Hai Vạn Dặm Dưới Biển - Chương 33 - 34

Chương 33

Một Lục Địa Đã Biến Mất

Sáng hôm sau, 19 tháng 2, Nét sang phòng tôi. Tôi cũng đang chờ Nét tới. Nét có vẻ rất buồn nản.
-Thế nào, giáo sư?
-Nét hỏi.
-Thế nào, ông Nét?
-Tôi trả lời.
-Tình hình diễn biến bất lợi cho chúng ta, phải không?
-Lẽ ra lão thuyền trưởng chết tiệt này phải cho tàu đỗ lại đúng lúc chúng ta chuẩn bị chạy trốn mới phải!
-Nhưng ông Nét ạ, Nê-mô phải đến chỗ chủ ngân hàng.
-Sao lại chủ ngân hàng?
-Đúng
hơn là đến ngân hàng. ý tôi muốn nói xuống đại dương là nơi những của
cải của Nê-mô được bảo quản tốt hơn bất cứ một ngân hàng nhà nước nào.
Tôi kể cho Nét nghe những chuyện xảy ra đêm qua, trong lòng thầm hy vọng
rằng sẽ gây cho Nét ý nghĩ không bao giờ rời bỏ Nê-mô.

Nhưng câu chuyện của tôi chỉ làm Nét rất ân hận là đã không dự cuộc
tham quan vũng biển Vi-gô, nơi xưa kia là chiến địa. Nét nói:
-Tuy vậy chưa đến nỗi tuyệt vọng. Thua keo này ta bày keo khác! Tối nay có thể...
-Tàu chạy về hướng nào?
-Tôi hỏi.
-Tôi không rõ.
-Thôi
được, trưa nay ta sẽ biết. Nét sang chỗ Công-xây. Còn tôi thì mặc quần
áo rồi sang phòng khác. Kim địa bàn chỉ hướng tây-nam. Tàu quay lưng về
châu Œu. Tôi nóng lòng mong đợi lúc tọa độ được ghi lên bản đồ. Đến gần
11 giờ rưỡi tàu nổi lên mặt biển. Tôi chạy vội lên boong. Nét Len đã lên
đó trước tôi. Chẳng thấy gì ngoài cảnh sóng nước mênh mông và vài cánh
buồm phía chân trời. Mấy chiếc tàu buồm chắc đang chờ gió xuôi để vòng
qua mũi Hảo Vọng. Trời đầy mây đen. Nhất định sẽ có bão. Nét tức điên
lên. Anh ta căng mắt nhìn qua lớp sương mù phủ kín chân trời. Nét vẫn hy
vọng sau màn sương đó là mảnh đất anh ta mong đợi. Đến giữa trưa, mặt
trời ló ra. Viên thuyền phó lợi dụng lúc đó để xác định độ cao của mặt
trời. Biển bắt đầu động, nắp tàu đóng lại, tàu lại lặn xuống. Một giờ
sau, tôi đưa mắt nhìn bản đồ thì thấy tàu đang cách bờ biển gần nhất là
một trăm năm mươi dặm. Vấn đề chạy trốn không thể đặt ra được. Các bạn
có thể hình dung ra sự tức giận của Nét khi tôi báo cho anh ta biết tọa
độ của tàu. Về phần tôi, tôi chẳng thất vọng gì lắm. Đúng là tôi vừa
trút được một gánh nặng và lại có thể yên tâm làm tiếp các việc bình
thường của mình. Buổi tối, khoảng 11 giờ, thuyền trưởng Nê-mô đột ngột
vào chỗ tôi. ông ta rất lịch sự hỏi tôi đêm qua không ngủ được có mệt
không. Tôi trả lời là không mệt.
-Thế thì xin mời giáo sư tham gia một cuộc dạo chơi kỳ thú.
-Thưa thuyền trưởng, tôi rất xúc động trước sự quan tâm của ngài.
-Giáo sư đã xuống đáy biển sâu ban ngày dưới ánh sáng mặt trời. Ngài có muốn quan sát đáy biển vào đêm tối trời không?
-Tôi rất sẵn sàng!
-Xin báo để ngài biết trước là chuyến đi này sẽ rất vất vả, vì phải đi xa, phải trèo núi và đường không được tốt lắm.
-Thưa thuyền trưởng, tất cả những cái đó chỉ kích thích thêm sự tò mò của tôi. Tôi sẵn sàng đi cùng ngài.

