổ. Quả nhiên ngay hôm đó các ngươi liền lên đường, chúng ta lập tức bám theo, cảm ơn Đại Hộ pháp dẫn bọn ta đi tìm mộ tổ chưởng môn nhân nhà các ngươi nhé!”

“Mẹ mày chứ!..” tên hộ pháp hét lên.

Không đợi hắn chửi hết câu, Đại Bá đầu liền bóp cò, đoàng một tiếng, đạn xuyên qua đầu, não và máu bắn tung tóe.

Đại Bá đầu nhìn Lục Bá đầu và Phàn Nhất Phi: “Các anh em, đừng ngây ra thế, bắt đầu đi!”

Ba người lấy mìn giắt bên hông ra, nhét vào mộ tổ của Tả Vịnh Thiện rồi châm ngòi. Bùm một tiếng, cửa mộ bị phá tung!

“Báo thù cho thái công, thái tổ mẫu!” Tiểu Lục Tử hô to rồi nhảy vào trong mộ, giẫm đạp một trận!

“Lục gia, khoan đã, khoan đã! Lấy đồ tế nhuyễn, vàng bạc ra trước đã!” Phàn Nhất Phi sốt ruột nói.

“Lục Tử, cẩn thận chớ làm vỡ đầu lâu!” Đại Bá đầu dặn dò.

Ba người sục sạo đến nửa canh giờ, vơ sạch bách tiền bạc, hài cốt cũng bị giẫm đạp vỡ nát. Duy còn một đầu lâu thì được giữ lại, Đại Bá đầu cắt cả đầu tên hộ pháp đó rồi lấy vải bọc lại, treo cả hai lủng lẳng bên hông, rồi ba người trở về Thượng Hải.

Đêm khuya vắng, trước cửa Viện bảo tàng Thượng Hải mới được khánh thành không lâu, ba bóng đen đang khẩn trương hành động.

“Lục Tử, làm xong chưa?”

“Xong rồi!”

“Nhất Phi thế nào?”

“Không vấn đề gì!”

“Tốt! Hành động!” Đại Bá đầu hạ lệnh.

Lục Bá đầu và Phàn Nhất Phi dồn lực xuống chân, một người chạy đà leo lên trụ tường của Viện bảo tàng, sau đó leo trên mặt tường như con thằn lằn, còn một người phi thân lên đỉnh gác chuông, đem hai cái đầu lâu lần lượt treo lên hai góc lầu gác, đoạn buộc lên mấy dải lụa, trên viết: “Hán gian Tả Vịnh Thiện đã bị trời phạt, mộ phần bị Thiên lôi đánh nổ tung, đầu lâu cha mẹ chính là đây!”

Xong xuôi mọi thứ, ba người lặng lẽ ẩn đi.

Sở dĩ Tổ Gia dặn các bá đầu chọn Viện bảo tàng để treo đầu lâu là bởi lượng người đến đây rất lớn. Viện bảo tàng Thượng Hải sau khi xây xong, lần đầu triển lãm mở cửa có gần 45 ngàn lượt người đến tham quan. Quả nhiên sáng hôm sau, khi dòng người náo nhiệt ùa vào, ai nấy đều sững người, phút chốc đám đông náo loạn, báo cảnh sát cứ báo, kêu gào cứ kêu gào, đám phóng viên Hộ báo cùng đến tham quan, giơ máy ảnh lên chụp lia lịa.

Lúc này ở Thiên Thánh Đạo, Tả Vịnh Thiện vừa ăn sáng xong, đang thắc mắc tên hộ pháp và đám Thanh y sao giờ này vẫn chưa về, bỗng nhiên người hầu vào báo: “Chưởng môn, không xong rồi, không xong rồi!”

Tiếng kêu hớt hải đó khiến Tả Vịnh Thiện tim đập thình thịch: “Có việc gì mà hốt hoảng thế?”

“Mộ tổ của ngài quả thực đã bị gài mìn nổ tung rồi!”

“Hả?”

Cùng lúc đó, người của Bộ Tư lệnh Cảnh bị tay xách hai bọc tròn lủng lẳng đi đến: “Tả Chưởng môn, ngài có thể nhận ra hai người này chứ?”

Hai cái bọc được mở ra, thủ cấp và đầu lâu lăn ra lông lốc, Tả Vịnh Thiện thoạt nhìn rồi kêu lên một tiếng thảm thiết: “Hả?” Rồi đấm ngực giậm chân, “Ta bị lừa rồi!”

Đứng đầu một môn phái đều là người vô cùng thông minh, khi nhìn thấy thủ cấp của tên hộ pháp lăn ra, chẳng cần nói Tả Vịnh Thiện cũng hiểu rằng cái đầu lâu kia chắc chắn là trong mộ tổ nhà mình.

“Ôi...” Tả Vịnh Thiện lại than một tiếng dài, “thù này không trả, ta thề không làm người!” Trong lòng chửi rủa Tổ Gia thâm hiểm.

Ngay trong đêm, bọn Đại Bá đầu gấp rút trở về Hồ Nam, Tổ Gia đích thân đón đợi, bày tiệc tẩy trần cho ba người. Cùng lúc này, bọn Nhị Bá đầu, Tam Bá đầu cũng tiêu diệt được mấy nhóm đuổi xác người Nhật, giết mấy chục tên, tước được vài chục khẩu súng. Anh em Đường khẩu mỗi người được một khẩu, Mộc Tử Liên nghiễm nhiên trở thành đội vũ trang quy mô nhỏ.

Tổ Gia nâng chén rượu, hả lòng hả dạ: “Các anh em vất vả rồi! Vụ này bọn Nhật sẽ không để yên đâu, tiếp sau đây còn có trận đánh ác liệt đấy!”

“Chúng tôi thề chết đi theo Tổ Gia!” các anh em nhất tề hô vang.

“Cạn ly!” Tổ Gia và mọi người một hơi uống cạn.

Đột nhiên, ngọn đèn dầu trên bàn cháy nhỏ dần, nháy nháy mấy cái rồi vụt tắt. Mọi người nhìn xung quanh, cửa rả đều đóng kín, không hề có gió lọt vào.

“Hoa đèn tự tắt” là đại kỵ của phái Giang Tướng. Đèn dầu trên bàn vô duyên vô cớ vụt tắt là điềm cực xấu, liệu việc gì đó sắp xảy ra chăng? Mọi người nhất loạt dồn ánh mắt về phía Tổ Gia.

Duy có Lục Bá đầu điềm tĩnh như thường: “Tắt rồi thì thắp lên lại, có gì ghê gớm chứ!”

Tổ Gia trong lòng bất an nhưng vẫn mỉm cười nói: “Binh đến tướng chặn, nước lên đất ngăn, ta có mấy chục anh em, lại được trang bị vũ khí, các anh em can đảm bảo vệ lẫn nhau, còn sợ gì nữa chứ?”

“Ha ha ha ha!” Trong phòng rộn tiếng cười vang.

Lúc này quản gia thắp đèn lên, Tam Bá đầu đứng dậy, mỉm cười rồi nói: “Chúng ta đều là thầy tướng số, đạo nhất âm nhất dương, vui với số mệnh trời ban chẳng cần bận tâm, người thường lo sợ còn chúng ta thì không, ta có thể dự đoán được cát hung, năm nay Thái tuế Kỷ Mão, địa chi thuộc hành Mộc, tên gọi Mộc Tử Liên của Đường khẩu chúng ta ngũ hành cũng là hành Mộc, lưỡng Mộc thành lâm, được Thái tuế phù trợ, chính là tướng đại cát!”

Ngũ Bá đầu gật đầu nói: “Tam ca nói rất có lý.”

Tổ Gia nghe xong cũng thấy nhẹ nhõm đi nhiều, tuy chỉ là những lời an ủi nhưng nghe rất hợp lý. Từ sau khi Hoàng Pháp Dung ra đi, bá đầu có chút bản lĩnh thực sự trong Đường khẩu cũng chỉ có lão Tam Tiết Gia Nhân và lão Ngũ Trương Kỳ Lĩnh.

“Ái chà, nói hoài những điều này chả có tác dụng gì?” Nhị Bá đầu ngắt lời Tam Bá đầu, “Tổ Gia, bước tiếp theo chúng ta làm gì đây?”

Tổ Gia gật đầu: “Án binh bất động, tĩnh quan kỳ biến, kiến chiêu sách chiêu, dĩ dật đãi lao*!”

Nhị Bá đầu học hành không nhiều, chỉ hiểu mỗi câu “Án binh bất động”, thấy người khác gật đầu, cũng ra vẻ gật gù theo.

RÚT THẺ BÀI THỜI XƯA

“Vùng Lưỡng Hồ này, các thầy tướng số thịnh hành phép bói toán nào?” Tổ Gia đột nhiên chuyển đề tài, phái Giang Tướng suy cho cùng chỉ là bói toán lừa tiền; giết người, phóng hỏa, đạo mộ đều không phải là nghề kiếm sống, đợi sóng gió qua đi, vẫn phải quay về nghề cũ, đạo lý này Tổ Gia hiểu hơn ai hết.

“Theo tôi biết, thuật tướng số ngoài: Bát tự, Lục hào, tướng mặt, tướng tay, còn có một loại chuyên bói bằng cách rút thẻ bài, và cách này càng dễ dọa người ta hơn.” Tam Bá đầu nói.

“Rút thẻ bài?” Tổ Gia không hiểu.

“Vâng, bói rút thẻ bài có nguồn gốc từ bốc quẻ thẻ, chỉ có điều bốc quẻ dùng thẻ trúc, trên chỉ có mấy chữ ví dụ như ‘Thượng thượng thẻ’, bên dưới khắc một câu để giải nghĩa, do không nhiều người biết chữ nên bốc thẻ không phải ai cũng hiểu được, cần phải có người chuyên giải nghĩa; còn rút thẻ bài không giống như vậy, tấm thiệp có kích cỡ bằng quân bài tây, được bọc bằng giấy đỏ, mặt chính có một hình vẽ, mặt sau là lời giải nghĩa, thông thường người rút thẻ bài nhìn hình vẽ là đoán biết ngay được quẻ tốt hay xấu.” Tam Bá đầu giải thích.

“Là những hình gì?” Nhị Bá đầu cũng bắt đầu hứng thú với thuật bói toán này.

“Ha ha, tôi từng được xem toàn bộ thẻ bài của một ông thầy tướng số già, tuy là người khiếm thị nhưng chỉ cần nói qua hình vẽ trên tấm thẻ bài bất kỳ, ông ta có thể đọc vanh vách lời luận giải ở mặt sau, rồi thao thao bất tuyệt giải thích cho anh. Ví dụ, một tấm thẻ bài có vẽ hình người muốn qua sông nhưng lại không qua được, giày thì bị rơi xuống nước. Nhị ca có biết đó nghĩa là gì không?” Tam Bá đầu hỏi.

Nhị Bá đầu gãi đầu nói: “Chắc chắn không phải là việc tốt, giày bị rơi xuống nước, phải chăng ý nói ‘hay đi bên bờ sông, khó tránh khỏi ướt giày’?”

Tam Bá đầu lắc đầu: “Đây là thẻ bài bói chuyện tình cảm, trên đó nói: Hồng loan, Thiên hỷ đùa giỡn chân tình, lại có con sông chắn ngang, lỡ chân dấn vào bước thần tiên, một cuộc phong nguyệt chỉ còn lại sự trống rỗng. Thông thường đến xem chuyện tình cảm, nếu rút phải tấm bài này, thầy bói sẽ nói với anh rằng: đây là điềm xấu, đối phương thay lòng đổi dạ hoặc ngoại tình, cần phải giải hạn mới có thể biến nguy thành an.”

“Ha ha ha ha!” Nhị Bá đầu suýt chút nữa cười rớt nước mắt, “Nhảm nhí! Ta hỏi đệ, nếu ta không hỏi chuyện tình cảm mà hỏi chuyện làm ăn, vậy tấm thẻ bài này phải giải thích thế nào?”