-Xin mời giáo sư đi! Giáo sư cần mặc quần áo lặn. Vào phòng để quần
áo, tôi chẳng thấy Nét và Công-xây, cũng chẳng thấy một thủy thủ nào. Họ
không tham gia chuyến đi đêm này. Trái với lệ thường, thuyền trưởng
không bảo tôi mang Nét hay Công-xây đi theo. Mấy phút sau, chúng tôi đã
chuẩn bị xong. Tôi đeo lên lưng những bình chứa không khí nhưng không
được trang bị đèn điện. Tôi lưu ý Nê-mô về điều đó, ông ta trả lời:
-Chúng
ta sẽ không cần đến đèn điện. Tôi cảm thấy hình như mình nghe không rõ,
nhưng không hỏi lại được vì Nê-mô đã chụp chiếc mũ sắt lên đầu. Tôi
cũng làm theo Nê-mô. Tôi được cấp thêm một chiếc gậy đầu bịt sắt. Mấy
phút sau, chúng tôi đã đặt chân xuống đáy Đại Tây Dương ở độ sâu ba trăm
mét. Sắp tới nửa đêm. Dưới đáy biển tối đen như mực, nhưng Nê-mô chỉ
cho tôi xem vệt đo đỏ cách tàu Nau-ti-lúx hai hải lý. Đó là lửa ư? Nếu
là lửa thì bắt nguồn từ đâu? Và sao lửa lại cháy được trong chất lỏng?
Tôi không thể giải thích được. Nhưng dù sao ngọn đuốc lập lòe ấy cũng
giúp chúng tôi dễ đi hơn. Bây giờ tôi hiểu rằng đèn điện quả là không
cần. Tôi đi cạnh Nê-mô, hướng theo ngọn lửa dẫn đường ấy. Đáy biển lúc
đầu còn phẳng lặng, sau dâng cao dần. Chúng tôi chống gậy bước những
bước dài nhưng chậm vì đáy biển đầy tảo và đá giăm...
Chúng tôi đi
chừng nửa tiếng đồng hồ. Đáy biển ngày càng nhiều đá. Những con sò, các
lớp giáp xác nhỏ li ti phát ra ánh sáng lân tinh yếu ớt. Tôi thoáng thấy
những đống đá được hàng triệu động vật giống như những bông hoa và tảo
phủ kín. Chân tôi trượt trên tấm thảm thực vật dính nhơm nhớp và nếu
không có gậy thì tôi đã bị ngã nhiều lần. Quay lại, tôi vẫn thấy ánh
sáng đèn pha tàu Nau-ti-lúx. Chúng tôi càng đi xa thì ánh sáng đó càng
mờ đi. Những đống đá dưới đáy đại dương mà tôi vừa nói trên mang dấu vết
một sự sắp đặt nhất định mà tôi không giải thích nổi. Ngoài ra còn một
số hiện tượng kỳ lạ nữa. Tôi cảm thấy dưới đế giày bằng chì của tôi đang
lạo xạo những xương khô. Phải chăng chúng tôi đang bước trên mảnh đất
đầy xương?... ánh sáng soi đường cho chúng tôi ngày càng rực đỏ, tựa như
ánh lửa của đám cháy phía chân trời. Lửa cháy trong nước kích thích
tính tò mò của tôi đến cao độ. Có phải đó là ánh điện không? Hay là tôi
đang được chứng kiến một hiện tượng của thiên nhiên mà các nhà bác học
chưa hề biết? Tôi thoáng có ý nghĩ: biết đâu cái lò lửa ngầm dưới biển
này không do bàn tay con người duy trì? Biết đâu tôi chẳng gặp ở đây
những người bạn, những người đồng chí của Nê-mô, đang sống một cuộc đời
độc đáo như Nê-mô? Biết đâu tôi chẳng gặp cả một đám người vì chán ghét
những ràng buộc trên mặt đất mà đi tìm độc lập tự do dưới đáy biển?
Những ý nghĩ vớ vẩn, mung lung cứ ám ảnh tôi mãi. Trong trạng thái bị
kích thích cao độ ấy, nếu có gặp một thành phố xây dưới nước như Nê-mô
hằng mơ ước, thì tôi cũng sẽ cho là chuyện rất tự nhiên. Con đường chúng
tôi đi ngày càng sáng tỏ. Một ánh hào quang trăng trắng phát ra từ phía
sau ngọn núi cao hơn đáy biển hai trăm mét. Nhưng ánh hào quang đó chỉ
phản ánh những tia sáng bị khúc xạ trong nước biển. Bản thân cái nguồn
phát sáng thì ở bên kia ngọn núi. Thuyền trưởng Nê-mô vững bước giữa
những đống đá ngổn ngang. ông ta rất thông thạo con đường này. Tôi yên
tâm đi theo Nê-mô. Đối với tôi, Nê-mô giống như một vị thần biển! Tôi
ngắm nhìn vóc người cao lớn của Nê-mô in trên ánh hồng. Một giờ đêm
chúng tôi tới chân núi. Nhưng muốn trèo lên sườn núi dốc đứng thì phải
theo những con đường nhỏ rất khó đi nằm giữa rừng cây rậm rạp. Đây đúng
là một rừng cây đã chết, trụi hết lá, đã hóa đá vì tác động của muối
biển... Cảnh tượng thật chẳng lời lẽ nào tả xiết! Thuyền trưởng Nê-mô
vẫn đi trước. Tôi không muốn bị tụt lại nên cố theo sát Nê-mô. Chiếc gậy
rất được việc. Chỉ cần bước hụt là có thể lao xuống vực thẳm nằm kề bên
những con đường hẹp. Tôi nhảy qua những khe núi sâu mà nếu ở trên cạn
thì tôi đành chịu không dám vượt...