“Ừ, Nhị ca hỏi rất hay!” Tam Bá đầu lắc đầu nguây nguẩy, quay sang nhìn Tổ Gia đang mỉm cười rồi nói tiếp, “Nếu không hỏi về chuyện tình cảm mà là về việc khác, vậy thầy tướng số sẽ tìm cách kéo ta vào vấn đề tình cảm, đây chính là thủ pháp ngụy biện trong nghề! Bộ khẩu quyết trên tấm thẻ bài này có đến hàng ngàn cách giải nghĩa khác nhau, bất luận hỏi về việc gì đều có thể lái theo, Nhị ca có tin không?”

Nhị Bá đầu nghẹo đầu: “Không tin! Ta là người buôn bán, rút được thẻ bài này, ngươi giải thích thế nào?”

“Xin hỏi ngài buôn bán hàng gì?” Tam Bá đầu cũng nhập vai.

“Buôn bán gia súc.” Nhị Bá đầu đáp.

“Vây thì đúng rồi...” Tam Bá đầu gật đầu nói.

“Gì cơ, đúng gì cơ?”

“Tôi đoán ngài không buôn bán gia súc thì buôn dược liệu, nói chung là tướng ‘Quý nhân mã’, phải đây đó lăn lộn kiếm tiền” Tam Bá đầu nói.

“Được rồi, đừng ‘long’* ta nữa, ta hỏi ngươi tấm thẻ bài này giải nghĩa thế nào?” Nhị Bá đầu truy đến cùng.

“Gần đây ngài buôn bán không được tốt, luôn gặp chuyện ngoài ý muốn, đúng không?” Tam Bá đầu hỏi tiếp.

“Hỏi vớ vẩn, làm ăn tốt thì ai đến xem bói làm gì?” Nhị Bá đầu bắt bài Tam Bá đầu.

“Mệnh ngài phạm phải Đào hoa sát!” Tam Bá đầu cao giọng nói, “có người phụ nữ khiến ngài phải bận lòng, phải không?”

Không đợi Nhị Bá đầu đáp lời, Tam Bá đầu bèn giải thích: “Thông thường đến khâu mấu chốt này, đối phương chỉ có hai cách trả lời: đúng hoặc sai. Sở dĩ thầy tướng số mạnh mồm nói kẻ buôn bán có Đào hoa sát, là vì họ bắt đúng mạch trong bản tính con người. Thử nghĩ mà xem, đã là người thì đều có thất tình lục dục, đừng nói là kẻ buôn bán tẩu bắc bôn nam, ngay đến hạng dân bình thường cũng cơm no ấm cật, rậm rật khắp nơi, ví dụ như tên họ Trương đeo đuổi con dâu nhà họ Lý, vợ lẽ nhà họ Lưu dụ dỗ người làm nhà mình, anh rể mò em vợ... chuyện như vậy có quá nhiều, huống hồ là kẻ buôn bán? Cả ngày bôn ba ở ngoài, cô đơn trên đường, không vào kỹ viện chơi gái thì chủ tớ dụ dỗ lẫn nhau, do đó một lời này của thầy tướng số đã vạch rõ thiên cơ, mười người thì tám chín người gật đầu, lúc này thầy tướng số sẽ tận dụng triệt để, đem các loại thuật ngữ tướng số như Hồng loan, Thiên hỷ, Đào hoa... ra mà giải thích, dọa dẫm ‘con gà’ rằng: nếu dàn xếp không tốt những vướng mắc tình cảm, ắt sẽ tán gia bại sản, tiền mất tật mang.”

“Ừm. Tâm và tính con người đều chung đạo lý đó, chỉ cần nắm được điểm này, mọi việc đều sẽ dễ dàng.” Tổ Gia vừa nghe vừa gật đầu.

“Vậy nếu người đó không chịu thừa nhận có Đào hoa sát thì sao? Hoặc giả anh ta không có thật?” Nhị Bá đầu hỏi thêm một câu.

“Điều này không khó, nếu quả thực không có hoặc không thừa nhận, thầy tướng số sẽ nói rằng: dù thế nào tâm thiệp do chính tay anh rút, trên đó viết rất rõ ràng, cách giải thích từ xưa đến nay là như vậy, Nhị ca nếu không tin, đệ cũng chẳng còn cách nào. Như vậy, thầy tướng số đã gán trách nhiệm lên tấm thẻ bài, bản thân chỉ làm người giải nghĩa, thẻ bài là do người đến xem bói rút, ai bảo anh rút phải tấm thẻ bài đó làm gì? Người đi cầu thần, xem bói thường rất ngoan ngoãn, cho rằng thẻ bài mà họ rút phải chắc chắn là do ý trời, chẳng có ai nghĩ đến việc những tấm thẻ này là do người nào chế ra và chế vào lúc nào, càng không ngờ rằng mỗi lời luận đoán trên tấm thẻ bài đều được thầy tướng số vận dụng hết sức điêu luyện. Con người xem bói không ngoài mấy việc: tài vận, quan vận, sắc đẹp, tuổi thọ, do đó chẳng cần biết rút được thẻ gì, thầy tướng số cứ bám theo mạch tham, sân, si của con người mà phán như thần, bách phát bách trúng, luôn luôn ứng nghiệm!” Tam Bá đầu nói.

“Cao minh! Cao minh!” Tiểu Lục Tử nghe đến mê mẩn, tán dương không ngớt.

“Không đúng!” Tam Bá đầu nhìn Lục Bá đầu, “Lục đệ không biết đó thôi, đây chưa phải cao minh gì cả, còn có thứ cao minh hơn nhiều!”

“Là cái gì vậy?” Tiểu Lục Tử cười hỏi.

Tam Bá đầu nhìn Tổ Gia nói: “Thưa thầy, hãy phổ cập chút kiến thức ‘Giang hồ Thập đại môn’* cho mọi người đi chứ?”