Tôi hiểu rõ rằng những điều tôi miêu tả về cuộc tham quan dưới đáy
biển này chắc các bạn sẽ cho là chuyện bịa hoàn toàn! Nhưng không, tôi
không mơ ngủ đâu! Tất cả những cái đó tôi đều nhìn thấy tận mắt! Chúng
tôi rời tàu Nau-ti-lúx đã được hai tiếng đồng hồ. Chúng tôi đã vượt qua
dải rừng. Phía trên chúng tôi chừng ba mươi mét là đỉnh núi nhọn hoắt.
Từng đàn cá từ phía dưới chân chúng tôi bơi lên như những bầy chim hoảng
sợ vụt bay lên khỏi bụi cỏ. Tim tôi đập thình thịch mỗi khi có một vòi
bạch tuộc ghê rợn, hay một càng cua khủng khiếp bỗng chặn ngang đường!
Hàng ngàn chấm sáng long lanh trong bóng đêm. Đó là mắt những con tôm
khổng lồ đang lẩn vào hang, những con cua vĩ đại đứng sừng sững như
những cỗ đại bác đặt trên xe, những con bạch tuộc đáng sợ đang ngoe
nguẩy vòi như những đàn rắn. Thật là một thế giới quái dị! Nhưng thuyền
trưởng Nê-mô đã quen với những quái vật đó nên chẳng chú ý gì tới chúng
cả. Chúng tôi đã tới một cao nguyên, nơi có nhiều cái bất ngờ đang chờ
đợi tôi. Trước mắt tôi hiện ra những cảnh hoang tàn xưa kia do bàn tay
con người chứ không phải do thiên nhiên tạo nên. Những phiến đá chồng
chất lên nhau có vẻ lộn xộn nhưng cũng có thể đoán ra xưa kia là những
cung điện, đền đài, nhà cửa. Tôi đang ở đâu vậy? Tôi cần biết điều đó,
nhưng không thể gọi Nê-mô được. Tôi bèn nắm lấy tay ông ta. Nhưng Nê-mô
lắc đầu chỉ lên đỉnh núi, hình như muốn nói:

“Cứ đi đi! Trèo lên cao nữa đi!" Tôi ráng sức đi theo Nê-mô và mấy
phút sau thì tới đỉnh núi. Tôi nhìn lại. Sườn núi chúng tôi vừa trèo lên
chỉ cao hơn đáy biển chừng hơn hai trăm mét. Nhưng sườn núi bên kia thì
cao hơn gấp đôi và đâm thẳng xuống một hõm sâu. Trước mắt tôi trải ra
một khoảng không gian mênh mông sáng lòa. Ngọn núi chúng tôi đang đứng
là núi lửa, cách đỉnh chừng mười lăm mét, từ miệng núi phun ra những
dòng thác lửa cuồn cuộn. Núi lửa, như một bó đuốc khủng khiếp, chiếu
sáng cả một đáy biển bằng phẳng nằm dưới chân núi. Tôi nói núi lửa ngầm
phun ra dung nham chứ không phun ra lửa. Muốn có lửa thì cần có không
khí no dưỡng khí, và lửa không cháy được trong nước. Trước mắt tôi hiện
ra một thành phố chết: những tòa nhà đổ nát, những đền đài hoang tàn. Xa
xa là những ống dẫn nước khổng lồ. Xa hơn một chút là vết tích của một
hải cảng, nơi xưa kia có nhiều tàu buôn và tàu chiến ra vào. Xa hơn nữa
là những dãy nhà đổ nát, những dãy phố hoang vu. Tôi đang ở đâu? ở đâu?
Tôi
muốn biết điều đó, muốn biết điều đó dù có phải vứt bỏ cái mũ sắt đang
bảo vệ đầu! Nhưng thuyền trưởng Nê-mô đã bước đến gần tôi và ra hiệu cho
tôi đừng làm như vậy. Sau đó, ông ta lấy một viên đá trắng mềm viết lên
tường một chữ: át-lan-tích át-lan-tích! Đó là một lục địa mà sự tồn tại
đã được nhiều nhà bác học tranh cãi. Lục địa đó đã nằm trước mắt tôi
với tất cả những bằng chứng của tai họa đã xảy ra! Cách đây nhiều thế
kỷ, những trận lũ lụt và động đất đã hoành hành trên hành tinh chúng ta.
Chỉ cần một đêm và một ngày là lục địa át-lan-tích đã bị xóa sạch khỏi
mặt đất. Chỉ có những ngọn núi cao nhất là còn được trông thấy ngày nay!
Tôi nhớ lại tất cả những điều đó khi đọc chữ "át-lan-tích" của Nê-mô.
Số phận kỳ lạ đã đưa tôi đến một ngọn núi của lục địa đã bị mất! Tôi
được sờ mó vào những hòn đá của những tòa nhà đồng thời với các thời đại
địa chất! Tôi được bước chân lên mảnh đất mà những người nguyên thủy đã
đi! Dưới chân tôi lạo xạo những vật hóa thạch đã sống ở những thời kỳ
xa xưa nhất dưới bóng cây giờ đây đã biến thành đá.