Tổ Gia khẽ mỉm cười, nói: “Giang hồ Thập đại môn là: phong, mã, yến, tước, từ, kim, bình, bì, thái, quải, phái Giang Tướng tuy thuộc về Kim môn, nhưng trình độ của chúng ta cao hơn rất nhiều hạng phàm phu tục tử của Kim môn. Năm xưa, trước khi Trương sư gia cưỡi hạc quy tiên, thường kể câu chuyện về Thập đại môn cho ta, để ta nhìn thấu nhân gian hiểm ác, giang hồ khó lường. Sở dĩ không cho mọi người đặt chân vào Giang hồ Thập đại môn, cũng không muốn nhắc đến việc này là sợ các anh em lầm đường lạc lối, quên đi sứ mệnh thay trời hành đạo của mình. Nay chúng ta lưu lạc bên ngoài, chiến loạn liên miên, sống chết không biết thế nào, mọi người học những kiến thức này cũng chẳng hề gì, một là đề cao cảnh giác, tránh bị kẻ khác “lập bẫy trong bẫy”, hai là đợi khi chiến tranh kết thúc, mọi người thành gia lập nghiệp, giảng cho người sau nghe, tránh bị lừa.”

“Vâng ạ!” Tam Bá đầu vừa thấy Tổ Gia gật đầu ưng thuận, tinh thần lập tức phấn chấn, xắn tay áo, thẳng lưng lắng nghe.

MƯỜI THUẬT LỪA ĐẢO TRONG GIANG HỒ

Phong, mã, yến, tước, từ, kim, bình, bì, thái, quải tức chỉ mười thuật lừa đảo, hơn nữa còn chỉ mười loại người hoặc tổ chức hành nghề lừa đảo.

Phong, còn gọi là “ong”, gặp chữ này thì biết là do một tổ chức gây án, giống như loài ong mật lũ lượt kéo đến, thoắt cái mất hút, đến nhanh mà đi cũng nhanh. Lấy một ví dụ:

Cuối đời Thanh, triều đình hủ bại, quan viên làm chuyện phi pháp đều tìm cách luồn trên lót dưới, bỏ ra số tiền lớn nhằm trốn tội. Một viên Tuần phủ Sơn Đông tham ô bị tố cáo, cả nhà cuống cuồng lo lắng. Đang chuẩn bị tiền bạc lo lót, bỗng phát hiện một nhóm người lạ mặt vào thành, bí mật trọ trong khách điếm, y phục khác lạ, nói khẩu âm Bắc Kinh. Tuần phủ thoạt nhìn là biết: “Đây hẳn là người của Đô sát viện trên kinh thành đến điều tra ta!”

Hôm sau, Tuần phủ phái người đến khách điếm bắn tin, xin được hội kiến.

Sau khi vào khách điếm, tên gia nhân một mặt đưa tin, một mặt quan sát động tĩnh. Đám người này cố ý tỏ ra cảnh giác đề phòng, nói rằng thân mang trọng trách, không tiện tiếp khách.

Bị từ chối gặp mặt, tên gia nhân vội quay về báo cáo. Tuần phủ nghe vậy, trong lòng đã có tính toán trước, hôm sau chuẩn bị ngân phiếu 20 vạn lạng sai gia nhân đưa đến khách điếm.

Tên gia nhân đem ngân phiếu đi, rồi quay về với ba thước lụa trắng.

Tuần phủ thấy dải lụa thì vô cùng hoảng sợ: “Đây là ý của quan trên - treo cổ tự vẫn.”

Tuần phủ tìm đủ mọi cách, chạy vạy khắp nơi, gom thêm 20 vạn lạng nữa, trời còn chưa sáng liền phái người đem đi. Lần này tên gia nhân mang về một dải lông công dùng gắn lên mũ quan lại, bên ngoài có một nút kết bình an.

Tuần phủ thấy vậy thở phào, vậy là giữ được cái đầu: “Ngắt đi dải lông công, giáng xuống làm dân thường.” Nhưng bản thân tốn 40 vạn lạng bạc, không thể để giáng thành dân thường như vậy được, phải tiếp tục lo lót, bao nhiêu phỉ thúy mắt mèo, vòng ngọc, ngọc bội trong nhà đều đem cả ra, dẫu là chức Huyện lệnh cũng được, một thời gian sau sẽ thu lại vốn liếng.

Nhóm người này nhận được đồ rồi, biết rằng viên Tuần phủ đã dốc hết gia sản thì nhanh chóng chuồn mất.

Tuần phủ vẫn chắc mẩm chờ tin, không lâu sau người của Đô sát viện thật đến. Viên Tuần phủ thấy họ bước vào cửa, hiển nhiên là hỏi han việc đó, vội niềm nở đón tiếp: “Không biết niên huynh* giá đáo, nên không đón tiếp từ xa!”

Người của Đô sát viện thấy viên Tuần phủ này thật kỳ lạ, chết đến nơi rồi mà vẫn vui mừng như vậy.

“Tuần phủ đại nhân tự nói đi!” Quan Đô sát muốn ông ta tự nhận tội.

Tuần phủ nghe vậy, mặt mày hớn hở, cho là để mình tùy ý chọn một chức quan: “Niên huynh à, hàng Tri châu ngũ phẩm là được rồi! Nếu quả thực không được, tôi sẽ về quê làm chân Tri huyện.”

Quan Đô sát ngây người ra: “Ông nói gì cơ?”

“Ý của niên huynh là?”

“Tên này đầu óc có vấn đề, mau giải lên kinh thẩm tra!” Quan Đô sát ra lệnh, binh lính liền gô cổ lão Tuần phủ lại.

Lúc này Tuần phủ chợt hiểu ra, lớn tiếng mắng nhiếc: “Đồ tham lam, ngươi thật quá độc ác! Nuốt của ta 40 vạn lượng, giờ trở mặt không nhận người!”

Quan Đô sát tức tím cả mặt: “Tên khốn kiếp nhà ngươi dám ngậm máu phun người, đánh hắn cho ta!”

Lúc này đám lừa đảo đã cao chạy xa bay sau này có phát truy nã nhưng cũng không bắt được. Đây chính là “Phong, thoắt đến thoắt đi.

Tam Bá đầu giảng xong, mọi người cười rộ lên, ngay cả Tam Bá đầu Trương Tự Triêm thường ngày u sầu cũng cười theo.

Tam Bá đầu nhấp một ngụm trà, tiếp tục giảng về “Mã”.

Mã chính là đơn thương độc mã, một mình hành nghề lừa đảo, ngược lại với Phong. Loại này không giả đạo nhân thì đóng tăng nhân, khiến người ta có cảm giác là bậc cao nhân đắc đạo. Cuối đời Thanh, Tiền Đường Tăng chính là một ví dụ điển hình.

Một phú hào họ Trương thích làm việc thiện. Một hôm trước cửa nhà ông xuất hiện một người ăn mặc theo lối hòa thượng, lên tiếng gọi to: “Cho tôi 100 lạng bạc!”

Ông Trương mở cửa ra xem: “Ông là ai? Dựa vào đâu mà đòi ta 100 lạng bạc?”

“Không cho tôi sẽ ngồi mãi ở đây!” nói rồi ngồi bệt xuống trước cửa. Lúc đó, ngày đông tháng chạp giá rét, gió lạnh thấu xương.

Ông Trương động lòng: “Cao tăng, có gì vào nhà rồi nói.”

“Không.” vị hòa thượng liền ngồi xếp bằng, khe khẽ nhắm mắt.

Cứ như vậy, vị hòa thượng ngồi yên bất động ba ngày ba đêm liền, không ăn không uống. Mọi người đều cho rằng ông ấy chết cóng rồi, lại gần thì thấy hơi thở vẫn đều, mặt mũi hồng hào, bèn ngạc nhiên nói: “Quả là cao tăng đắc đạo, người thường không chết rét thì cũng chết đói rồi!”

Thế nhưng, ông Trương vẫn không cho tiền.

Vị hòa thượng đó mở to mắt, nói với ông Trương: “Ông có tin ta dùng Như Lai thần chưởng đánh chết ông không?”

“Người xuất gia tấm lòng từ bi, cao tăng sẽ không đánh chết ta đâu.” Ông Trương mỉm cười nói.

Vị hòa thượng gật gù, nói: “Cho ông mở rộng tầm mắt!” Nói đoạn chắp hai tay trước ngực, xoay một cái rất mạnh, hai tay lập tức bùng lên ngọn lửa màu xanh lam, nhưng không hề tỏ ra đau đớn.

Ai nấy chứng kiến đều kinh hãi tột độ: “Thần tiên giáng trần!”

Ông Trương vẫn không đồng ý.

Hòa thượng cuối cùng hết chiêu, móc ra một sợi dây thừng, buộc lên vòng cửa nhà họ Trương rồi châm lửa, hô to: “Ta sẽ dùng Tam muội chân hỏa đốt chết ngươi!” Nói rồi phủi mông bỏ đi.

Thấy sợi dây thừng đó cháy không ngừng nhưng không hề bị đứt, mọi người đều sợ hãi bảo ông Trương: “Đây là đích thực là thần tiên, ngài hãy cho ông ta tiền đi.”

Ông Trương vẫn chỉ mỉm cười không nói.

Hai hôm sau, tên hòa thượng đó lén lút quay lại, gõ cửa nhà ông Trương.

“Làm sao mà ông biết được?” hòa thượng hỏi.

Ông Trương mỉm cười, nói: “Nếu ông không giở những trò này, chưa biết chừng tôi sẽ cho mấy đồng. Ông làm như vậy tôi lại càng muốn chơi với ông. Nếu ai đến tôi cũng khờ khạo cho tiền, vậy há chẳng phải kẻ ngốc sao?”

“Ha ha!”, hòa thượng cười vang.

“Ông ba ngày ba đêm không ăn không uống, không chết đói cũng chẳng chết rét, người khác không biết nhưng ta thì biết thừa. Khi ông mới đến trên cổ đeo một vòng tràng hạt, ta đếm được 36 hạt, ba ngày sau còn có 30 hạt, những hạt châu này được làm từ nhân sâm, có công dụng trừ hàn giữ ấm, kháng bệnh duy trì sinh lực, mỗi ngày ăn hai viên sẽ không việc gì.”

“Ha ha!”, hòa thượng lại cười vang.

“Chiêu Như Lai thần chưởng đó thực chất là bôi một lớp hồ bột có pha thêm phốt-pho lên tay, phốt-pho tuy có thể tự cháy nhưng không làm bỏng được tay ông; còn về sợi dây thừng đốt mãi không đứt đó chắc chắn được ngâm qua nước chat*, những kiến thức này tôi đều biết cả.”

“Ha ha ha,” hòa thượng cười một cách sảng khoái, “đúng là không đánh thì không biết nhau. Bỉ nhân hao tâm tổn sức để lừa ngài, dù không có công thì cũng có cán, ngài nên thưởng cho tôi đôi lạng chứ!”

Ông Trương mỉm cười: “Với trí thông minh này, làm nghề gì đó chẳng tốt hơn sao?” nói rồi lấy một thỏi bạc đưa cho hắn, “hãy kiếm ăn nghiêm chỉnh đi.”

Hòa thượng cầm bạc, ngửa mặt lên trời cười lớn rồi bước ra khỏi cổng.

Lúc sau, ông Trương mới giật mình: “Ôi chao, mình vẫn bị lừa.”

Tam Bá đầu kể đến đây, Đại Bá đầu cười nói: “Tên hòa thượng này còn kém xa Tổ Gia, hắn chỉ dùng đạo cụ để lừa đảo, chả có tý trí tuệ nào.”

Tổ Gia mỉm cười lắc đầu: “Dẫu sao cũng đã lừa được tiền.”

Tam Bá đầu tiếp tục giảng đến “Yến”.