Chao ôi, sao tôi không có đủ thì giờ để theo sườn núi dốc đứng mà đi
xuống! Tôi muốn đi suốt lục địa huyền diệu này xưa kia hẳn đã nối liền
châu Phi với châu Mỹ! Tôi muốn thăm các thành phố cổ xưa nhất, nơi sinh
sống của những người khổng lồ, thọ hàng thế kỷ, có đôi tay hùng mạnh vần
đi được những tảng đá chống lại được sự tàn phá của nước biển! Biết đâu
một ngày kia lục địa át-lan-tích bị chôn vùi dưới đáy biển sẽ nổi lên
mặt nước?... Trong khi tôi mơ tưởng và cố ghi lại trong trí nhớ tất cả
những chi tiết của cái cảnh hùng vĩ này thì thuyền trưởng Nê-mô tì tay
vào bức tường đầy rêu và im lặng. Nê-mô đang nghĩ tới những thế hệ đã
mất đi hay đang tìm lời giải đáp cho những số phận của con người? Hay
Nê-mô đến đây để tìm nguồn sức mạnh mới trong quá khứ lịch sử, để sống
trong giây lát như những người khổng lồ ngày xưa? Tôi đặt ra mọi giả
thiết để tìm hiểu những ý nghĩ của Nê-mô và chia sẻ những ý nghĩ đó với
ông ta. Suốt một tiếng đồng hồ chúng tôi ngắm nhìn khoảng đất bằng trải
ra dưới ánh sáng của dung nham cháy đỏ đôi khi sáng rực. Lúc đó mặt
trăng xuyên qua lớp nước dày và rọi những tia sáng yếu ớt xuống lục địa
bị chìm ngập. Nê-mô đứng thẳng dậy, đưa mắt nhìn lần cuối rồi ra hiệu
cho tôi đi theo. Chúng tôi xuống núi rất nhanh. Sau khi vượt qua khu
rừng hóa thạch, tôi thấy ánh đèn pha của tàu Nau-ti-lúx lấp lánh như một
vì sao. Nê-mô hướng theo ánh đèn đó. Chúng tôi trèo lên tàu đúng lúc
những tia sáng đầu tiên của mặt trời mọc vừa chạm mặt biển.