Yến còn gọi là “nhan”, tức chỉ sắc đẹp, xuất phát từ câu “Nhan như ngọc” trong một bài thơ cổ. Yến dùng để chỉ kẻ chuyên dùng sắc đẹp để lừa đảo, đây không đơn thuần chỉ mỹ nữ, mà còn cả mỹ nam nữa. Nữ lừa nam, nam lừa nữ, chỉ cần đối phương có tâm háo sắc là sẽ mắc lừa. Cuối đời Thanh, đám con cháu Bát kỳ* bỏ bê chức trách, có một số vị bối lạc gia* ăn không ngồi rỗi, cả ngày đi qua đi lại ngõ Bát Đại, uống rượu, chơi gái. Lúc này, đám mỹ nữ lừa đảo lợi dụng sơ hở chui vào.

Dạng lừa đảo này có trình độ và học thức cao, biết cầm kỳ thi họa, ngâm thơ điền từ, thỉnh thoảng còn có thể bàn luận tình hình quốc gia đại sự, tán gẫu thế cuộc, lúc thì dựng lên hoàn cảnh bi đát, bất đắc dĩ rơi vào chốn gió trăng này.

Bối lạc gia tất sẽ hỏi rằng: “Cô nương cớ sao lại lo âu phiền muộn như vậy?”

“Ngài không biết đó thôi, tiểu nữ vốn là người ở vùng này vùng kia, bởi gia đạo suy vi mới trôi dạt đến đây, trầm luân trong kiếp phong trần.”

Bối lạc gia bỗng ngỏ lời: “Ta chuộc nàng khỏi chốn này nhé?”

“Tiểu nữ chỉ là kẻ ti tiện, đâu dám để ngài phải nhọc lòng.”

“Cô nương khiêm tốn rồi, có điều cô nương chẳng thể bước vào cổng chính nhà ta được, ta chỉ có thể mua một căn nhà ở ngoài thành, lấy nàng làm lẽ mà thôi.” Bối lạc gia tính toán.

“Vậy thì... tiểu nữ nguyện làm thân trâu ngựa cho ngài!” Mỹ nữ lừa đảo quỳ xuống, vừa khóc vừa nói.

“Mau đứng dậy! Ở đây ta có tờ ngân phiếu năm trăm lạng, nàng hãy cầm lấy đi chuộc thân!”

“Đa tạ!” Cô ta nhận lấy, bước khỏi cửa rồi nhanh chóng chuồn mất, người chồng đợi sẵn bên ngoài vội giúp hóa trang thay đổi y phục, hai người trốn khỏi kinh thành ngay trong đêm.

Đến khi trời sáng, vị bối lạc gia phát hiện ra thì đã quá muộn.

“Ha ha ha!” Nhị Bá đầu cười phá lên, “đồ đần độn, nếu là ta, cho một liều mê hồn tán vật ra đây, xử lý xong rồi hãy nói.”

Tổ Gia cười nói: “Sắc đẹp giấu dao, bất luận là nam hay nữ, một khi bị sắc đẹp làm cho mụ mị, sớm muộn gì cũng xảy ra chuyện.”

“Tổ Gia dạy rất phải,” Tam Bá đầu nói tiếp, “tiếp theo nói đến ‘Tước’, đây là kẻ có sở trường vạch kế hoạch!”

Tước hay còn gọi là “khuyết”, nghĩa là chỗ khuyết, chỉ trên quan trường, nơi nào còn khuyết chức quan nào đó, sẽ có kẻ đến nhậm chức, lấp vào chỗ trống.

Một màn lừa đảo lớn như vậy cần hội đủ nhiều yếu tố, liên quan đến nhiều người, kẻ lừa đảo phải bày mưu tính kế, đến khi hoàn thành mới ôm ngàn quan tiền mà cao chạy xa bay.

Thông thường nhóm lừa đảo này gồm: thiếu phụ xinh đẹp, có tri thức, hiểu lễ nghĩa, dáng vẻ mềm mại yểu điệu, nội tâm thâm độc vô cùng; sư gia, thân phận thực sự của những người này thường là chồng hoặc nhân tình của thiếu phụ, tóm lại hai kẻ phối hợp ăn ý, câu kết với nhau; chuyên gia đạo cụ, giỏi nghề khắc dấu, làm quan ấn, quan bằng; sát thủ, thường do đích thân sư gia đảm nhiệm, cũng có thể là sát thủ chuyên nghiệp, nhưng điều kiện phải là người thân cận của thiếu phụ và sư gia, thông thường là đệ tử hoặc con trai; chim mồi khờ khạo, là bọn văn nhân bất đắc chí, ôm bầu nhiệt huyết báo quốc nhưng lại không có đất để dụng võ.

Năm đầu Dân Quốc, ở Tứ Xuyên từng xảy ra một vụ lừa đảo như vậy.

Trước tiên sư gia thu thập thông tin, thấy huyện trưởng nơi nào đó sắp thuyên chuyển, tức sẽ có vị huyện trưởng mới đến trám vào. Thời điểm đó nạn buôn quan bán chức rộ lên, có khi một kẻ kiêm nhiệm huyện trưởng của bảy tám huyện, huyện trưởng mới cũ đến đi tấp nập, dân chúng còn chẳng rõ rốt cuộc ai mới là huyện trưởng. Mà khi huyện trưởng đến nhậm chức chỉ cần một bức thư ủy nhiệm, dẫn theo một trợ lý là có thể làm việc, chẳng ai biết được đâu là thật đâu là giả.

Sư gia nghe ngóng được huyện trưởng nơi nào đó sắp đến nhậm chức thì thu thập thông tin và địa chỉ của đám văn nhân nơi đó, rồi bắt đầu lập bẫy.

Ngày huyện trưởng mới đến nhậm chức, sư gia bố trí sát thủ mai phục bên đường, gài mìn giết chết viên huyện trưởng, sau đó đoạt lấy công văn nhậm chức.

Giết chết viên huyện trưởng rồi, bắt đầu đến tìm đám văn nhân đã nhắm trước đó.

Đám văn nhân ở nhà rảnh rỗi không có việc gì làm, lúc này chợt có tiếng gõ cửa. Mở ra thấy sư gia đứng đó, khẩn khoản xin: “Tiên sinh, phu nhân nhà tôi gặp nạn, xin ngài cho tá túc một đêm.”

Văn nhân thường là những kẻ đa tình, lại thấy thiếu phụ đứng sau dáng vẻ yêu kiều, bèn động lòng thương xót: “Có gì vào nhà hãy nói.”

“Các ngài làm nghề gì? Vì sao lại lưu lạc đến đây?” Văn nhân hỏi.

“Vâng...” Vị phu nhân thút thít bước vào nhà.

“Ôi,” sư gia bắt đầu kể, “chúng tôi đến nhậm chức huyện trưởng, lão gia nhà tôi chi 40 vạn lạng bạc mới mua được chức này. Tôi là sư gia, hôm nay theo cả nhà lão gia đến nhậm chức, không ngờ gặp phải thổ phỉ trong núi, chúng đặt mìn khiến xe kiệu nổ tan tành, lão gia thì mất mạng, tiền bạc bị cướp hết, chỉ có phu nhân và con trai may mắn thoát chết...” Nói rồi chỉ vào tên sát thủ giết huyện trưởng ban ngày.

“Ừm,” văn nhân gật đầu cảm thông, “thật tội quá.”

“Nay lão gia chết rồi, chúng tôi cũng không biết phải làm sao nữa,” tên sư gia rơm rớm nước mắt, đoạn hỏi, “tiên sinh làm nghề gì?”

Văn nhân thở dài, kể lể: “Tôi là Tú tài khóa cuối cùng của nhà Thanh, có thi cử nhân nhưng không đỗ, sau này chế độ khoa cử bị hủy bỏ, nay đã quá tuổi nhi lập* mà chẳng làm nên trò trống gì.”

“Hả?” Sư gia làm bộ ngạc nhiên, “Tiên sinh là người am hiểu thi thư đây ư?”

“Không dám, không dám.” Tú tài đỏ mặt.

Sư gia ra vẻ nghĩ ngợi giây lát, rồi đột nhiên kêu to: “Phu nhân, được cứu rồi, được cứu rồi!”

Tú tài giật nảy: “Ông vừa nói gì?”

Sư gia nước mắt lưng tròng, nói: “Tiên sinh, chỉ có ngài mới cứu được phu nhân nhà tôi.”

“Sao ông lại nói như vậy?”

“Tiên sinh, lão gia nhà tôi bỏ ra số tiền tích góp cả nửa đời người mới mua được chức quan này, vậy mà chưa một ngày ngồi vào ghế huyện trưởng thì đã bị hại chết, thật oan uổng quá... Tiền cũng đã chi rồi, mối quan hệ cũng thông rồi, chỉ thiếu lên nhậm chức mà thôi, nay phu nhân nhà tôi cô nhi quả mẫu, cần tiền tiền hết, cần người người chết, không nơi nương tựa. Nếu... nếu tiên sinh không chê, hãy lấy phu nhân nhà chúng tôi, sau đó cầm công văn đi nhậm chức, ngài am hiểu thi thư, tất biết cách trị quốc an bang, cai quản cái huyện nhỏ bé này thật quá đơn giản! Như vậy tiền của chúng tôi bỏ ra cũng không phải là vô ích, phu nhân cũng có người nương tựa. Sau khi tiên sinh nhậm chức, có thể phát huy tài năng, tận tâm báo quốc, há chẳng phải là một mũi tên trúng ba bốn đích ư?” Sư gia nói xong nhìn Tú tài.

Tú tài nghe vậy mừng như mở cờ trong lòng, nhưng vẫn lạnh lùng nói: “Ông đang nói gì thế? Phu nhân nhà ông gặp nạn, là sư gia không nghĩ kế tạm thời nào đó, lại đi làm việc cẩu thả này, có dụng ý gì đây?”

Đám lừa đảo này đã nghiên cứu kỹ tâm lý của hạng văn nhân, tú tài bất đắc chí. Lúc này vị phu nhân vén rèm lên nước mắt lã chã bước ra, nói với sư gia: “Tiên sinh đây là người am hiểu thi thư, phẩm chất thanh cao, ta thân hoa tàn nhụy héo đâu xứng với tiên sinh...”

Tú tài thấy vậy thì không thể làm ra vẻ thêm được nữa, vội nói: “Lời phu nhân khiến tôi đoản thọ mất, tôi không hề có ý ghét bỏ phu nhân... chỉ là... chỉ là...”

Phu nhân gạt lệ, ánh mắt thiết tha: “Tiên... sinh...”

Tú tài bủn rủn cả người.

Tên sư gia cười lớn: “Ông trời không tuyệt đường ai bao giờ, ý trời tác thành, ý trời tác thành!”

Và sau đó, Tú tài lấy vị phu nhân rồi lên đường nhậm chức, lòng dạ hỉ hả, vênh vang đắc ý, chỉ muốn đem tất cả tài hoa ra để thực hiện hoài bão lớn lao đã bị kim hãm bấy lâu.

Trong phòng thu chi, sư gia và phu nhân âm thầm tính toán, Tú tài nhậm chức vài tháng, hai người liền lập khống nhiều khoản, vơ vét mười mấy vạn lạng bạc.

Tú tài ban ngày thụ lý án, đêm về ôm người đẹp ngủ, hạnh phúc ngất ngây. Sau tên sư gia lại tặng cho tẩu hút thuốc phiện, nói rằng thứ đồ chơi này có tác dụng hưng phấn tinh thần, ích khí tráng dương, thế là Tú tài lại chìm đắm trong thuốc phiện. Cứ như vậy sau một năm, ngày việc công bận rộn, đêm chiến đấu trên giường, Tú tài chỉ còn da bọc xương, hơi thở yếu ớt. Sư gia và phu nhân thấy hắn không còn giá trị lợi dụng, vào một buổi tối khi Tú tài đang mơ màng ngủ, chúng dùng gối giết anh ta một cách êm thấm, sau đó gom tất cả ngân phiếu bỏ trốn.