Chương 34

Mỏ Than Ngầm Dưới Biển

Hôm sau, 20 tháng 2, tôi dậy rất muộn vì đêm trước khá mệt. Lúc ngủ
dậy đã 11 giờ. Tôi vội mặc quần áo rồi ra xem hướng đi của tàu
Nau-ti-lúx. Địa bàn vẫn chỉ hướng nam, tốc độ hai mươi hải lý một giờ,
độ sâu một trăm mét. Công-xây đến. Tôi kể cho anh ta nghe về cuộc tham
quan đêm vừa rồi. ạ cửa phòng khách mở nên Công-xây kịp nhìn thoáng qua
một phần của lục địa bị chìm ngập. Tàu chạy trên đáy biển mười mét. Nó
lướt trên lục địa át-lan-tích như một quả cầu khinh khí gặp gió lướt
trên những cánh đồng cỏ. Nói đúng hơn, nó chạy nhanh như một con tàu tốc
hành... Những cảnh vật kỳ diệu lọt vào ánh đèn pha trên tàu và hiện ra
trước mắt chúng tôi. Trong khi đó, tôi kể cho Công-xây nghe về lục địa
át-lan-tích. Công-xây nghe tôi một cách lơ đãng. Sự chú ý của anh ta bị
thu hút vào hàng đàn cá đang bơi quanh tàu. Theo thói quen, khi thấy cá
là Công-xây lao đầu vào việc phân loại và thoát li mọi thực tế. Vì vậy
tôi chỉ còn biết làm theo anh ta và cùng anh ta tìm hiểu các loại cá ở
đây. Cá ở Đại Tây  Dương chẳng khác biệt gì lắm với cá ở các biển khác.
Vừa quan sát động vật, tôi vừa ngắm cảnh bình nguyên của lục địa
át-lan-tích. Đôi khi đáy biển mấp mô nhiều khiến tàu phải chạy chậm lại
và trườn lách qua những khe đồi nhỏ hẹp khéo léo như một con cá voi. ở
đôi chỗ địa hình phức tạp quá không len lỏi qua được thì con tàu lại vọt
lên cao, vượt qua vật chướng ngại, rồi lại lao xuống cách biển chỉ vài
mét. Gần bốn giờ chiều, tính chất của đáy biển bắt đầu thay đổi. Nó
không còn phủ một lớp bùn dày xen với những cành cây hóa đá nữa mà ngày
càng nhiều đá hơn. Tôi thấy tàu đang chạy vào một vùng núi, chấm dứt
cảnh đồng bằng mênh mông. Tôi lại nhận thấy chân trời phía nam bị ngăn
lại bởi một dãy núi cao chắc không vượt qua được, ngọn núi chắc nhô khỏi
mặt biển. Bức tường đá đó hẳn là chân một lục địa hay ít nhất là chân
một hòn đảo. Tọa độ chỗ này không được ghi trên bản đồ -biết đâu không
phải là cố ý? -nên tôi không xác định được vị trí con tàu. Nhưng tôi cảm
thấy hình như bức tường đá này là đầu cùng của lục địa át-lan-tích mà
tôi chỉ được thấy một phần nhỏ. Đêm đến, tôi vẫn không ngừng quan sát.
Công-xây trở về phòng riêng. Tôi còn lại một mình trong phòng khách. Tàu
Nau-ti-lúx đang tới sát bức tường đá thì ô cửa sổ đóng lại. Tôi chưa
hình dung được nó sẽ vượt qua trở ngại này thế nào, nhưng vẫn phải quay
về phòng riêng. Tàu đỗ lại. Tôi ngủ thiếp đi với ý định là sẽ dậy sớm.
Nhưng sáng hôm sau, khi tôi ra phòng khách thì đã tám giờ. Tôi nhìn đồng
hồ chỉ độ sâu thì biết tàu đã nổi lên mặt nước. Có tiếng chân người
trên boong. Nhưng sao không thấy thân tàu lắc lư như mỗi lần tàu chạy
trên mặt biển? Tôi đến chỗ nắp tàu. Nắp tàu mở. Tôi nhìn ra ngoài nhưng
chỉ thấy xung quanh tối mịt mùng. Chúng tôi đang ở đâu? Tôi lầm lẫn rồi
hay sao? Chẳng lẽ bây giờ còn là đêm? Không! Chẳng thấy một ngôi sao nào
trên trời! Dù có là đêm đi nữa cũng không thể tối đến mức này. Tôi
hoang mang. Có tiếng người hỏi tôi:

-Giáo sư đấy à?
-A! Thuyền trưởng Nê-mô! Chúng ta đang ở đâu vậy?
-Thưa giáo sư, đang ở dưới đất.
-ở dưới đất!
-Tôi sửng sốt.
-Nhưng tàu vẫn chạy?
-Vẫn chạy như thường.
-Tôi xin chịu, không sao hiểu được.
-Ngài
hãy ráng chờ mấy phút. Tôi sẽ cho bật đèn pha, và nếu ngài muốn biết rõ
tình hình thì ngài sẽ được toại nguyện. Tôi lên boong đợi. Tối đến nỗi
tôi không nhìn thấy Nê-mô nữa. Tuy vậy, ngước nhìn lên, tôi vẫn thấy
đỉnh đầu một vệt sáng mờ lọt qua một lỗ thủng hình tròn. Nhưng lúc đó
đèn pha được bật lên ánh đèn chói lòa nuốt trửng mất vệt sáng mờ kia.
ánh điện sáng quắc, làm tôi phải nhắm mắt lại trong một phút. Sau đó tôi
bắt đầu nhìn xung quanh. Tàu Nau-ti-lúx đỗ bập bềnh gần bờ đá cao giống
như bến cảng. Biển cả biến thành một cái hồ có tường đá bao quanh. "Hồ"
có đường kính khoảng hai hải lý, chu vi khoảng sáu hải lý. Mực nước
trong "hồ" không thể khác mực nước đại dương được vì "hồ" và biển nhất
định thông nhau. Nhưng bức tường đá dần dần chụm lại ở độ cao năm trăm
hay sáu trăm mét, tạo thành một cái phễu khổng lồ lật ngược. Giữa phễu
có một cái lỗ nhỏ để lọt qua ánh sáng mặt trời mờ mờ. Trước khi nghiên
cứu cấu tạo bên trong của cái hang lớn này và tìm hiểu xem nó do bàn tay
con người hay do thiên nhiên tạo nên, tôi hỏi Nê-mô:

-Thưa thuyền trưởng, tôi vẫn chưa hiểu chúng ta đang ở đâu.
-Trong
lòng một núi lửa đã tắt. Trong khi giáo sư ngủ tàu Nau-ti-lúx đã lọt
vào đây qua một lạch nước tự nhiên ở độ sâu mười mét. Đây chính là bến
tàu! Một bến tàu vững chắc, thuận tiện, không bị ai nhòm ngó và tránh
được gió tất cả các cấp! Giáo sư khó tìm thấy ven bờ các lục địa hay đảo
một nơi nào, bảo đảm cho tàu thuyền tránh bão tốt hơn ở đây!
-Thưa
thuyền trưởng, rất đúng. ở đây chúng ta được an toàn. Trong lòng núi lửa
thì có cái gì đe dọa nổi chúng ta nữa! Nhưng ở đỉnh núi tôi thấy một
cái lỗ.
-Đúng, đó là miệng núi lửa xưa kia phun ra dung nham hơi lưu
huỳnh và lửa. Bây giờ miệng núi cung cấp cho chúng ta không khí trong
lành. Vùng biển này rất nhiều đảo có nguồn gốc núi lửa. Đối với người đi
biển bình thường thì đó chỉ là dải đá ngầm, còn đối với ta thì đó là
một hang đá khổng lồ. Tôi tình cờ phát hiện ra nó, tình cờ mà rất có
lợi.
-Thưa thuyền trưởng, có thể xuống đây qua miệng núi lửa được không?
-Không
xuống cũng không lên được! Từ chân núi lên khoảng ba mươi mét thì còn
trèo được, cao hơn nữa thì vách núi hình cuốn, trèo sao được!

-Thưa thuyền trưởng, tôi thấy ở mọi nơi mọi lúc thiên nhiên đều phục
vụ ngài. Trong hồ nước này, ngài được an toàn tuyệt đối. Chẳng ai phá vỡ
được sự yên tĩnh ở đây. Nhưng ngài cần bến tàu này làm gì? Tàu
Nau-ti-lúx đâu có cần bến!
-Thưa giáo sư, đúng là tàu không cần bến.
Nhưng nó cần điện để chạy, cần có bình điện để sản ra điện năng, cần
na-tri để nạp các bình điện, cần than để có na-tri, cần mỏ than để khai
thác than. Từ những thời đại địa chất xa xưa, biển đã nuốt chửng nhiều
rừng cây, rừng cây đã biến thành than đá và trở thành nguồn nhiên liệu
vô tận.

-Nghĩa là các thủy thủ của ngài làm cả công việc thợ mỏ nữa?
-Vâng,
đúng vậy. Những mỏ than đá nằm dưới nước. Các thủy thủ của tôi mặc đồ
lặn, mang theo cuốc chim xuống đây đào than. Khi tôi đốt than để có
na-tri thì khói theo miệng núi thoát ra khiến núi lửa có vẻ đang hoạt
động.
-Chúng tôi có được thấy thủy thủ của ngài đào than không?
-Không!
Tôi đang vội hoàn thành chuyến đi vòng quanh thế giới này. Vì vậy tôi
chỉ cho lấy chỗ than dự trữ sẵn ở đây thôi. Lấy xong than, nghĩa là đúng
ngày kia, chúng ta sẽ tiếp tục cuộc hành trình.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3