Dân trong huyện mấy ngày không thấy huyện lệnh, oán than dậy đất. Quan trên biết tin, vội phái người xuống điều tra, cổng nha môn mở ra, bên trong đồ đạc trống rỗng, bước vào hậu đường thì một mùi hôi thối nồng nặc xộc lên, thi thể huyện lệnh đang bị phân hủy, dòi bọ lúc nhúc.

Nghe đến đây, Tổ Gia thở dài: “Đây là một vụ án điển hình. Sau này chính phủ Dân Quốc có điều tra sự việc này, cũng không tìm được nhóm lừa đảo đó. Than ôi, ác nghiệp gây ra trước kia, đều do tham sân si vô cùng vô tận, kinh Phật nói quả không sai, bản tính con người vốn yếu đuối, một khi tham sân si nổi lên, sẽ mở toang cánh cửa dẫn đến tội ác. Liễu Phàm tứ huấn có câu: ‘Tạo mệnh tại thiên, lập mệnh tại nhân’, là phúc hay họa đều ở lòng người mà ra cả.”

“Chúng ta cũng có thể lừa được như vậy, thậm chí còn làm tốt hơn!” Nhị Bá đầu bỗng lên tiếng.

Tổ Gia lắc đầu: “Chúng ta không làm những việc hãm hại trung lương, bởi sớm muộn gì cũng gặp báo ứng.”

“Phong, mã, yên, tước, từ, kim, bình, bì, thái, quải, nói được bốn loại rồi, còn sau nữa, nói tiếp đi!” Tiểu Lục Tử nóng lòng giục.

Tam Bá đầu nhấp một hớp trà, nói: “Lục đệ chớ nôn nóng, tiếp theo nói đến Từ.”

Từ, chính là đánh vỡ bình gốm. Vùng Thiên Tân rất phổ biến trò này: anh đang đi trên phố, một bà cụ ôm chiếc bình gốm cố ý lao đến va phải, chiếc bình rơi xuống đất vỡ tan, còn bà lão ngã vật ra bất tỉnh nhân sự. Lúc này con lớn con bé, thậm chí cả cháu chắt không biết từ đâu xông ra khóc mẹ kêu cha, rồi lớn tiếng dọa báo quan! Lúc này trong đám đông xuất hiện một người tốt, nói với anh rằng: họ báo quan phủ rồi sẽ lớn chuyện đây, cho họ mấy chục lạng bạc để họ đi là xong. Đợi anh lộn hết túi, dốc hết tiền cho họ rồi, họ sẽ cõng bà lão đi ngay, nói là đi tìm đại phu, kỳ thực là chui vào đâu đó chia chác.

“Nếu đụng nhầm quan gia thì làm thế nào?” Lục Bá đầu chợt hỏi một câu.

“Làm thế nào à?” Tam Bá đầu nhướng mắt, “thì coi như đen thôi! Từng có mấy gã ngu đụng phải Lý Hồng Chương cải trang vi hành ở Thiên Tân, chúng nằm lăn lộn dưới đất quyết không chịu đứng dậy, cuối cùng quan binh đến quát rằng các ngươi đã không muốn dậy thì cứ nằm đây đừng dậy nữa! Đám người đó thấy tình hình không ổn, vội lồm cồm bò dậy, ôm chân Lý Hồng Chương nói rằng chúng tôi chỉ đùa ngài chút cho vui thôi. Lý Hồng Chương đâu phải là người vui tính, thế là ông ra lệnh gô cổ mây tên ngốc đó xử theo pháp luật!”

“Ha ha ha ha!... ” mấy bá đầu cười vang.

Tam Bá đầu tiếp tục: “Kim chính là thầy tướng số, tức là người như chúng ta đây; Bình, là kẻ Bình thư* đầu đường cuối ngõ để thu hút nhiều người đến nghe hơn, kiếm được nhiều tiền hơn, chỉ với một đoạn chuyện rất ngắn họ thêm mắm dặm muối, kéo dài lê thê, chính sử dã sử, thêu dật vô căn cứ, mục đích là lừa dân chúng nghe đến nỗi mê mẩn tâm thần, có như vậy thu nhập mới không đứt đoạn; Bì chính là bán thuốc, trong chiếc hồ lô đựng các loại thuốc vớ vẩn, vô tác dụng, nhưng với dân chúng nghèo khổ không mấy hiểu biết, đây lại chính là tiên đan diệu dược, với kẻ lừa đảo đây chính là bảo bối hành nghề; Thải chính là nghệ thuật biến hóa, người phương Tây gọi là ảo thuật, như: từ trong tay áo bay ra con chim bồ câu, trên đầu bốc khói, cách không lấy vật, miệng nở sen trắng, đó đều là mánh khóe của kẻ lừa đảo; Quải chính là mãi nghệ trên phố, vừa biểu diễn vừa bán thuốc, mở màn là dùng chùy đập vỡ phiến đá trên ngực, rồi đến đâm kiếm vào họng, hoặc tay không chặt gạch, hoặc dùng tay vớt đồng tiền trong chảo dầu sôi, sau đó phô trương khoe mẽ khí công của mình lợi hại ra sao, rồi nói đây đều là nhờ ‘đại lực hoàn’, tiếp sau đó bắt đầu bán thuốc, tất cả đều là lừa đảo...”

Đêm đó, dường như anh em Đường khẩu được hành tẩu trong giới giang hồ xưa, Tam Bá đầu say sưa giảng giải, mặt mũi hớn hở, anh em nghe như mê như say. Sau này, những thuật lừa đảo đó dần được vạch trần trên tờ Thời ngôn báo ở Bắc Bình bởi một người có bút danh là Vân Du Khách, rồi được tập hợp thành sách với tên gọi Giang hồ tùng đàm. Vị Vân Du Khách này chính là nhà phê bình nghệ thuật nổi tiếng Trung Quốc - Liên Khoát Như.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3